Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

TƯ TƯỞNG TÀI MỆNH TRONG TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.16 KB, 4 trang )

TƯ TƯỞNG TÀI MỆNH TRONG TRUYỆN KIỀU
Thanh Tâm
Những con sóng bạc trường giang lắng mình, trở về hội ngộ cõi uyên nguyên huyền ảo, cõi ban sơ hoa
hạnh ngân dài. Không gian tĩnh lặng. Hết thảy mọi tinh thể lần lượt hiển hiện như tự thân ban đầu của nó.
Những cánh nhạn vút qua rồi lặng lẽ. Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh. Nhạn quá hàn
đàm, nhạn khứ nhi đàm vô ảnh hiện. Sự sống trở nên uyên mặc. Những tia nắng bừng lên, hội nhập
từng hạt ánh sáng soi chiếu vào vạn vật. Những chiếc lá với bao nét gân xanh; những cánh chuồn mong
manh rớt từng tia nắng, phô bày một mảnh thiên y tuyệt diễm. Cuộc đời không còn mờ ảo, bí hiểm dâu
bể ngút ngàn. Kiếp người hiện ra đích thực như thị. Ánh sáng nhân duyên trong suốt, soi qua mọi vật thể,
rọi mọi nơi tuyệt mù sương khói mênh mang…
Những vết hằn rõ nét trên đôi mắt chàng lãng tử, năm tháng bôn ba trong cuộc lữ duyên tình. Bao nhiêu
sợ hãi, ước vọng về tình yêu, về cuộc sống hội tụ và trổi nên sức sống phiêu bồng trong dòng chảy mênh
mang của kiếp người, trong cõi nhân gian hòa quyện cùng mưa nắng. Những sợi tơ trời lung linh huyền
ảo thả mình, buông nắng. Con người cất lên tiếng nói chứa chan nỗi niềm dâu bể; một cung đàn phổ
điệu tình ca phóng vút qua muôn sông ngàn suối, vượt quán xá chiều hôm canh khuya gác trọ với những
bóng dáng mờ ảo ngút tận con đường nhận thức cuộc sống.
“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình”[1]
Con đường truy nguyên thực tại như áng tơ trời băng qua sa mạc trường ca hoang vu, cô tịch. Người lữ
khách bước đi trên mặt đất phất phơ tà áo, vươn tay níu bầu trời, uống giọt sương mờ ảo, thở hiu hắt
từng ngụm khói đá xanh; lòng lắng lòng, từ trong sâu thẳm tiếng nói vọng về như bản hòa tấu dịu êm, du
dương.
Từ đó, bóng dáng con người đích thực hiển hiện rõ ràng như thị giữa chiêm bao mộng mị. Con đường đã
được khai quang thông suốt Tài – Mệnh – Nghiệp, giải tỏa khúc mắc đã bao năm giày vò tâm tư con
người, dày đọa thể xác bé bỏng mong manh. Cánh cửa thời gian mở rộng đưa chúng ta về bầu trời
phong kiến, mở ra trước mắt hiện cảnh phong kiến điêu tàn, mục nát. Chính xã hội ấy mà tinh anh là con
người với nhiều tâm hành ganh tỵ, ghen ghét đã đày đọa, đun đẩy kiếp người hồng nhan đến vực thẳm
linh hồn. Tất cả chỉ vì sự tồn tại trong dòng chuyển dịch. Như một cổ xe sắp rã mục, nó cố gồng mình để
dìm kiếp người tài hoa vào tuyệt lộ thâm u, rùng rợn.
Chế độ phong kiến trên đà tan rã, nên không dung nỗi tài hoa. Không gian lồng lộng mà tài hoa không có
điểm tựa để tồn tại. Tất cả đều do tâm hồn rộng lớn mà nhỏ bé của con người. Nên Đỗ Thập Nương làm


kỹ nữ, Thúy Kiều bán mình, Giả Bảo Ngọc phải uất hận; những người ấy, tình của họ đầy mức thông
thường hay cái tệ của lễ nghi cổ hủ, đành phải “khối tình ôm xuống tuyền đài chưa tan”. Xã hội ấy không
dung nổi hồng nhan; “hồng nhan bạc mệnh” đâu phải là một thành kiến để thở than, bốn chữ này là bản
tổng kết kinh nghiệm ngàn năm sự đời dưới chế độ phong kiến. Do đó, một sợi dây vô hình vương dài
ràng buộc những người “đồng hội đồng thuyền”, “nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ ” lại với nhau. Họ cảm
thông nỗi niềm đau của nhau:
“Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không luỵ đốt còn vương”[2]
Chế độ phong kiến rất sợ cái tài. Những người có tài không những bị vua bắt phục vụ cho mình mà đôi
khi còn bị hại. Cho nên, đến đời nhà Nguyễn có lệ thi không lấy Trạng Nguyên, nghĩa là đến một lúc nào
đó cái tài không còn được thừa nhận. Ở đây, chúng ta chưa nói đến cái tài của Kiều, chỉ nói cái tình của
Kiều, sức sống say mê sâu sắc ấy cũng đã là điều phiền toái cho trật tự xã hội. Với sức sống này, xã hội
phong kiến như ở trên cái thế quân bình không vững vì có sẵn một lực công phá nội tại. Một điều mà đạo
đức phong kiến không thể chịu được là Kiều dám yêu trước khi được uy quyền xã hội cho phép. Mê Kiều
như Chu Mạnh Trinh, phải thốt lên: “Chỉ vì một tội mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều, trăng gió mắc
vào, phồn hoa dính mãi”[3]. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê. Trong trời đất đã có
người tài tình tuyệt thế tất thế nào cũng có sự khám kha bất bình. “Thiên địa gian hữu tuyệt thế tài tình,
diệc bất năng vô khảm kha bất bình sự”[4].
Trong Truyện Kiều mâu thuẫn giữa Tài và Mệnh tập trung ở nàng Kiều - con người và số phận. Tài là tài
năng và nhan sắc; là tình, là đức hạnh; là những gì tốt đẹp nhất của con người. Có thể nói, Tài là bản
chất của con người luôn vươn đến Chân - Thiện – Mỹ. Tài là một gía trị thực tại; do đó nó thể hiện trong
con người Kiều như một nội dung hình tượng. Và cũng có thể, tài ở đây chưa hẳn là tài năng, nghĩa là
chỉ một khả năng đột xuất phi thường của con người có thể chế ngự được thiên nhiên hay tác động đến
những quy luật của xã hội. Nếu quan niệm như thế, chỉ có Từ Hải mới xứng đáng được gọi là có tài.
Như vậy cái chết của Từ Hải mới là tài mệnh tương đố. Nhưng ở đây, tác giả không chỉ Từ Hải mà chỉ
Thúy Kiều. Nếu quan niệm tài là tài hoa, tài tình; “Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” thì Kim trọng cũng
là người có tài,”nền phú hậu bậc tài danh”. Thế mà Kim Trọng không bị quy luật tài mệnh tương đố chi
phối. Có tài chưa chắc khổ, nhờ tài làm thơ mà Kiều được tha bổng hay được cho ra ở Quan Âm Các.
Số mệnh là một thực thể siêu hình, nó không có tồn tại và hiệu lực thực tại. “Thực thể siêu hình trong địa
hạt tư duy tư biện, địa hạt của những khái niệm trừu tượng và những sự trừu tượng hóa có thể chứng

minh là bản chất là sự hiển nhiên nhưng trong thế giới thực tại không thể chỉ ra”[5]. Trong thế giới nghệ
thuật Truyện Kiều, sự tồn tại và hiệu lực của Số mệnh không hiển hiện được, ngay sự hiển hiện của Đạm
Tiên cũng không ngoài “trận gió cuốn cờ” và “những dấu giày in rêu”. Sự chi phối của Số mệnh không thể
không thể hiện một cách gián tiếp thông qua những nguyên nhân trực tiếp và thực tại. Trong thế giới hình
tượng Truyện Kiều, lần lượt xuất hiện bọn quan lại, bọn buôn người,…những thủ phạm trực tiếp gây ra
số kiếp long đong của nàng Kiều. Hiện thân của họ là những đồi phong bại tục. Đây là thực tại của
những thiết chế trong xã hội phong kiến suy tàn. Nên mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến và bản chất con
người là ý nghĩa đích thực, là bản chất của thế giới hiện tượng được mô tả bằng nội dung Truyện Kiều.
Nhưng tác giả lại nhận thức với một ý nghĩa siêu hình: bản chất của nó là mâu thuẫn giữa Tài và Mệnh.
Tài mệnh tương đố là niềm tin sâu sắc của tác giả.
Thi sĩ đã suy nghĩ bằng chính trái tim của mình, ông giải thích cuộc đời bằng số mệnh, đồng thời đứng về
phía con người để oán hờn số mệnh. Nhưng cuộc sống thì cụ thể, phong phú, đa dạng, còn chủ nghĩa
thiên định có tính cách siêu hình, nên có những lúc ông tỏ ra không nhất quán. Với Nguyễn Du triết luận
là suy nghĩ về cuộc đời, cảm khái về cuộc đời, về những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Do gắn bó với
con người, với cuộc sống qua kinh nghiệm những năm lang thang và gian truân của mình. Ông đặc biệt
thương xót người có tài có tình. Ấy là những nhà thơ nổi tiếng trác tuyệt mà cuộc đời trải qua muôn vàn
bất hạnh; là những bậc anh hùng hào kiệt mà thất thế; là những người phụ nữ sắc đẹp khuynh thành mà
phải chịu số phận buồn thảm. Trong tư tưởng ông, những lực lượng tàn phá cái hay cái đẹp ông khái
quát thành số mệnh. Khi đi thẳng vào vấn đề, Nguyễn Du trở nên lúng túng:
“Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà?
Túc hận du du kí thiển sa”[6]
(Sức mạnh dời núi, trời giúp chăng?
Nghìn đời mối hận vùi cát mỏng)
hay số mệnh vùi dập Tiểu Thanh:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)[7]
Thật vậy, mâu thuẫn này nó lồng qua tác phẩm, đôi khi não lòng giữa tình cảm của một nghệ sĩ với trái
tim rung động sâu sắc cùng thực tế của kiếp người phù du, của xã hội khắc nghiệt; và sự suy nghĩ vô

hiệu của một nhà triết học siêu hình bế tắc với các khái niệm về số kiếp. Thật ra trong những lúc phẩn chí
nhất muốn chống trả vòng vây số mệnh, ông cơ hồ cũng có tìm ra một chút ánh sáng: “Cùng thời tự khả
biến phong vân”. Sự mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn trong con người, trong tư tưởng của ông chứ không
phải giữa Tài và Mệnh. Đó là mâu thuẫn giữa thực tế và lý tưởng. Lý tưởng con người muốn vươn tới
một cảnh sống cao đẹp, giữa những ngày mà chế độ kinh tế, chính trị và trình độ ý thức vẫn ràng buộc
cặp cánh tư tưởng lại trong những điều kiện sống gắt gao. Đây là bi kịch trong tâm hồn ông và cũng là sự
tố cáo sâu sắc của ông đối với xã hội đương thời. Số mệnh ấy chẳng qua là quy luật thép của xã hội; nó
không những giáng lên đầu Kiều mà còn bắt Kiều phải thừa nhận nó. Đó mới là điều nghiệt ngã. Do đó
chân lý chỉ chợt lóe lên rồi vụt tắt. Ông uất ức kêu trời rồi chịu, bởi không có lối thoát:
“Cập thức bại vong phi chiến tội
Không lao trí lực dữ thiên tranh”
Theo thuyết Thiên mệnh của Nho giáo, người ta ở đời, giàu nghèo sướng khổ là do số phận định trước
bởi trời.”Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”. Người ta bằng kinh nghiệm ở đời mà suy ra huyền bí của
càn khôn và từ ấy, người ta cho tài mệnh không hợp nhau: “Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau” hay
như Lý Thương Ẩn nói : “Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương”. Người ta không chịu tìm nguyên nhân
trong xã hội mà lại theo khuynh hướng duy tâm thần bí mà suy ra rằng, sở dĩ có điều bất bình là bởi đạo
trời vốn ghét cái trọn vẹn: “Tạo vật đố toàn, tạo hóa kị doanh”. Cho nên cái lẽ “bỉ sắc tư phong” người ta
gọi là luật thừa trừ trong kiếp người. Không những Thúy Kiều, Đạm Tiên mà cả Tây Thi, Điêu Thuyền,
Chiêu quân…đều như vậy. “Hồng nhan tự thưở xưa – Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”. Các tao nhân
mặc khách cảm giai nhân khổ sở mà ai oán như vậy. Không những ở phương Đông mà ở phương Tây,
xưa nay các thi hào vẫn khóc “má hồng phận bạc” như: Héléne, Héloise,… Suy rộng ra, cái luật thừa trừ
ấy, trong tư tưởng Tây phương có chỗ tương tự. Luật ấy rất giống luật cân nhắc mà người Hi Lạp xưa
tiêu biểu bằng thần thoại Némésis.
Thi sĩ Tố Như không phải là nhà Nho thuần túy. Cái tính đa cảm, những kinh nghiệm đau đớn đã khai
thông mở lối cho ông. Ông thỏa mãn với luật thừa trừ, nhưng nó chỉ mới là điều nhận xét tuồng như đúng
mà chưa cắt nghĩa về lý do. Ông không chịu con người không có trách nhiệm về sự cân nhắc họa phúc
của trời. Ông bèn lấy chữ Nghiệp của đạo Phật mà phát huy chữ Mệnh của Nho Giáo.
Thúy Kiều tuy là món đồ chơi của vận mệnh nhưng là món đồ chơi có ý thức, chứ không bù nhìn. Nàng
đã dự cảm được vận mệnh không ra gì từ lúc còn nhỏ; rồi khi bán mình, nàng thấy sự hi sinh và nghĩa vụ
của nàng phù hợp với số mệnh. Có lúc nàng chống lại số mệnh, “xưa nay nhân định thắng thiên cũng

nhiều” nhưng không thành đành phải ẩn nhẫn: “Kiếp này nợ trả chưa xong – Làm chi thêm một nợ chồng
kiếp sau” hay “Kiếp xưa đã vụng đường tu – Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi”. Nàng lấy Thúc Sinh
để thoát nợ lửa nồng, rứa mà bị hành hạ ở nhà Hoạn Thư, nàng đành ”túc trái tiền oan” mà chịu khổ. Rồi
trốn Quan âm Các lại rơi vào lầu xanh, thực là, “chạy chẳng khỏi trời”, thôi “phải liều má phấn cho rồi
ngày xanh”. Có khi nàng nghiến răng quyền rủa: “Chém cha cái số má đào - Gở ra rồi lại buộc vào như
không!”. Cuộc đời nàng như trò đùa dai của số mệnh, trước sau chỉ “…nhắm mắt đưa chân – Mà xem
con tạo xoay vần đến đâu?”…
Do bế tắc trong tư tưởng Tài – Mệnh, ông đành mở một lối thoát bằng cách dùng đến chữ Nghiệp trong
Phật giáo:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần đất xa”
Sở dĩ Thúy Kiều có số phận mong manh như vậy; cái bỉ sắc tư phong chỉ là nhận xét bên ngoài; thực ra
cái tiềm ẩn bên trong chính là những kết quả, những nghiệp duyên mà nàng đã vun tạo. Nàng đã có cái
nghiệp tiềm ẩn bên trong nên từ lời nói cho đến tiếng đàn đều mang âm hưởng khổ đau. Người có cái
nghiệp như vậy nên rất đa tình đa cảm; hai cái đó là cái mối vô hình, sợi dây vô tướng để đi vào con
đường mà mình đã họa nên:
“Nàng rằng: Nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao.
Số còn nặng nợ má đào,
Người đà muốn chết, trời nào có cho?”
Dưới ánh sáng nhân - duyên học, các quan điểm Thiên mệnh, Định mệnh đều bị ngã quỵ, không thể tồn
tại mà xưng hùng xưng bá để đày đọa kiếp người. “Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới
được phần thanh cao.” Con người trôi lăn là do bởi chính hành vi thất niệm của mình. Con người có tự
do trong việc tạo y báo và chánh báo, nhưng với điều kiện là phải có chánh niệm; còn không thì mãi mãi
sẽ loanh quanh luẫn quẫn trong vòng mâu thuẫn đố kị, trôi lăn trong quỹ đạo của vòng tròn nhân quả.
Chính thi sĩ Tố Như từ những mâu thuẫn trong nội tâm mà phải lênh đênh, “ở không yên ổn – ngồi không
vững vàng”. Rốt cùng, ông phải thốt lên “tu là cội phúc”, tức là chuyển hóa các tâm hành để thăng hoa
đời sống của mình. Đó là lối thoát duy nhất trong tư tưởng Tài - Mệnh của Nguyễn Du.
T.T.


[1] Trần Thái Tông, bài kệ Tướng Sanh.
[2] Nguyễn Du, Độc tiểu thanh kí, Vũ Tam Tập dịch trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Văn Học, Hà
Nội, 1978.
[3] Chu Mạnh Trinh, Thanh tâm tài nhân thi tập tự.
[4] Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân, Tự, Sách đã dẫn.
[5] Hoàng Ngọc Hiến, Triết lý Truyện Kiều, Tạp chí Văn học, số 2, 1966.
[6] Nguyễn Du, bài Sở Bá Vương mộ, Nguyễn Huệ Chi dịch.
[7] Nguyễn Du, Độc Tiểu Thanh Kí, Sách đã dẫn.

×