Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Hoàn thiện QLNN đối với các cụm công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.45 KB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ song song với
các KCN, KCX là một trong những hướng đi mới , sang tạo trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Thủ Đô Hà Nội cũng như cả nước nói
chung.
Kể từ ngày 15/10/1998 tại công văn số 17/CP – KCN của thủ tướng
Chính phủ đồng ý để Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội xây dựng thí điểm
2 cụm công nghiệp vừa và nhỏ huyện Gia Lâm và Thanh Trì Hà Nội để di
chuyển một số nhà máy, xí nghiệp trong nôi thành nhằm tập trung sản xuất,
chống ô nhiểm môi trường. Đến nay Thành phố Hà Nội đã có 18 dự án xây
dựng cụm công nghiệp đang đựoc triển khai với tổng diện tích quy hoạch gần
800ha. Trong đó 9 cụm đã hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và có tỷ lệ lấp
đầy khá cao. Một số cụ công nghiệp đang tiến hành giải phóng mặt bằng, triển
khai dự án.
Sự hình thành và phát triển các cụm công nghiệp trong gần 10 năm trở
lại đây đã mở ra hướng đi mới cho phát triển công nghiệp vừa và nhỏ của thủ
đô cũng như cả nước. Góp phần giúp chúng ta cải cách hành chính, đổi mới
cơ chếquản lý, giảm thiểu đến mức tối sự phiền hà, phức tạp cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong việc mở rộng đầu tư cũng như trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Trong bối cảnh như vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các
cụm công nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng ảnh hưởng tới khả
năng thu hút vốn đầu tư và hiệu quả hoạt động của các cụm công nghiệp.
Tuy nhiên trong thời gian qua, hoạt động quản lý nhà nước đối với cụm công
nghiệp vừa và nhỏ còn gạp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính là do đây là

mô hình mới mẻ, có đặc thù riêng không hoàn toàn giống như các KCN,
KCX.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước đối với các
cụm công nghiệp, qua thời gian thực tập tại Ban quản lý các KCN & CX Hà
Nội, với sự hướng dẫn của thầy giáo và quá trình tham khảo khảo thực tiễn


quản lý nhà nước nói chung, tôi đã quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện
QLNN đối với các cụm công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội” làm
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Đây là đề tài mới, chứa nhiều vấn đề thực tiễn và lý luận có ý nghĩa quan
trọng trong công cuộc phát triển công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội
và cả nước.

CHƯƠNG 1
CỤM CÔNG NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ - QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI CỤM CÔNG NGHIÊP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Cụm công nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm về cụm công nghiệp vừa và nhỏ
Trong thời gian qua, các cơ sở công nghiệp của các nước đang phát triển
phần lớn do hạn chế về vốn nên có quy mô nừa và nhỏ, phân bố phân tán, khả
năng xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường thấp. Đất đai có giới hạn, dân số
ngày càng gia tăng, trong khi đó chi tiêu của chính phủ cần tập trung vào việc
phát triển hạ tầng cơ sở cả về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Để đáp ứng
những yêu cầu trên, việc phát triển công nghiệp cần khuyến khích mọi thành
phần kinh tế và phải tuân theo quy hoạch nhằm tiết kiểmtong đầu tư, có điều
kiện dễ dàng để kiểm soát và có biện pháp bảo vệ môi trường một cách thuận
lợi và hữu hiệu nhất.
Bởi vậy, các nước cần tạo một môi trường hoạt động thuận lợi cho các
nhà đầu tư cả về môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội,
để thu hút đầu tư theo quy hoạch và phù hợp với phát triển kinh tế xã hội
trước mắt cũng như lâu dài của đất nước. Để thực hiện các mục tiêu trên các
nước đang phát triển đã thành lập các khu vực đặc biệt với những ưu đãi về
tài chính, thuận lợi về cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư. Xuất phát từ mục tiêu
đó đã hình thành các khu vực sản xuất tập trung và khái niệm về khu công
nghiệp ra đời.
Cụm công nghiệp là khái niệm được sử dụng khá phổ biến và thường

xuyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các nước tư bản, đặc
biệt là sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới trong những năm

1970 – 1980 của thế kỷ trước. Với mô hình này đã cho phép hạ thấp chi phí
đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Tại Việt Nam, trong quá trình phát triển của đất nước thì khái niệm Cụm công
nghiệp được ra đời từ khi có công văn số 17/CP – KCN 15/10/1998 đồng ý cho
UBND Thành phố Hà Nội xây dựng thí điểm 2 Cụm công nghiệp vừa và nhỏ
huyện Gia Lâm và Thanh Trì Hà Nội để di chuyển dần một số nhà máy, xí
nghiệp trong nội thành ra ngoại thành nhằm tập trung sản xuất , chống ô
nhiễm môi trường.
Đây là một mô hình mới với nước ta. Cụm công nghiệp là một hình thức
tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ, nó ra đời gắn liền với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dựa trên cơ sở trên ta có thể hiểu khái niệm về Cụm công nghiệp như sau:
Cụm công nghiệp vừa và nhỏ là khu chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp , có ranh giới địa lý rõ ràng , có quy
hoặch chi tiết, có hạn tầng kỹ thuật dồng bộ, không có dân cư sinh sống và
được UBND Thành phố quyết định thành lập.
Bên cạnh khái niệm về Cụm công nghiệp, qua quá trình nghiên cứu và
tham khảo tác giả xin giới thiệu thêm một số các khái niệm lien quan tới Cụm
công nghiệp như:
- Doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Cụm công nghiệp :
Là Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân được Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ
định hoặc là Doanh nghiệp trúng thầu dự án thực hiện xây dựng, quản lý,
khai thác hạ tầng kỹ thuật Cụm công nghiệp.
- Doanh nghiệp quản lý, khai thác hạ tầng kỹ thuật Cụm công
nghiệp :Là Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân được Ủy ban nhân dân Thành
phố giao nhiệm vụ quản lý, khai thác hạ tầng kỹ thuật Cụm công nghiệp.


- Doanh nghiệp Cụm công nghiệp : Là Doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, có tư cách pháp nhân được thuê đất, thuê lại đất đã có hạ tầng
kỹ thuật hoặc thuê, mua lại nhà xưởng trong Cụm công nghiệp để tổ chức
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong Cụm công nghiệp.
- Giá cho thuê lại đất có hạ tầng kỹ thuật : là đơn giá tính theo m2 bao
gồm chi phí phần đất đầu tư cho cơ sở hạ tầng trong Cụm công nghiệp và giá
thuê đất nguyên thổ theo quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố tại địa bàn
đóng Cụm công nghiệp.

- Phí quản lý : Là kinh phí để duy tu, bảo dưỡng hạ tầng kỹ thuật Cụm
công nghiệp mà Doanh nghiệp Cụm công nghiệp có trách nhiệm đóng hàng
năm cho Doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Doanh nghiệp quản
lý, khai thác hạ tầng kỹ thuật theo hợp đồng đã kí kết

- Suất đầu tư : Là chi phí đầu tư xây dựng 1m2 đất có đủ hạ tầng kỹ
thuật theo quyết định đầu tư của Ủy ban nhân dân Thành phố để cho Doanh
nghiệp thuê trong Cụm công nghiệp
Chi phí để tính suất đầu tư bao gồm các khoản kinh phí: chuẩn bị đầu
tư, giải phóng mặt bằng, xây dựng các hạng mục hạ tầng kỹ thuật ( San nền,
đường, hệ thống cấp thoát nước và xử lý nước thải, chiếu sáng, hàng rào, cây
xanh, nhà điều hành và các hạng mục khác) trừ khoản kinh phí được Thành
phố hỗ trợ ghi rõ trong quyết định đầu tư.
Diện tích đất để tính suất đầu tư là toàn bộ diện tích đất các Doanh
nghiệp được thuê trong Cụm công nghiệp ( bao gồm cả diện tích đất để xây
dưngh nhà xưởng cho thuê hoặc công trình phụ trợ để kinh doanh); không

tính phần diện tích đất sử dụng chung như: đường, hè đường, thoát nước,
hàng rào chung Cụm công nghiệp, trạm điện, khu xử lý nước thải, nhà điều
hành và các hạng mục công cộng khác.
1.1.2. Đặc điểm của các Cụm công nghiệp vừa và nhỏ

• Về mục đích xây dựng:
- Quy tập những Doanh nghiệp đã tồn tại từ những thập niên trước mà
đến nay còn tồn tại rải rác trong những khu dân cư, gây ô nhiểm môi trường
- Thu hút đầu tư của những Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Thu
hút vốn đầu tư để phát triển công nghiệp theo quy hoạch là mục tiêu quan
trọng của các Cụm công nghiệp, với tính chất là “vùng lãnh thổ” hoạt động
trong môi trường đầu tư chung về cơ sở hạ tầng.
- Giải quyết vấn đề căng thẳng về mặt bằng sản xuất kinh doanh của
nhiều Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
• Về thủ tục thành lập
Do UBNN Thành phố ra quyết định thành lập
• Về chủ đầu tư
Các Doanh nghiệp trong nước có đủ năng lực và kinh nghiệm xây dựng
và quản lý Cụm công nghiệp làm chủ đầu tư
• Về mô hình quản lý
Tồn tại nhiều mô hình quản lý các Cụm công nghiệp vừa và nhỏ như:
Ban quản lý dự án các huyện; công ty khai thác hạ tầng Cụm công nghiệp;
UBND Thành phố thành lập Ban quản lý Cụm công nghiệp trực thuộc UBND
quận/huyện nơi có Cụm công nghiệp
• Đối tượng thuê đất trong Cụm công nghiệp
Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, đang cần mặt bằng sản xuất
kinh doanh nhưng không đủ tiềm lực hoạt động trong các KCN tập trung.

1.1.3. Sự cần thiết hình thành các Cụm công nghiệp vừa và nhỏ
Trong sự nghiệp CNH – HĐH của nước ta, phát triển công nghiệp là
nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu, muốn vậy việc tăng tốc độ đầu tư cho phát
triển công nghiệp là việc làm cần gấp rút thực hiện. Bên cạnh việc thu hút đầu
tư của các Doanh nghiệp nước ngoài có vốn lớn, công nghệ hiện đại thì việc
phát triển các Doanh nghiệp trong nước mà đa phần là các Doanh nghiệp vừa
và nhỏ là rất quan trọng.

Thực tế thời gian qua cho thấy sự phát triển nhanh chóng của các Doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã làm diện mạo ngành công nghiệp thay đổi đáng kể theo
hướng tích cực.
Tuy nhiên quá trình quản lý thực tế đã nhận thấy một số vấn đề nảy sinh
cần hoàn thiện như :
- Hiện còn tồn tại nhiều cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường đan xen
trong các khu dân cư, khu đô thị làm ảnh huơng rất lớn đến cuộc sống dân cư
trên khu vực Doanh nghiệp đóng.
- Nhiều Doanh nghiệp phải đi thuê lại mặt bằng của dân cư hoặc cơ sở sản
xuất khác để hoạt động sản xuất kinh doanh do đó rất bức xúc về mặt bằng
sản xuất gây ảnh hưởng tới khả năng sản xuất.
Trong khi đó nhiều khu vực đất hoang hoặc sử dụng không đạt hiệu quả
dtrong sản xuất nông nghiệp do chất lượng đất kém màu mỡ..
- Có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các Doanh nghiệp cần thiết phải có
cơ sở hạ tầng ban đầu như hệ thống cung cấp điện, cấp thoát nước, xử lý chất
thải…

Việc xây dựng riêng cơ sở hạ tầng đối với từng Doanh nghiệp làm lãng phí
nguồn vật lực, gây khó khăn cho các Doanh nghiệp mới tham gia sản xuất
kinh doanh bởi đối với các Doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực vốn còn yếu việc đầu
tủ cơ sở hạ tầng ban đầu là khó khăn lớn.
- Các Doanh nghiệp nằm trong khu dân cư làm cho việc bảo đảm an ninh
trật tự trở nên khó khăn hơn cho cả Doanh nghiệp lẫn khu dân cư.
Đặc biệt việc các Doanh nghiệp nằm rải rác trên nhiều địa bàn gây phức tạp
trong công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng.
- Đặc thù của sản xuất công nghiệp là loại hoạt động khẩn trương , nhanh
chóng , kịp thời thích ứng với những biến động của thị truờng, của những tiến
bộ công nghệ. Là loại hoạt động đòi hỏi sự chính xác, ăn khớp và đồng bộ.
Từ tính chất đặc thù đó của sản xuất công nghiệp cần phải có tính đồng bộ,
chất lượng cao của cơ sở hạ tầng.Hoạt động quản lý điều hành phải nhanh

nhạy, ít đầu mối, thủ tục đơn giản.
Để khắc phục những vấn đề trên trong quá trình phát triển công nghiệp cần
quy tụ các Doanh nghiệp vào các Cụm công nghiệp tập trung. Ở đó có sẵn cơ
sở hạ tâng và dịch vụ, có sẵn bộ máy quản lý, được hưởng những thủ tục đơn
giản và thống nhất do Ban quản lý các KCN địa phương trực tiếp quản lý.

- Về cơ bản, xây dựng các Cụm công nghiệp vừa và nhỏ tập trung song
song với phát triển các KCN lớn nhằm khắc phục điểm yếu của các Doanh
nghiệp vừa và nhỏ không đủ tiềm lực để vào hoạt động trong các Khu công
nghiệp lớn.Mặt khác không thể xây dựng tất cả các khu công nghiệp tập trung
do hạn chế về diện tích, sự chia cắt về mặt địa lý,quy mô vốn đầu tư và năng
lực quản lý của các Doanh nghiệp quản lý, khai thác hạ tầng kỹ thuật.

Khác với các khu công nghiệp tập trung đó là thường chỉ thu hút các Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Doanh nghiệp có tiềm lực vốn lớn, công
nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến, các Cụm công nghiệp vừa và nhỏ có mục
tiêu chủ yếu là quy tập và thu hút đầu tư của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chủ yếu là các Doanh nghiệp trong nước nhằm hình thành một chuỗi cung
ứng trong các Cụm công nghiệp.
Xây dựng các Cụm công nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm tăng hiệu quả sử
dụng vốn.trong Cụm công nghiệp, các Doanh nghiệp sử dụng chung hạ tầng
cơ sở nên giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và trên một đơn vị sản
phẩm. Thực hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoặc thống nhất, kết
hợp giữa quy hoặc phát triển ngành với quy hoặch lãnh thổ.
Mặt khác,việc tập trung các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các Cụm công
nghiệp tạo điều kiện thuận lợi trong việc xử lý chất thải công nghiệp, bảo vệ
môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhờ việc chuyển đổi
những phần đất hoang hóa, bạc màu không thể sản xuất nông nghiệp thành
đất công nghiệp.
Ngoài ra trong quá trình phát triển và quản lý các Cụm công nghiệp trên thì

các thủ tục hành chính đã được giảm thiểu đến mức tối đa thông qua cơ chế
“một cửa, tại chỗ”. Những chính sách đối với các Cụm công nghiệp minh
bạch, rõ rành, gắn quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư với một hợp đồng tạo
điều kiện cho các Doanh nghiệp yên tâm sản xuất.
1.1.4. Vai trò của các Cụm công nghiệp vừa và nhỏ trong sự phát triển
công nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương
Việc hình thành các cụm công nghiệp có tác động rất lớn đối với sự nghiệp
phát triển công nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương. Điều đó thể hiện ở các
mặt sau:

Cụm công nghiệp góp phần thúc đẩy thu hút vốn đầu tư
Sự hình thành và phát triển các cụm công nghiệp gắn liền với những mục tiêu
kinh tế xã hội của địa phương và mục tiêu sản xuất kinh doanh của các nhà
đầu tư. Do vậy phát triển các cụm công nghiệp là nhằm:
Thu hút vốn đầu tư để phát triển công nghiệp theo quy hoạch. Đây là mục
tiêu quan trong của các cụm công nghiệp, với tính chất là “vùng lãnh thổ”
hoạt động trong môi trường đầu tư chung cơ sở hạ tầng, cụm công nghiệp trở
thành công cụ hữu hiệu để thu hut vốn đầu tư, để mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Đối với các hộ sản xuất thì vấn
đề mặt bằng và vốn sản xuất luôn là hai vấn đề bức xúc nhất. Đây chính là các
vòng luẩn quẩn của sản xuất nhỏ. Các doanh nghiệp nhỏ không có điều kiện
về vốn để có thể thuê thêm mặt bằng mở rộng sản xuất kinh doanh trong khi
đó muốn mở rộng quy mô sản xuất, tập trung vào phát triển các sản phẩm thì
lại cần vốn lớn. việc phát triển Cụm công nghiệp chính là để giải quyết vấn đề
trên.
Nâng cao năng lực sản xuất nhờ ứng dụng khoa học công nghệ.
Tập trung sản xuất trong các cụm công nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp phải
ứng dụng công nghệ, khoa học kỹ thuật mới, tiên tiến, xây dựng lộ trình thay
thế các trang thiết bị kỹ thuật cũ, lạc hậu, năng suất thấp, ô nhiểm môi trường.
Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, để tránh bị tụt hậu về kinh tế, đặc

biệt là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hang xuất khẩu trên
thị trường thế giới, các nước đang phát triển muốn nhanh chóng phát triển
khoa học kỹ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý. Xây dựng cụm công
nghiệp để thu hút vốn đầu tư, mở rộng sản xuất từ đó tạo điều kiện áp dụng
khoa học kỹ thuật, công nghệ, nâng cao khả năng quản lý. Đây là điều rất
quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta khi xuất phát điểm
thấp và có trình độ lạc hậu so với các nước phát triển.

Khi đầu tư vào các cụm công nghiệp các nhà đầu tư sẽ được hưởng những ưu
đãi riêng của nhà nước đối với các cụm công nghiệp vsf lợi ích từ các công
trình hạ tầng, kỹ thuật đồng bộ sẵn sang choa việc hoàn thiện dự án. với nhữn
lợi thế như vậy, các doanh nghiệp sẽ có điều kiện giảm thiểu đến mức tối đa
đầu tư ban đầu và chi phí sản xuất. Điều đó dẫn đến giảm giá thành , nâng cao
chất lượng sản phẩm, đấp ứng được các yêu cầu, nhu cầu của thị trường, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hưỡng nâng cao tỷ trọng giá trị sản
xuất công nghiệp
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc
hậu, ít hiệu quả sang một cơ cấu ngày càng phù hợp với xu hướng của nền sản
xuất hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị
sản xuất công nghiệp, dịch vụ và thương mại, giảm dần tỷ trọng giá trị sản
xuất nông nghiệp trong nền kinh tế.
Xây dựng cụm công nghiệp theo quy hoạch phát triển tổng thể về kinh tế xã
hội tại những địa điểm thuận lợi vận chuyển hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm hoặc
là những nơi quy hoạch phát triển thành đô thị, khu dân cư sau này do vậy sẽ
tạo môi trường thuận lội cho nhà đầu tư xây dựng chiến lược phát triển lâu
dài, từ đó sản xuất công nghiệp địa phương phát triển góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ.
Xây dựng cụm công nghiệp nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới, thu hút
lao động, tạo liên kết với các doanh nghiệp trong nước thông qua các hợp

đồng gia công, cung cấp nguyên liệu là thực tế diễn ra ở nhiều doanh nghiệp
trong cả nước. cụm công nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện dẫn dắt công
nghiệp phụ trợ, các dịch vụ cần thiết từ dịch vụ công nghiệp , tài chính ngân
hang, cung cấp nguyên liệu đến dịch vụ phục vụ dân sinh phục vụ lao động

trong các cụm công nghiệp. Đồng thời thu hút lao đọng vào các cụm công
nghiệp sẽ tạo sự tập trung dân cư tác động đến việc phân bố lại dân cư tại
những vùng có cụm công nghiệp để hình thành các đô thị công nghiệp.

1.2. Yêu cầu và nội dung quản lý nhà nước đối với các Cụm công nghiệp
vừa và nhỏ
1.2.1. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với các Cụm
công nghiệp
Quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp là một tất yếu khách
quan vì những lý do:
- Quản lý nhà nước đối với Cụm công nghiệp là một chức năng đặc thù
của quản lý nhà nước nói chung. Việc phát triển các Cụm công nghiệp có mối
quan hệ trực tiếp tới sự phát triển công nghiệp vừa và nhỏ của địa phương
cũng như của cả nước nói chung. Đồng thời nó cũng chịu sự tác động, sự chi
phối của nhiều yếu tố khác như luật pháp, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó nhà
nước cần tiến hành quản lý quá trình hình thành và phát triển của các Cụm
công nghiệp.

- Mục tiêu của Doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, do đó nhà nước cần
sử dụng quyền lực và sức mạnh của mình để điều tiết và khống chế những
hành vi không có lợi của Doanh nghiệp đối với cộng đồng, khắc phục những
khiếm khuyết của cơ chế thị truờng, điều chỉnh hoạt động của các Doanh
nghiệp trong Cụm công nghiệp theo những mục tiêu đã định. Bởi vậy, mục
tiêu của hoạt động quản lý nhà nước đối với Cụm công nghiệp là tạo ra môi
trường đầu tư hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu

tư, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành công nghiệp có hiệu

quả, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính quản lý
nhà nước đối với Cụm công nghiệp vừa tạo điều kiện tối đa cho Doanh
nghiệp thực hiện mục tiêu của họ, vừa hướng mục tiêu của Doanh nghiệp vào
việc thực hiện tốt nhất mục tiêu chung của phát triển kinh tế xã hội. Do đó ,
quản lý nhà nước đối với các Cụm công nghiệp phải nhằm thu hút tối đa
nguồn vốn đầu tư vào Cụm công nghiệp, thực hiện cơ cấu trong Cụm công
nghiệp phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Mặt khác, quản
lý nhà nước đối với các Cụm công nghiệp còn nhằm phát huy ưu điểm và thế
mạnh của mỗi Cụm công nghiệp, thúc đẩy quá trình hợp tác giữa các Doanh
nghiệp trong Cụm công nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm
công nghiệp trong nước. Đồng thời, quản lý nhà nước đối với các Cụm công
nghiệp phải nhằm khai thác được các lợi thế của phát triển công nghiệp đối
với nền kinh tế quốc dân, đặc biệt phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực,
về tài nguyên thiên nhiên cũng như các nguồn lực khác của nền kinh tế. Việc
quản lý nhà nước đối với các Cụm công nghiệp còn nhằm đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của các Doanh nghiệp trong Cụm công nghiệp, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp bên ngoài chuyển vốn vào hoạt động
kinh doanh cũng như triển khái các hoạt động sản xuất kinh doanh trong Cụm
công nghiệp. Qua đó phát huy vai trò của từng Doanh nghiệp cũng như của
các Cụm công nghiệp đối với sự phát triển công nghiệp vừa và nhỏ.
- Thông qua việc ban hành các thể lệ, chính sách và giám sát thực thi các
quy định của pháp luật thì đồng thời nhà nước đã tạo ra môi trường thuận lợi
để thúc đẩy việc xây dựng, phát triển Cụm công nghiệp, thực hiện thành công
chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Quản lý nhà nước đối với Cụm công nghiệp là điều kiện cần thiết, góp
phần giúp cho các Doanh nghiệp Cụm công nghiệp sử dụng tài nuyên thiên
nhiên một cách tiết kiệm và có hiệu quả, đồng thời bảo vệ môi trường sinh

thái. Bên cạnh đó nhà nước còn tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp phát triển
mở rộng hợp tác với nhau thông qua việc hình thành chuỗi cung ứng trong
Cụm công nghiệp.Chính công tác quản lý nhà nước nhằm đảm bảo cho các
Cụm công nghiệp được phát triển theo quy hoặch đã định, chủ động phối hợp
mục đích riêng của từng Doanh nghiệp nhằm đạt tới mục đích chung của nền
kinh tế.
1.2.2. Yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với các Cụm công nghiệp
Trước tiên cần khẳng định rằng quản lý nhà nước đối với các Cụm công
nghiệp không chỉ là các hoạt động quy hoạch, điều hành, kiểm soát sự phát
triển của các Cụm công nghiệp mà còn bao hàm cả hoạt động khuyến khích,
hỗ trợ sự phát triển của các Cụm công nghiệp. Quản lý nhà nước đối với Cụm
công nghiệp bao gồm việc tạo lập môi trường pháp lý ổ định và bình đẳng cho
các Doanh nghiệp, xác lập chính sách khuyến khích đầu tư phát triển và biện
pháp xúc tiến đầu tư, tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp phát triển, phối hợp
đồng bộ trong việc cung cấp các nguồn nhân tài vật lực đảm bảo thông suốt
đầu vào và đầu ra cho Doanh nghiệp. Việc quản lý nhà nước cũng phải đáp
ững những yêu cầu sau:
chính sách, biện pháp đưa ra phải phù hợp với luật pháp và các yêu cầu
của xã hội. Một mặt phải bảo đảm kỉ cương, tuân thủ những giá trị đạo đức
của dân tộc; mặt khác phải không gây ra những khó khăn trở ngại đến tính
chủ động sáng tạo của các Doanh nghiệp Cụm công nghiệp.

- Nhà nước phải tạo ra môi trường ổn định và bình đẳng cho các Doanh
nghiệp hoạt động trong Cụm công nghiệp và phải kết hợp hài hòa các mục
tiêu của Doanh nghiệp với các mục tiêu chung của đất nước.
- Quản lý nhà nước đối với các Cụm công nghiệp tức là tạo điều kiện để
tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các Doanh
nghiệp trong nước trong thị trường nội địa cũng như khi xuất khẩu. Điều đó
có nghĩa nhà nước phải có những chính sách thích hợp để thúc đẩy các Doanh
nghiệp tập trung tìm kiếm thế mạnh và phát huy hết khả năng sản xuất kinh

doanh của mình.
- Nhà nước phải cung cấp đầy đủ các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực
cũng như các thông tin một cách nhanh chóng , kịp thời, chính xác để giúp
cho việc xây dựng, phát triển các Cụm công nghiệp đạt hiệu quả cao.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với Cụm công nghiệp
Hoạt động quản lý nhà nước đối với các Cụm công nghiệp bao gồm những
nôi dung:
- Định hướng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển các Cụm công nghiệp vừa và nhỏ .
Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, chiến
lược phát triển vùng, lãnh thổ, chiến lược phát triển công nghiệp, chiến lược
mậu dịch quốc tế, địa phương xây dựng chiến lược phát triển cụm công
nghiệp. Bởi vậy, khi xây dựng chiến lược phát triển cụm công nghiệp phải
nghiên cứu tổng hợp các điều kiện tự nhiên và xã hội trong chiến phát triển
kinh tế chung. Xây dựng chiến lược phát triển cụm công nghiệp phải tạo được
bước đi phù hợp với khả năng của vùng về tài chính, thu hút đầu tư của từng
thời kỳ.

Phát triển cụm công nghiệp cũng phải tính đến sự phân bố lực lượng sản
xuất, trên lãnh thổ nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và bảo
vệ môi trường, môi sinh. Đồng thời phát triển cụm công nghiệp cũng cần xem
xét đến tính cân đối trong phát triển khu vực, lãnh thổ và tính phát triển bền
vững. Phát triển cụm công nghiệp cũng cần phải tính đến sự phát triển hài hòa
giữa các vùng, lãnh thổ, tận dụng được lợi thế so sánh giữa các vùng, lãnh thổ
để đảm bảo sự phát triển cân đối hợp lý chung của cả nước
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ đầu tư phát triển
Cụm công nghiệp, quy chế hoạt động của các Cụm công nghiệp, các văn bản
hướng dẫn thực hiện cũng như các văn bản pháp quy có liên quan và hoàn
thiện chúng qua từng thời kỳ nhằm tạo cơ sở pháp lý đồng bộ và điều chỉnh
có hiệu quả hoạt động của Cụm công nghiệp cũng như của từng doanh nghiệp

trong Cụm công nghiệp. Quy định và hướng dẫn việc hình thành, xây dựng,
phát triển và quản lý hoạt động của Cụm công nghiệp.
Xây dựng và áp dụng các biện pháp ưu đãi kinh tế xuất phát từ lợi ích của
nước nhà và lợi ích lâu dài của nhà đầu tư. Các biện pháp ưu đãi kinh tế áp
dụng tại cụm công nghiệp: bình đẳng, các bên cùng có lợi, được thể chế hoa
về mặt pháp lý. Đồng thời các biện pháp này cũng được điều chỉnh linh hoạt
về mặt pháp lý để theo kịp những biến động, thay đổi tình hình chính trị, kinh
tế – xã hội. Các ưu đãi về kinh tế hấp dẫn, tính cạnh tranh cao nhưng cũng cần
phải đảm bảo tính ổn định lâu dài để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.
Các biện pháp ưu đãi kinh tế đối với cụm công nghiệp bao gồm:
Ưu đãi thuế so với doanh nghiệp ngoài cụm công nghiệp và ổn định.
Hỗ trợ về tài chính như vay vốn ưu đãi, thuê đất, thuê hoặc mua nhà
xưởng với giá thấp nhất, khấu hao tài sản nhanh, ngoại đối …

- Tổ chức xúc tiến, vận động các nhà đầu tư.
Hướng dẫn các nhà đầu tư cách thức lập hồ sơ dự án, tổ chức việc cấp,
điều chỉnh và thu hồi các loại giấy phép và thực hiện các thủ tục hành chính
nhà nước liên quan đến các dự án đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp hoạt động trong Cụm công nghiệp. Công tác xúc tiến và vận
động đầu tư là quá trình có ý nghĩa hết sức quan trọng với mục đích giới thiệu
môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật, ưu đãi và các điều kiện đầu tư vào cụm
công nghiệp nhằm rút ngắn thời gian tìm hiểu, đi lại của nhà đầu tư. Nhà nước
phải chủ động này. Trong công tác vận động, xúc tiến đầu tư, nhà nước cũng
cần có sách lược như lựa chọn đối tác, khu vực nhằm có thể tranh thủ tối đa
nguồn vốn, công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm đáp ứng như cầu phát
triển của vùng
- Kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các Cụm công nghiệp.
Nhằm định hướng hoạt động của các cụm công nghiệp theo quy định của pháp
luật và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của các
doanh nghiệp trong Cụm công nghiệp, kiểm soát và xử lý các vi phạm của

doanh nghiệp trong việc thực hiện quy định của pháp luật của nhà nước và
quy chế Cụm công nghiệp.

- Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội:
Khi chọn địa điểm thực hiện dự án, nhà đầu tư cũng thường quan tâm
đến cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội của khu vực vì nó đảm bảo cho các hoạt
động kinh tế sau này. Công trình hạ tầng kỹ thuật bao gồm công trình trong
hàng rào và ngoài hàng rào cụm công nghiệp.
Công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài ràng rào là công trình phụ thuộc vào
quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ và đỏi hỏi vốn lớn. Vì vậy, nhà nước

thường phải sử dụng ngân sách để đầu tư hoặc phải có cơ chế để huy động
vốn các thành phần kinh tế khác tham gia như phương thức BOT, BO, BT …
Đối với công trình hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào cụm công nghiệp,
thông thường huy động các nguồn vốn của các doanh nghiệp và tư nhân. Đây
thực chất là doanh nghiệp đất đai và bất động sản dễ thu lợi nhuận cao nhưng
lại phụ thuộc vào khả năng thu hút đầu tư nên rủi ro cũng lớn. Việc cho doanh
nghiệp tiến hành kinh doanh cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp là biện pháp
huy động các nguồn vốn trong xã hội để san sẻ gánh nặng cho ngân sách và
tận dụng vốn và khả năng kêu gọi đâu tư của các nhà đầu tư phát triển hạ
tầng.
Phát triển cụm công nghiệp có tác dụng lan tỏa về kinh tế và xã hội của
vùng, lãnh thổ như áp lực lên hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo nên hiện
tượng tập trung lao động, làm hạt nhân tình hình đô thị công nghiệp … Cũng
như các công trình hạ tầng ngoài hàng rào, công trình hạ tầng kỹ thuật phải
được nhà nước thực hiện trước một bước và đảm bảo cho sự phát triển lâu
dài của cụm công nghiệp và của vùng, lãnh thổ.
1.3. Một số kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với các cum công
nghiệp của một số địa phương.
1.3.1. Nam Định

Nam định là một tỉnh nghèo, thuần nông, ngư nghiệp, công nghiệp chủ
yếu là đệt, may, cơ khí, tiểu thủ công nghiệp là những làng nghề đồ mộc, đúc
, thủ công nghệ…, bình quân thu nhập đầu người thấp, hàng năm phải xin
ngân sách Trung ương hỗ trợ. Nam Định có điểm xuất phát thấp so với các
tỉnh trong vùng và khu vực, do vậy chỉ có phát triển công nghiệp, dịch vụ
Nam Định mới vươn lên và khẳng định được là tỉnh trung tâm của vùng Đồng
bằng nam sông Hồng.

Tháng 11 năm 2003 Ban Quản lý các KCN, CCN tỉnh Nam Định được
thành lập và đi vào hoạt động. Sau hơn 2 năm xây dựng và phát triển các
KCN, cụm CN bước đầu đã có những kết quả.
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển các
KCN, CCN của tỉnh đến năm 2015, tầm nhìn 2020, Ban quản lý các KCN,
CCN đã hoàn thành công tác khảo sát thực tế, lập báo cáo quy hoạch xây
dựng 12 KCN tập trung và 2 cụm CN tầu thủy trên địa bàn tỉnh.
Băng nhiều hình thức quảng bá các lợi thế về đầu tư của tỉnh Nam Định
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt đã xây dựng các chương
trình giới thiệu Nam Định trên đĩa CD, trên trang web của tỉnh gây được ấn
tượng tốt đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Sau hơn 2 năm xây dựng và phát triển, đến nay Nam Định đã có một khu
CN quy mô 327 ha đi vào hoạt động, đó là KCN Hòa Xá.
Đến hết năm 2005, KCN Hòa Xá đã có 74 dự án được cấp phép với tổng
mức vốn đầu tư đăng ký theo dự án là 2.854 tỷ động và 58,4 triệu USD,
die65ni tích đất thương phẩm các dự án đăng ký thuê đạt 200ha, số lao động
sẽ thu hút, theo dự án: trên 2,5 vạn lao động. Hiện có 55 dự án đi vào hoạt
động (trong đó có 3 dự án đầu tư FDI, 1 dự án liên doanh) với tổng mức đầu
tư của các dự án vào KCN này là: 1.574 tỷ đồng trên mức vốn đăng ký
2.854tỷ đồng đạt 55,15% và 21,3 triệu USD/ 58,4 triệu USD vốn đăng ký đạt
36,5%.
Trong tổng số 74 dự án được cấp phép đã có 55 dự án đi vào sản xuất

giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 đạt: 467,20 tỷ đồng, vượt 26% so với
kế hoạch; doanh thu đạt 787,40 tỷ đồng, vượt 26% so với kế hoạch; doanh thu
đạt 787,40 tỷ đồng, vượt 57% so với kế hoạch, bước đầu nộp ngân sách đạt
37,80 tỷ đồng vượt 150% so với kế hoạch và lượng hàng hóa xuất khẩu đạt

trên 40 triệu USD. Kết quả trên đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh
tế của tỉnh.
Các dự án đi vào hoạt động đã tạo ra trên 10.000 việc làm cho lực lượng
lao động trong và ngoài tỉnh. Tiền lương bình quân chung của người lao động
tại KCN Hòa Xá hiên đạt 850 – 900 đồng/người/ tháng. Tuy nhiên, qua khảo
sát ở các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, số công nhân có trình độ tay nghề
khá còn ít ở tất cả các ngành nghề, số lao động mới được tuyển dụng chưa
quen với tác phong và phương pháp quản lý công nghiệp, chưa phù hợp với
sức ép về thời gian, nội quy và yêu cầu về kỹ thuật của các doanh nghiệp.
Thành công của việc xây dựng & phát triển KCN Hòa Xá là sự khởi đầu
cho sự phát triển các KCN, CCN tỉnh Nam Định, có ý nghĩa quan trọng mở ra
quá trình phát triển các KCN, CĐCN khác của tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong tổng GDP, tạo sự bứt phá trong kinh
tế xã hội của tỉnh.
Thành công trên được xuất phát từ những nguyên nhân chính là:
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật về giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống dịch
vụ kỹ thuật v.v… của tỉnh đã từng bước được cải thiện có chiều hướng thuận
lợi cho đầu tư của các nhà đầu tư.
Cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư của tỉnh thông thoáng tạo sức thu hút
nhà đầu tư.
Trình độ cán bộ công chức trong Ban Quản lý các KCN, CCN và các
doanh nghiệp từng bước được hoàn thiện. Nội bộ đoàn kết có sự kết có sự
phối hợp tích cực giữa chính quyền và các tổ chức đoàn thể như công đoàn,
đoàn thanh niên qua đó phát huy đầy đủ tính dân chủ trong cơ quan, doanh
nghiệp.


Bên cạnh những thành công, còn bộc lộ những hạn chế cần khắc phục,
nhằm từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động KCN, CCN của tỉnh.
Trong công tác quản lý chưa xây dựng được quy chế phối hợp giữa Ban
Quản lý và các ngành chức năng có liên quan của tỉnh, nên một số hoạt động
có nơi có lúc còn bị chồng chéo gây tốn kém thời gian của doanh nghiệp.
Công tác đầu tư hạ tầng chưa thật đáp ứng kịp thời đòi hỏi của các Nhà
đầu tư, một số hạng mục có tiến độ chậm.
Việc cung cấp các dịch vụ phục vụ cho doanh nghiệp tuy đã được quan
tâm, cải tiến song có mặt còn hạn chế, có lúc còn gây bức xúc cho doanh
nghiệp.
Việc phối hợp giữa các doanh nghiệp trong quá trình SXKD còn nhiều
bất cập.
Tốc độ thu hút đầu tư còn chậm, đặc biệt là là đầu tư FDI; chưa mời gọi
được những dự án lớn, những nhà đầu tư tầm cỡ thế giới và khu vực đến đầu
tư tầm cỡ thế giới và khu vực đến đầu tư.
Một số vấn đề quan trọng có tính quyết định trong quá trình hình thành
và phát triển là công tác đầu tư hạ tầng, công tác kêu gọi xúc tiến đầu tư. Để
đảm bảo cho quá trình xúc tiến đầu tư được thuận lợi, tránh những thiệt hại
không đáng có cho nền kinh tế quốc dân nói chung. Ban quản lý tỉnh nam
Định đã có các giải pháp và kiến nghị các cơ quan hữu quan với nội dung
sau:
1. Chính phủ cân có cơ chế chính sách ưu đói cho những tỉnh không có
lợi thế về thu hút đầu tư (là những tỉnh có vị trí địa lý không thuận lợi, xa
trung tâm, hạ tầng cơ sở, dịch vụ kém, thu nhập bình quân thấp).
2. Có cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư hợp lý cho những doanh nghiệp
xây nhà cho công nhân.

3. Mở rộng hệ thống đào tạo nghề ở các tỉnh trên cơ sở dự báo những
ngành công nghiệp se đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu về cung cấp nguồn nhân

lực có chất lượng.
1.3.2. Hải Dương
Dự án “Xây dựng cơ sở hạ tầng Cụm công nghiệp tàu thuỷ Hải Dương”
được Hội đồng quản trị Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam chính
thức phê duyệt ngày 4/7/2003. Đây là một mô hình đầu tư có quy mô và ý
nghĩa lớn nằm trong kế hoạch phát triển và quy hoạch tổng thể ngành của
Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam đến năm 2010.
Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam – chủ đầu tư dự án thông
qua Ban Quản lý thực hiện dự án đầu tư “Cụm công nghiệp tàu thủy Hải
Dương”. Ngày 26/11/2004 đã diễn ra Lễ bàn giao đất của UBND tỉnh Hải
Dương cho Ban quản lý dự án Cụm công nghiệp tàu thuỷ Hải Dương.
“Cụm công nghiệp tàu thuỷ Hải Dương” (CCN) được đầu tư xây dựng tại xã
Lai Vu – huyện Kim Thành – tỉnh Hải Dương. Cụm công nghiệp được xây
dựng trên diện tích 192.5 ha, có tổng mức đầu tư khoảng gần 400 tỷ đồng. Tại
đ đây sẽ hình thành thêm một trung tâm công nghiệp tàu thuỷ đa năng ở miền
Bắc – nơi có vị trí chiến lược nằm kề với tam giác kinh tế trọng điểm miền
Bắc (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh). CCN cách thủ đô Hà Nội khoảng
50km đọc theo Quốc lộ 5, cách biên giới Việt Trung 180km, rất thuận lợi cho
việc vận chuyển nguyên liệu và cung cấp sản phẩm cho các vùng kinh tế
trọng điểm trong và ngoài nước.
Cơ sở hạ tầng CCN được xây dựng khá quy mô, đồng bộ và hoàn chỉnh
bao gồm: Hệ thống giao thông nội bộ, hệ thống đầu mối giao thông giữa CCN
và tuyến đường 5 Quốc gia, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp điện, cấp
nước, hệ thống thoát nước thải và nước mưa, hệ thống chiếu sáng , hệ thống
cây xanh, hệ thống rào CCN, nhà xưởng, kho bãi, nhà điều hành … (trong đó

hệ thống giao thông: tuyến đường mặt chính cắt 53m, tuyến đường vành đai
mặt cắt 22,5m; hồ điều hoà diện tích 1,75ha; mương thoát nước chiều dài
1075m; chiều dài mặt cắt QL5: 2km; chiều dài sông bao quanh: 6,5km;
đường sắt song song với QL 5: 2km; hai đầu Cụm công nghiệp có 2 ga xe lửa

Tiền Trung và Lai Khê). Tại đây sẽ tập trung đa dạng các ngành nghề phục vụ
cho phát triển ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam nói riêng và ngành công
nghiệp Việt Nam nói chung (dự kiến sẽ xây dựng trong CCN các công trình:
các nhà máy đóng mới, sửa chữa container, nhà máy gia công lắp ráp xe rơm
mooc và xe vận tải container, nhà máy đóng tàu, nhà máy tôn mạ màu, nhà
máy thiết bị an toàn tàu thuỷ, nhà máy điện khí cụ điện tàu thuỷ, nhà máy
chiết ga và khí công nghiệp, cảng, bãi container, trung tâm phát triển công
nghệ cao và một số công trình khác …). Cơ sở hạ tầng Cụm công nghiệp dự
kiến được xây dựng khá hoàn chỉnh, đồng bộ hiện đại theo đúng tiêu chuẩn
của một KCN kiểu mẫu - đảm bảo hạ tầng kỹ thuật gắn liền với hạ tầng xã
hội. Sự hình thành Cụm công nghiệp Tàu thuỷ Hải Dương – Trung tâm công
nghiệp đóng tàu có quy mô của cả nước chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ
trong việc tăng cường tính hiệu quả vốn đầu tư, đồng thời kết nối tuyến vận
tải đường biển và giao thông vận tải nội địa, giải quyết những vấn đề bất cập
đang đặt ra trong ngành vận tải, sản xuất ra những sản phẩm phục vụ nhu cầu
trong nước và tiến tới xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao đến
nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt bên cạnh hạ tầng CCN, hạ tầng xã hội của
CCN cũng rất được quan tâm chú trọng và phát triển đồng bộ với các hạng
mục công trình : khu dịch vụ – văn hoá - thể thao – thương mại, khu nhà ở
cho công nhân, trường công nhân kỹ thuật dạy nghề, hệ thống cây xanh … sẽ
đáp ứng được nhu cầu cuộc sống, sinh hoạt ngày càng cao của NLĐ trong
CCN, đồng thời làm tăng sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư đến với CCN.

Mục tiêu chiến lược phát triển Cụm công nghiệp đến năm 2010 với trọng
tâm được xác định là: xây dựng, phát triển ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt
Nam đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Phấn đấu đến
năm 2010 đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có nền công nghiệp Tàu thuỷ
phát triển vào bậc Trung bình tiên tiến trong khu vực; Mục tiêu tới năm 2010
đạt tỷ lệ nội địa hoá 60% đối với các sản phẩm tàu biển đóng mới; tập trung
xây dựng mới một số nhà máy trọng điểm đóng và sửa chữa tàu lớn từ 30.000

DWT đến 100.000DWT.
Mười tám tháng qua, dưới sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Ban lãnh đạo
Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam, sự điều hành năđộng, sáng
tạo của Ban quản lý dự án cùng với tinh thần nhiệt tình, tâm huyết và trách
nhiệm cao trước công việc của tập thể CBCNV Ban quản lý, đến nay giai
đoạn 1 của dự án (san nền, đền bù GPMB, đường giao thông, hồ điều hoà,
mương …) đã gần đi vào hoàn tất. Chắc chắn khi dự án hoàn thành và đi vào
hoạt động sẽ hứa hẹn mọi sự khởi sắc mới trong ngành công nghiệp Tàu thuỷ
Việt Nam, đưa tên tuổi và thương hiệu “VINASHIN” lên một tầm cao mới,
đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội tỉnh Hải Dương và của miền Bắc
phát triển toàn diện.
* Bài học kinh nghiệm rút ra từ các nước và một số địa phương về
phát triển cụm công nghiệp.
Phát triển cụm công nghiệp là một nội dung của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, là bước đi có tính “tuần tự” của các nước đang phát triển.
Phát triển cụm công nghiệp cần chú trọng đảm bảo phát triển bền vững,
bảo vệ tài nguyên môi trường.

Cần hoàn thiện đồng bộ, hệ thống các giải pháp từ: quản lý vĩ mô (luật
pháp, chính sách, cơ chế, công tác quy hoạch…) đến hoạt động quản lý vi mô
của các doanh nghiệp.
Phát triển cụm công nghiệp cần chú ý đảm bảo kết hợp hài hoà giữa phát
triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng quan tâm đến đời
sống, việc làm của nhân dân.
Tăng cường công tác quản lý đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng đất
trong các điểm công nghiệp, từng bước giảm tình trạng quy hoạch treo, dự án
treo trong các cụm công nghiệp.
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đảm bảo tầm nhìn xa và khả
năng tiếp nối của các cụm công nghiệp với các khu công nghiệp, khu đô thị
dịch vụ và thương mại.

Chú trọng chăm lo với đời sống người lao động, bố trí, sắp xếp quy hoạch
nhà ở, trạm xá, trường học và hạ tầng kinh tế xã hội phù hợp với phát triển
cụm công nghiệp ở địa phương.

×