Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ( gv: Thu Điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 29 trang )

- 1 -
5
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP TAM KỲ
TRƯỜNG THCS NGUYỄN HUỆ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài : MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
Người thực hiện : Nguyễn Thị Thu Điểm
Tổ : Toán – Lý - Tin
Tam Kỳ, tháng 4/2010
- 9 -
12/38
31.6%
23/38
60.5%
3/38
7.9%
8/38
21.1%
23/38
60.5%
7/38
18.4%
6/38
15.8%
17/38
44.7%
15/38
39.5%
25/38
65.8%


11/38
28.9%
2/38
5.3%
Nhận xét chung :
+Ưu điểm :
- Một số em bước đầu biểu hiện một số kỹ năng ứng xử qua giao tiếp thông
thường khá tốt (quan sát, biểu hiện ý nghĩ, tình cảm, tự chủ, đặc biệt là đã biết
tôn trọng nhân cách người giao tiếp). Trong số này, các em gái có biểu hiện rõ
ràng hơn các em trai.
- Một số em đã có những kỹ năng chủ yếu, cần thiết khi làm việc theo
nhóm, có tinh thần tập thể, biết lắng nghe, chia sẻ, hỗ trợ kể cả lúc tham gia
sinh hoạt tập thể và lao động.
+ Hạn chế :
- Còn rất nhiều em chưa hình thành rõ nét các kỹ năng ứng xử cơ bản, dù
đang ở độ tuổi học sinh cuối cấp THCS. Trên 60% học sinh lớp 9/1 chưa đạt yêu
cầu về các kỹ năng : tự chủ, tôn trọng, biểu hiện ý nghĩ, tình cảm ; phần lớn là do
chưa được giáo dục, định hướng cụ thể ; chủ yếu chỉ bộc lộ một cách tự phát các
lĩnh vực trên qua bắt chước, qua nhận thức non nớt thường thấy ở độ tuổi này.
- Đa số học sinh lớp 9/1 còn yếu về các kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo
nhóm. Các em chưa thực sự chung sức, chia sẻ, phân công công việc một cách tự
chủ và hợp lý. Kỹ năng chất vấn, thuyết phục còn rất hạn chế; cá biệt có một vài
em chưa thực sự bộc lộ tính cách, còn có tâm lý e dè, chưa thực sự sống gần gũi
bạn bè, tập thể.
V. Nội dung nghiên cứu
- 10 -
Trên cơ sở thực trạng đã nghiên cứu, tôi đã xây dựng hệ thống các biện
pháp sau đây để tác động đến các em nhằm đạt được yêu cầu đề ra là góp phần
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp mình chủ nhiệm :
V.1. Tập trung dạy học thật tốt bộ môn mình phụ trách, biết cách lồng

ghép các nội dung giáo dục kỹ năng một cách nhẹ nhàng, hợp lý, khơi dậy
trong các em nhận thức, tình cảm đối với các kỹ năng sống cơ bản.
V.1.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp :
- Bản thân kiến thức khoa học đã chứa đựng trong đó rất nhiều thông tin,
trong đó có các nội dung liên quan đến việc phát triển kỹ năng của con người.
Con đường tìm ra các chân lý khoa học đòi hỏi phải có những kỹ năng sống mà
những nhà nghiên cứu, nhà khoa học không thể thiếu. Do vậy, thông qua việc
giảng dạy bộ môn, người giáo viên hết sức quan tâm đến việc khơi dậy trong học
sinh con đường mà các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học đã đi để qua đó dần
dần hình thành trong các em những kỹ năng cần có.
- Thời gian tiếp xúc với học sinh của người giáo viên chủ nhiệm lớp ở
trong các tiết giảng dạy trên lớp là nhiều nhất. Đây là dịp tốt nhất để cô và trò có
thể thảo luận, trao đổi một cách nhẹ nhàng nhưng hiệu quả về những kỹ năng cần
có của một con người sống có ích cho xã hội thông qua những kiến thức khoa
học rất cụ thể.
V.1.2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp:
- Tự thân môn Toán mà tôi đang trực tiếp giảng dạy trên lớp đã chứa đựng
nhiều nội dung giáo dục kỹ năng. Do vậy, trong từng tiết dạy, tôi đều chú ý hình
thành óc quan sát, tư duy so sánh, đối chiếu; năng lực phân tích, tổng hợp, khái
quát hoá vấn đề để hình thành kiến thức mới. Việc sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp giảng dạy, trong đó có chú ý ứng dụng công nghệ thông tin, cải
- 11 -
tiến phương pháp dạy học sẽ làm cho các em dần dần hình thành được các kỹ
năng cơ bản của con người lao động sáng tạo.
- Để các tiết dạy trên lớp đạt các yêu cầu góp phần rèn kỹ năng sống, tôi
đặc biệt chú ý khâu soạn bài, chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất cho tiết lên lớp. Bài
soạn được chú ý đầu tư về phần thực hành, hệ thống câu hỏi gợi mở, các đồ dùng
dạy học mang tính trực quan, các thí nghiệm để qua đó làm cho tiết học sinh
động và các kỹ năng sống dần dần được hình thành ở mỗi em.
V.2. Tăng cường tổ chức và động viên các em tham gia nhiều hơn các

hoạt động tập thể phù hợp với lứa tuổi, qua đó tranh thủ chỉ vẽ cho các em
những việc làm, những suy nghĩ hết sức cụ thể, thiết thực.
V.2.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp :
- Trong các loại hình giáo dục thanh thiếu niên, có thể nói hoạt động tập
thể là loại hình giáo dục rất hiệu quả vì nó vừa là phương tiện giải trí lành mạnh,
vui chơi sinh động, phù hợp với đặc điểm tâm lý, vừa là phương tiện giáo dục
rèn luyện nhẹ nhàng, sâu sắc.
- Qua các hoạt động tập thể, đặc biệt là trò chơi, người giáo viên có thể tiếp
cận từng đối tượng, hiểu rõ tâm tư tình cảm, năng khiếu, sở trường, từ đó hình
thành phương thức tiếp cận, tập hợp phát huy tối đa năng lực của mỗi em. Đặc
biệt, tổ chức tốt các hoạt động tập thể giúp các em hình thành tốt các kỹ năng :
Lắng nghe - Chất vấn - Thuyết phục - Tôn trọng - Trợ giúp - Sẻ chia - Chung
sức.
V.2.2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp:
Các hoạt động tập thể phù hợp lứa tuổi học sinh THCS chủ yếu là các trò
chơi tập thể. Tôi thường soạn nội dung, giống như soạn giáo án trước khi dạy:
đưa những trò chơi gì vào chương trình sinh hoạt tại các buổi sinh hoạt, thứ tự
- 12 -
tiến hành các loại trò chơi (lúc mở đầu, giữa và cuối buổi sinh hoạt, mỗi thời
điểm cần có một số trò chơi thích hợp).
Việc chọn lựa các trò chơi trong một buổi sinh hoạt nhất định phải căn cứ
vào nhiều yếu tố:
- Người tham dự cuộc chơi: độ tuổi (rất quan trọng), tình hình sức khỏe,
trình độ văn hóa, kỹ năng chuyên môn (trò chơi không vượt quá khả năng thể
lực, trí tuệ, của người chơi), giới tính: có loại trò chơi thích hợp với nam nhưng
lại không thích hợp với nữ và ngược lại, số lượng người tham dự: có loại trò chơi
chỉ vui với số ít (do đó phải chia người chơi thành nhiều nhóm nhỏ, chơi làm
nhiều đợt), ngược lại có loại trò chơi chỉ thích hợp với một số lượng người chơi
đông, có loại trò chơi chỉ có thể tiến hành với một số đối tượng đã quen biết
nhau (cùng đội, cùng đoàn…) nên không thích hợp với đa số người mới gặp

nhau lần đầu.
Địa điểm: trong lớp, ngoài sân trường, nơi trống trải, nơi có cỏ, cây xanh,
sân bãi rộng hẹp, có hoặc không có giới hạn rõ ràng, xét đến ảnh hưởng qua lại
của môi trường với việc tổ chức thực hiện trò chơi.
- Khí hậu, thời tiết: mùa, tháng trong năm, ban ngày, ban đêm (để quyết
định thời gian, cường độ thích hợp của các trò chơi).
- Thời gian chơi: thời gian chung dành cho toàn bộ các trò chơi trong buổi
sinh hoạt hoặc ngày cắm trại và thời gian riêng của từng trò chơi trong chương
trình chung.
- Tác dụng, hiệu quả chính phụ của mỗi trò chơi: trò chơi rèn luyện, phát
triển đức tính hoặc khám phá những đức tính gì ở người chơi (thể lực, sự mềm dẻo,
khéo léo, sự nhanh trí, óc quan sát ? …), tôi thường xác định rõ mục tiêu giáo dục
trong buổi sinh hoạt… để chọn những trò chơi đáp ứng yêu cầu của mình.
- 13 -
- Tính chất của mỗi trò chơi: trò chơi rất đông (đòi hỏi một sự nỗ lực
hỗn hợp, kéo dài suốt cuộc chơi với cường độ cao hoặc vừa phải), trò chơi động
(đòi hỏi một sự nỗ lực liên tục nhưng có xen kẽ những lúc nghỉ ngơi ngắn), trò
chơi tĩnh (sự nỗ lực về mặt thể lực yếu nhưng sự nỗ lực về tinh thần, trí tuệ lại
cao, trò chơi mang tính chất giải trí nhưng thư giãn trong niềm vui).
Trong một lần sinh hoạt tập thể nên xen kẽ các trò chơi rất hoạt động với
các trò chơi động và tĩnh để tránh sự mệt mỏi quá sức về thể chất của các em
hoặc sự mệt mỏi do ít hoạt động thể lực và nhàm chán (chơi một trò chơi quá
lâu, lập lại một trò chơi mới hơn …
Trong khi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể, tôi thường đóng vai trò
tư vấn để giải quyết các tình huống nảy sinh. Đôi khi phải là người bạn thật sự
của các em để nghe các em giãi bày trọn vẹn một vấn đề bức xúc ; đôi lúc lại
phải trực tiếp gặp gỡ nhiều người có liên quan để nghe ngóng, gỡ rối… giúp cho
các em giải quyết các vướng mắc, mà qua đó, giúp cho các em có thêm những
bài học sinh động từ thực tế của chính các em.
V.3. Quan tâm giao việc ngày càng nhiều cho tập thể nhóm, tổ trong lớp,

đồng thời chỉ vẽ, động viên, kiểm tra, đánh giá thường xuyên, sát đúng.
V.3.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp :
- Mọi thành viên trong tổ chức sẽ càng đồng lòng hướng tới mục tiêu và
dốc sức cho thành công chung của tập thể khi họ cùng nhau xác định và vạch ra
phương pháp đạt được chúng.
- Là thành viên của một nhóm, họ có cảm giác kiểm soát được cuộc sống
của mình tốt hơn và không phải chịu đựng sự chuyên quyền của bất cứ người
lãnh đạo nào.
- 14 -
- Khi các thành viên cùng góp sức giải quyết một vấn đề chung, họ học hỏi
được cách xử lý mọi nhiệm vụ đơn giản hay khó khăn; họ học hỏi từ những
thành viên khác và cả người lãnh đạo. Thúc đẩy quản lý theo nhóm là cách tốt
nhất để phát huy năng lực của các nhân viên (một hình thức đào tạo tại chức).
- Hoạt động theo nhóm mang lại cơ hội cho các thành viên thoả mãn những
nhu cầu về bản ngã, được đón nhận và thể hiện mọi tiềm năng.
- Quản lý theo nhóm giúp phá vỡ bức tường ngăn cách, tạo sự cởi mở và
thân thiện giữa các thành viên và người lãnh đạo.
- Thông qua việc quản lý theo nhóm, các thành viên có thể học hỏi và vận
dụng phong cách lãnh đạo từ cấp trên của mình. Điều đó tạo sự thống nhất về
cách quản lý trong tổ chức.
- Hoạt động theo nhóm giúp phát huy khả năng phối hợp những bộ óc sáng
tạo để đưa các quyết định đúng đắn.
V.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp:
- Những mục tiêu cần đạt trong làm việc theo nhóm:
+ Làm việc theo nhóm cần động viên tất cả các thành viên tham dự và kích thích
sự suy nghĩ của họ.
+ Các thành viên tham dự trong nhóm cần bám vào một chủ đề và tìm ra giải
pháp giải quyết vấn đề đó.
Các bước tiến hành phương pháp làm việc theo nhóm:
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ

- Nêu và giải thích rõ ràng mục tiêu làm việc, giao nhiệm vụ một cách rõ ràng
cho từng nhóm làm việc để mỗi em trong nhóm hiểu được công việc cần phải
làm và mô tả một cách cụ thể cách thực hiện các nhiệm vụ đó. Cần lưu ý là nếu
không đề ra nhiệm vụ rõ ràng thì không có được kết quả thuyết phục. Những
- 15 -
mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung làm việc theo nhóm có thể được viết ra giấy và
phát cho mỗi nhóm.
- Định thời gian làm việc của mỗi nhóm kể cả giờ giải lao. Ấn định thời gian họp
lại sau khi thảo luận nhóm (để báo cáo kết quả làm việc ở nhóm)
- Dự kiến địa điểm và chuẩn bị những điều kiện tối thiếu cho nơi làm việc của
mỗi nhóm.
-Nêu cách thức làm việc của nhóm
-Cung cấp các thông tin liên quan với chủ đề.
- Thông báo công việc của giảng viên trong thời gian các nhóm làm việc.
Bước 2: Chia nhóm
- Xác định số lượng các em của mỗi nhóm phù hợp với yêu cầu làm việc. Thực
hiện việc chia nhóm theo những cách: ngẫu nhiên ( phát bìa, thẻ, điểm số ),theo
sự chỉ định của giáo viên hoặc theo sở thích của các em.
- Cung cấp những câu hỏi định hướng quá trình làm việc của nhóm.
Bước 3: Làm việc trong nhóm
-Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm
- Giáo viên tham gia quản lý và định hướng làm việc cùng các nhóm, hỗ trợ cho
các nhóm khi cần thiết.
Bước 4: Đại diện các nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm. Các nhóm khác
đóng góp ý kiến và tham gia tranh luận.
Bước 5: Giáo viên tổng kết và rút ra kết luận về đề tài đã đưa ra.
Có 2 dạng nhóm làm việc:
+ Nhóm đồng việc: Tất cả các nhóm đều cùng chủ đề (chung một công việc) mà
vấn đề hay nhiệm vụ đó có thể được giải quyết theo nhiều cách thức khác nhau
tùy theo cách tiếp cận vấn đề khác nhau.

- 16 -
+ Làm việc nhóm theo vị trí công việc: được áp dụng khi một nhiệm vụ chung
cần thực hiện có thể phân ra thành nhiều nhiệm vụ nhỏ mà các giải pháp của
chúng được tập hợp chung lại sau khi kết thúc làm việc theo nhóm. Hình thức
này đòi hỏi giảng viên phải chuẩn bị nhiều hơn để đáp ứng cho các nhóm có
những phần việc riêng cụ thể khác nhau.
V.4. Tăng cường phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài lớp,
ngoài trường để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
V.4.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp :
- Công tác phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội có ý nghĩa quan trọng
đối với chất lượng giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên. Điều 93 Luật Giáo dục
2005 khẳng định "Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp với gia đình và
xã hội để thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục". Hiện nay, công tác phối hợp
nhà trường, gia đình và xã hội trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em,
học sinh đã đạt được những kết quả nhất định, phát huy được sức mạnh tổng hợp
và huy động được các nguồn lực trong xã hội tham gia ngày càng tích cực vào sự
nghiệp giáo dục và đào tạo.
- Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, công tác phối
hợp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời với nhu cầu về chất lượng và số
lượng nguồn nhân lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng một số trẻ em chưa
được hưởng điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt nhất; vẫn tồn tại một
bộ phận học sinh có biểu hiện vi phạm về đạo đức, có lối sống hưởng thụ, vướng
vào các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật.
V.4.2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp:
- 17 -
- Trong các buổi họp cha mẹ học sinh hoặc tiếp xúc riêng, tôi đều nêu rõ trách
nhiệm của gia đình trong việc giáo dục con em nói chung và rèn luyện kỹ năng
sống cho các em nói riêng. Vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức lối
sống cho học sinh phải được đặc biệt coi trọng. Trước hết, các bậc cha mẹ phải

là những tấm gương về đạo đức cho các em học tập. Cha mẹ cũng phải uốn nắn,
răn dạy con em từ lời ăn, tiếng nói đến cách ứng xử trong đời sống thường ngày.
Để từ đó xây dựng, hình thành trong các em thói quen ứng xử có văn hóa ngay từ
trong gia đình. Các gia đình còn phải liên hệ, phối hợp chặt chẽ với nhà trường
trong việc quản lý giờ giấc, theo sát hoạt động, hướng các em đến những hoạt
động lành mạnh, tránh xa tệ nạn xã hội, giáo dục các em trở thành những con
người có lý tưởng, hoài bão phấn đấu vươn lên. Tôi thực hiện thường xuyên số
liên lạc gia đình – nhà trường, tổ chức gặp gỡ cha mẹ học sinh định kỳ và đột
xuất, qua đó thông báo cho nhau tình hình và bàn biện pháp phối hợp giáo dục.
- Với nhiệm vụ là Chị phụ trách Chi đội, hướng dẫn các hoạt động của Đoàn
viên thanh niên trong lớp, tôi thường xuyên trao đổi, bàn bạc với Bí thư Đoàn
trường, Tổng phụ trách Đội để phối hợp giáo dục. Trong thực tế, nếu kết hợp này
được tiến hành thường xuyên, hiệu quả thì chất lượng giáo dục kỹ năng cho các
em sẽ cao hơn nhiều so với nỗ lực riêng lẻ của mỗi thành viên.
- Tham mưu với lãnh đạo nhà trường tổ chức các Câu lạc bộ (CLB) nhằm tạo sân
chơi tập thể bổ ích cho các em. Trong các CLB đã tổ chức tại trường THCS
Nguyễn Huệ, các CLB Tin học trẻ, CLB Sưu tầm Tem, CLB giải toán violympic
trên mạng Internet, chương trình Vui học hàng tuần vào tiết chào cờ sáng thứ hai
đã hoạt động rất có hiệu quả, góp phần hình thành trong các em các kỹ năng làm
việc tập thể rất đạt yêu cầu.
VI. Kết quả nghiên cứu
- 18 -
Qua gần 2 năm kiên trì thực hiện các biện pháp đã nêu ở các phần trên, kết
quả đạt được ở lớp 9/1 được đánh giá như sau :
- Các em học sinh lớp 9/1 tiến bộ rất nhiều trong việc hình thành và thể
hiện các kỹ năng sống cơ bản trong giao tiếp và trong làm việc theo nhóm.
- Các em đã biểu hiện tình cảm, ý nghĩ trong giao tiếp rất rõ ràng, đúng
mực. Biết quan sát, biết tôn trọng nhân cách của nhau và có năng lực tự chủ
trong giao tiếp, trong sinh hoạt, thể hiện rõ nhất trong tiết sinh hoạt lớp,
HĐNGLL hay trong sinh hoạt Đoàn-Đội.

- Đặc biệt kỹ năng làm việc theo nhóm rất thành công, mỗi tổ của lớp là
một nhóm trong mọi sinh hoạt tập thể, các em đã biết lắng nghe, chất vấn, chung
sức nhau để hoàn thành nhiệm vụ mà tổ được giao có tính thuyết phục rất cao.
Cuối tháng 3/2004 vừa qua, trường THCS Nguyễn Huệ tổ chức Hội Trại ứng
dụng công nghệ thông tin, lớp 9/1 đã tham gia tích cực các hoạt động tập thể của
trại và đạt thành tích xuất sắc. Qua đó, tôi nhận thấy các kỹ năng sống của các
em đã được định hình và đã thể hiện rất rõ. Các kỹ năng quan sát đối tượng ;
biểu hiện ý nghĩ, tình cảm, nhận thức của mình với người khác ; tôn trọng nhân
cách người giao tiếp và năng lực tự chủ trong các tình huống giao tiếp đã được
các em thể hiện tốt. Đặc biệt là trong Hội Trại này, các công việc giao đòi hỏi
phải làm việc theo nhóm đã được các em thực hiện đạt kết quả cao, nhất là các
kỹ năng cơ bản như chung sức, chia sẻ, phân công công việc một cách tự chủ và
hợp lý. Khi tiến hành, các em cũng đã thể hiện rất rõ kỹ năng chất vấn, thuyết
phục để động viên các thành viên trong nhóm hăng hái hoàn thành nhiệm vụ tập
thể giao.
Tuy vẫn còn một số em chưa tiến bộ kịp với bạn bè nhưng qua quan sát,
thăm dò và trao đổi với các đ/c phụ trách Đoàn-Đội, các giáo viên khác, các em
- 19 -
lãnh đạo lớp, tôi có kết quả sau thời gian áp dụng các biện pháp rèn kỹ năng
sống cho các em như sau :
+ Về kỹ năng ứng xử :
Năng lực quan sát đối
tượng
Kỹ năng biểu hiện ý
nghĩ, tình cảm…
Tôn trọng nhân cách
người giao tiếp
Năng lực tự chủ trong
giao tiếp
Tốt TB Kém Tốt TB Kém Tốt TB Kém Tốt TB Kém

20/38
52.6%
15/38
39.5%
3/38
7.9%
23/38
60.5%
13/38
34.2%
2/38
5.3%
25/38
65.8%
12/38
31.6%
1/38
5.2%
18/38
47.4%
17/38
44.7%
3/38
7.9%

+ Về kỹ năng làm việc nhóm :
Lắng nghe Chất vấn Thuyết phục Chung sức
Tốt TB Kém Tốt TB Kém Tốt TB Kém Tốt TB Kém
23/38
60.5%

13/38
34.2%
2/38
5.3%
18/38
47.4%
14/38
36.8%
6/38
15.8%
26/38
68.4%
10/38
26.3%
2/38
5.3%
25/38
65.8%
9/38
23.7%
4/38
10.5%

Nhận xét đánh giá chung :
Hơn 1/2 học sinh lớp 9/1 đã bước đầu có những chuyển biến tích cực về
việc định hình và thể hiện được các kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt
động phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi. Tất nhiên việc đánh giá mức độ Tốt-TB-
Kém về các kỹ năng này ở các em chỉ chủ yếu là dùng phương pháp quan sát, so
sánh nên chỉ có giá trị tham khảo trong một thời điểm nhất định, nhưng dù sao,
các số liệu thu thập được như trên cũng cho thấy: các biện pháp đề ra, nếu được

tổ chức thực hiện thường xuyên, nghiêm túc bằng tất cả nổ lực và tâm huyết của
người giáo viên chủ nhiệm lớp thì nhất định kết quả thu được sẽ rất cao về mặt
giáo dục kỹ năng sống cho các em.
VII. Kết luận
- 20 -
Để chung tay tìm ra cách giáo dục để trẻ biến nhận thức thành hành động,
nghĩa là trẻ không chỉ hiểu biết mà còn làm được điều hiểu biết thì cách giáo dục
cũ theo kiểu rao giảng suông, truyền đạt kiến thức suông không làm được sự
thay đổi hành vi. Đây là một thực tế không thể phủ nhận. Nhận thức được như
vậy, tôi nghĩ đây cũng chính là yêu cầu cho tất cả những giáo viên giáo viên chủ
nhiệm lớp trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Trong cách giáo dục mới, học sinh được giúp đỡ để biết mình là ai, mình
có mục đích, có ước mơ gì trong cuộc sống, biết dung hòa giữa cái tôi và cái ta,
các em có những lựa chọn và quyết định đúng trước những biến cố do sinh hoạt
mang đến. Để có năng lực tâm lý xã hội này trẻ cần được học: ý thức về giá trị
bản thân, sự đồng cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán đoán, kỹ
năng giao tiếp hiệu quả, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ
năng ra quyết định, kỹ năng bảo vệ môi trường và sức khỏe sinh sản, kỹ năng
chống bạo lực
Phương pháp dạy kỹ năng sống là giúp cho trẻ được trải nghiệm, đặt trẻ
trước nhiều tình huống để trẻ giải quyết theo nhóm thông qua sinh hoạt tập thể,
thảo luận, trò chơi và các hành động cụ thể. Qua đó các em sẽ học bằng hành,
các em phải tự quyết định với sự góp sức của nhóm theo hướng tích cực.
Giáo dục kỹ năng sống không dễ chút nào, thậm chí rất khó, vì nó nằm
ngoài cách suy nghĩ và thói quen của chúng ta từ trước đến nay. Giáo viên chủ
nhiệm quan tâm dạy kỹ năng sống phải tin vào khả năng của các em. Giáo viên
không áp đặt suy nghĩ của mình lên các em, không suy nghĩ thay cho các em mà
cần khơi dậy tiềm năng của chúng, hỗ trợ và phát triển tiềm năng này bằng thái
độ thông cảm và tôn trọng.
- 21 -

Giáo viên, ngoài cái tâm biết yêu các em, tôn trọng các em lại cần có kiến
thức về tâm lý lứa tuổi, kỹ năng sống, kỹ năng giáo dục chủ động, kỹ năng về
nhóm để vận dụng tâm lý nhóm vào phương pháp giáo dục. Giáo viên cũng cần
có khả năng sinh hoạt, hát, múa để tạo không khí sinh động, vui tươi, hòa đồng
làm nên sức hút thật mạnh mẽ.
VIII. Đề nghị
- Nhà trường cần luôn xác định : không chỉ chú trọng dạy kiến thức văn
hóa cho học sinh mà còn phải dạy các em cách sống, cách tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Do đó, nhà trường cần
thường xuyên phối hợp chặt chẽ với hội cha mẹ học sinh, đề ra và tổ chức thật
tốt “Quy chế phối hợp giáo dục học sinh”, tránh bệnh hình thức, thực sự tạo mối
liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình trong quản lý, giáo dục các em.
Đồng thời, nhà trường nên xây dựng quy tắc ứng xử giữa giáo viên và học sinh
trên cơ sở lấy ý kiến dân chủ của học sinh toàn trường, tạo cho các em sự tự giác,
nghiêm túc trong thực hiện các quy tắc chung, góp phần xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, giúp học sinh phát triển toàn diện.
- Nền tảng của việc giáo dục kỹ năng sống là ý thức cao về giá trị bản
thân nơi học sinh. Tất cả những yêu cầu hết sức đặc biệt đó của một giáo viên
chủ nhiệm lớp quan tâm dạy kỹ năng sống sẽ là một thách thức lớn cho chủ
trương đưa kỹ năng sống vào trường học. Nếu chúng ta không có lực lượng được
đào tạo chuyên biệt thì xem như không khác gì môn giáo dục công dân mà cả
học sinh và thầy cô giáo đều đang hết sức lúng túng. Do vậy, tôi xin đề nghị các
cấp quản lý giáo dục cần quan tâm đến việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
tư vấn tâm lý trong nhà trường. Chính đội ngũ này sẽ cùng với các giáo viên chủ
- 22 -
nhiệm lớp thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ giáo dục kỹ năng sống cho các em học
sinh, đặc biệt là các em lớp cuối cấp THCS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 23 -
1. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đức Hùng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới

tương lai-Vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
2. Bộ GD&ĐT (2008), Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 về
việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013, Hà Nội.
3. Bộ GD&ĐT (2008), Kế hoạch số 307/KH-BGDĐT ngày 22/7/2008 về việc
triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” trong các trường phổ thông năm học 2008-2009 và giai đoạn
2008-2013, Hà Nội.
4. Thùy Chi (2008), Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, NXB Lao động, Hà Nội.
5. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức (2003), Hệ thống giáo dục hiện đại trong
những năm đầu thế kỷ 21, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Đặng Xuân Hải (2005), Vận dụng lý thuyết “Quản lý sự thay đổi” để chỉ
đạo đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường hiện nay, Tạp chí Giáo dục,
số 110 (tháng 3/2005).
8. Nguyễn Thị Oanh (2006), Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên, NXB Trẻ,
TP HCM.
9. Bùi Tiến Quý (2008), Suy ngẫm và lựa chọn, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội.
10. Huỳnh Văn Sơn (2008), Bạn trẻ và kỹ năng sống, NXB Lao động Xã hội,
Hà Nội.
MỤC LỤC
- 24 -
I. Tên đề tài tr. 1
II. Đặt vấn đề tr. 1
II.1. Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu tr. 1
II.2. Những thực trạng liên quan đến vấn đề nghiên cứu tr. 2
II.3. Lý do chọn đề tài tr. 3
II.4. Giới hạn nghiên cứu tr. 3

III. Cơ sở lý luận tr. 3
III.1. Về kỹ năng ứng xử tr. 3
III.2. Về kỹ năng làm việc theo nhóm tr. 4
IV. Cơ sở thực tiễn tr. 6
V. Nội dung nghiên cứu tr. 9
V.1. Tập trung dạy học thật tốt bộ môn mình phụ trách, biết cách lồng
ghép các nội dung giáo dục kỹ năng một cách nhẹ nhàng, hợp lý, khơi dậy trong
các em nhận thức, tình cảm đối với các kỹ năng sống cơ bản tr. 9
V.2. Tăng cường tổ chức và động viên các em tham gia nhiều hơn các hoạt
động tập thể phù hợp với lứa tuổi, qua đó tranh thủ chỉ vẽ cho các em những việc
làm, những suy nghĩ hết sức cụ thể, thiết thực tr.10
V.3. Quan tâm giao việc ngày càng nhiều cho tập thể nhóm, tổ trong lớp,
đồng thời chỉ vẽ, động viên, kiểm tra, đánh giá thường xuyên, sát đúng tr.12
V.4. Tăng cường phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài lớp,
ngoài trường để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tr.15
VI. Kết quả nghiên cứu tr. 17
VII. Kết luận tr.19
VIII. Đề nghị tr. 20
PHỤ LỤC
- 25 -
Tổ chức các sinh hoạt tập thể cho lớp

×