Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

TIEU LUAN QUAN TRI DU LICH ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 89 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được bài tiểu luận này, trước hết nhóm chúng em
xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Công
Nghiệp TP.Hồ Chí Minh, khoa Thương mại - du lịch, thư viện và các
website tài liệu tham khảo đã tạo điều kiện cho nhóm chúng em trong
quá trình hoàn tất bài tiểu luận. Đặc biệt chúng em xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc tới Ts. Nguyễn Văn Hóa người đã tận tình hướng dẫn, tạo
điều kiện cho nhóm chúng em thực hiện và hoàn thành bài tiểu luận này.
Hy vọng những thông tin mà nhóm chúng em mang đến qua tiểu
luận này sẽ góp một phần giúp ích cho mọi người hiểu rõ hơn về ngành
du lịch của Australia. Với vốn hiểu biết và kiến thức còn hạn chế nên bài
tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót . Vì vậy chúng em rất
mong nhận được sự góp ý của thầy để bài tiểu luận này được hoàn chỉnh
hơn. Chúng em xin chân thành cám ơn!.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 11 năm 2010
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
1
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
MỤC LỤC.
- Lời cảm ơn…………………………………………………………… 1
- Nhận xét của GVHD…………………………………………………………….…….2
- Mục lục………………………………………………………………………….…….3
- Các chữ viết tắt………………………………………………………………….…….5
- Lời mở đầu……………………………………………………………………….… 6
1. Đặt vấn đề……………………………………………………………… ………… 6
2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………… ……… 6
3. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………… ………… 6
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………… ………7
5. Kết cấu đề tài……………………………………………………………… ………7
- Nội dung đề tài:………………………………………………………………… ………… 8
Chương1: Sơ lược về Australia và tình hình du lịch của Australia………………8
1.1 Sơ lược về Australia…………………………………………… …………………8
1.1.1 Lịch sử Australia……………………………………….………………… 8
1.1.2 Địa lí…………………………………………………….………………… 11
1.1.3 Hệ thống sông ngòi…………………………….………………………….12
1.1.4 Hồ……………………………………………………… ………………… 13
1.1.5 Các bang và vùng lãnh thổ………………………………………………13
1.1.6 Thủ tục Visa đi Australia ……………….….……………………….13

1.2 Tình hình du lịch của Australia……………………………… ……………… 62
2
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển du lịch ở Australia…………….62
1.2.2 Vị trí và vai trò của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân… 63
1.3 Thực trạng ngành du lịch Australia…………………………………………….64
1.4 Những thách thức mà ngành du lịch Australia phải đối mặt………………65
1.5 Biện pháp………………………………………………………………………… 66
Chương 2: Phân tích thị trường tiềm năng và động cơ của Australiacho ngành Du
lịch Việt Nam………………………………………………………………………….72
2.1 Thị trường tiềm năng ……………………………………………………………72
2.2 Tác động ảnh hưởng của ngành du lịch đối với Việt Nam………………….78
2.3 Tiềm năng du lịch ở Việt Nam………………………………………………… 89
2.4 Định hướng phát triển của ngành Du lịch Việt Nam…………………………90
2.5 Khẩu hiệu ngành Du lịch Việt Nam…………………………………………….93
- Kết luận …………………………………………………………………………………….93
- Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………………94
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
• UNWTO ( United Nations World Tourism Organization) : Tổ chức du lịch
thế giới.
• PMF ( Presidantial Management Fellows Program) : Chương trình khung
về quản lí các hoạt động.
• UTC: Giờ phối hợp quốc tế hay giờ trung bình Greenwich
3
• IHO (International Hydrographic Organization ) : Tổ chức thủy văn quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Ngày nay, ở nhiều nước trên thế giới du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp
phần quan trọng cho thu nhập kinh tế quốc dân, giải quyết nạn thất nghiệp đang có
chiều hướng gia tăng. Theo đánh giá của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), trong
những năm tới, viễn cảnh của ngành Du lịch toàn cầu nhìn chung rất khả quan.

UNWTO đã dự báo, đến năm 2010, lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới sẽ đạt
gần một tỷ lượt người, thu nhập xã hội từ du lịch đạt khoảng 900 tỷ USD và sẽ tạo
thêm khoảng 150 triệu chỗ làm việc trực tiếp. Trên Thế giới đã có nhiều quốc gia phát
triển mạnh vế ngành du lịch như: Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, …
mỗi quốc gia đều có thế mạnh riêng về tự nhiên cũng như văn hóa để phát triển ngành
du lịch đậm đà bản sắc dân tộc. Australia là một trong những quốc gia tiên phong về
ngành du lịch với những bờ biển trải dài bất tận, những công viên rộng lớn và những
cảnh quan ngoạn mục đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho đất nước đặc trưng của Châu Úc
này. Đến với nước Australia rộng lớn sẽ để lại cho quý khách những ấn tượng khó
quên, mỗi bang, mỗi thành phố của Úc đều có những phong cảnh quyến rũ, những kì
quan ngoạn mục mà khi tận mắt chứng kiến đã làm cho không ít khách du lich ngỡ
ngàng, choáng ngợp. Đến với Australia để trải nghiệm và chiêm ngưỡng vẻ đẹp hiếm
có này
Do đó, là sinh viên của khoa Thương mại- Du lịch trường Đại học Công nghiệp thành
phố Hồ CHí Minh thì việc tìm hiểu về tình hình và chiến lược phát triển du lịch của
Australia cũng như những tác động của đất nước này đối với ngành du lịch Việt Nam
là hết sức cần thiết để trang bị thêm kiến thức trong việc góp phần tìm ra những giải
pháp tối ưu cho ngành du lịch nước nhà.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Phân tích tình hình du lịch của Australia.
4
- Tìm hiểu những mặt hạn chế chưa giải quyết được của ngành du lịch Australia.
- Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm cải thiện tình hình du lịch trong bối
cảnh hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu của tiểu luận tập trung vào việc phân tích tình hình du lịch của
Ustralia.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu chủ yếu được dựa trên phương pháp thu thập số liệu, tài liệu từ
sách, báo điện tử, website có liên quan. Sau đó sử dụng phương pháp so sánh số

liệu rồi đưa ra nhận xét và kết luận.
5. Kết cấu đề tài:
Chương 1: Sơ lược về Australia và tình hình du lịch của Australia.
Chương 2: Phân tích thị trường tìm năng và động cơ của Australia
cho ngành du lịch Việt Nam.
Nội dung đề tài
5
Chương 1: Sơ lược về Australia và tình hình du lịch
của Australia.
1.1 Sơ lược về Australia :
1.1.1 Lịch sử Australia:
Lịch Sử Australia trước thế kỷ XX
Cư dân nguyên thủy ở Australia thường được gọi là Thổ Dân Australia hay Người
Bản Địa Australia , có nền văn hóa tiếp nối lâu đời nhất trên thế giới, bắt nguồn từ
Kỷ Băng Hà. Mặc dù truyền thuyết và tranh luận đã khiến nhiều lãnh vực của thời
tiền sử Australia trở nên mơ hồ nhưng nói chung người ta vẫn chấp nhận một điều
là tổ tiên của Người Thổ Dân có nguồn gốc từ Indonesia và họ đã vượt biển tới
đây từ khoảng 70.000 năm trước.

Người Âu Châu bắt đầu thám hiểm Úc Châu vào thế kỷ 16. Thoạt tiên là các nhà
hàng hải Bồ Đào Nha và sau đó là các nhà thám hiểm Hòa Lan và tên hải tặc bạo
gan người Anh William Dampier.
Vào năm 1770, thuyền trưởng James Cook đã lái thuyền đi dọc toàn bộ bờ biển
phía đông Úc Châu và đã ghé vào vịnh Botany Bay. Ngay sau đó thuyền trưởng
Cook tuyên bố vùng lục địa này thuộc chủ quyền của Anh Quốc và đặt tên là New
South Wales.
6
Đến năm 1779, Joseph Banks (một nhà tự nhiên học trên chuyến du hành của
James Cook) đưa ra ý kiến là Anh Quốc có thể giải quyết vấn đề quá tải của nhà tù
bằng cách chuyển bớt tù nhân đến New South Wales. Năm 1787, đoàn thuyền đầu

tiên với 11 chiếc tàu chở 750 tù nhân nam nữ đã khởi hành tới New South Wales
và đã đến Australia ngày 26 tháng Giêng năm 1788 nhưng sau đó đoàn thuyền đã
đi lên mạn bắc đến Sydney Cove nơi điều kiện đất đai và nước uống thuận tiện
hơn.

Đối với những người mới đặt chân đếnAustralia, New South Wales là nơi khắc
nghiệt và khủng khiếp, đó là chưa kể đến tình trạng thuộc địa mới này bị đe dọa
thiếu thốn thực phẩm trong nhiều năm trời. Để chống chịu với cuộc đấu tranh
chống lại thiên nhiên và một chính quyền áp bức, những cư dân Australia mới đã
xây dựng và phát triển một nền văn hóa và chính nền văn hóa này đã trở thành nền
tảng của huyền thoại “Aussie battler”.
Trong mấy thập niên sau đó, Úc Châu trở thành nơi hấp dẫn những người định cư
tự do. Nhưng chỉ đến những năm của thập niên 1850, chính việc khám phá vàng
mới thực sự thay đổi vĩnh viễn thuộc địa này. Các làn sóng di dân khổng lồ đã tràn
đến Australiavà việc khám phá một số mỏ vàng lớn đã góp phần đẩy mạnh nền
kinh tế cũng như thay đổi cơ cấu xã hội thuộc địa củaAustrlia. Những thành phần
mới đến định cư đã tàn nhẫn xua đuổi người Thổ Dân và chiếm đoạt đất đai của họ
để cấy cày hoặc khai thác mỏ.
Đến cuối thế kỷ 19, rất nhiều người đã có khuynh hướng lý tưởng hóa “vùng rừng
rậm” – “the bush” (tức là bất kỳ nơi nào ở cách xa thành phố) và con người sinh
sống ớ đấy. Một diễn đàn lớn về “chủ nghĩa quốc gia vùng rừng rậm” (bush
nationalism) chính là tạp chí Bulletin khá phổ biến. Nội dung của tạp chí này chứa
7
đầy những hình ảnh hài hước và tình cảm về cuộc sống đời thường. Hai ngòi bút
nổi tiếng nhất của tạp chí Bulletin chính là hai huyền thoại Henry Lawson và
'Banjo' Paterson.
Lịch sử Úc Thế Kỷ 20
Australia chính thức trở thành một quốc gia vào ngày 1 tháng 1 năm 1901 qua sự
thành lập một chính phủ liên bang bao gồm các thuộc địa riêng biệt. Lực lượng
quân đội Australia đã sát cánh chiến đấu với lực lượng Anh Quốc trong cuộc chiến

Boer và Thế Chiến Thứ Nhất. Nền kinh tế Australia đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vì hai sản phẩm kinh tế chiến lược của Australia
là len và lúa mì bị rớt giá thê thảm.
Năm 1931, gần một phần ba lực lượng lao động của Australia lâm vào tình trạng
thất nghiệp và nạn nghèo khó đã lan rộng khắp nơi. Nhưng chỉ 2 năm sau đó, năm
1933, nền kinh tế Úc đã bắt đầu hồi phục trở lại. Khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ,
quân Australia lại một lần nữa sát cánh chiến đấu với lực lượng quân đội Anh
Quốc ở Châu Âu. Nhưng chính Hoa Kỳ là quốc gia đã giúp bảo vệ Australia khỏi
sự tiến công của không lực Nhật bằng chiến thắng trên Biển San Hô.
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Australia lại tiếp nhận thêm một làn sóng di
dân mới từ Âu Châu. Những di dân này đã có những đóng góp đáng kể cho nước
Austrlia, làm hưng thịnh nền văn hóa và mở rộng tầm nhìn của đất nước.
Kỷ nguyên thời hậu chiến là thời gian nền kinh tế Australia phát triển bùng nổ do
nhu cầu cao về nguyên liệu thô trên thế giới. Sau đó Australia đã tham gia với Hoa
Kỳ trong Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và năm 1965 đã gởi quân đội sang Việt
Nam trợ giúp Hoa Kỳ trong Cuộc Chiến Tranh Việt Nam mặc dù việc hỗ trợ chỉ ở
mức giới hạn. Lệnh tổng động viên được ban hành năm 1964 đã khiến nhiều thanh
niên Australiađã gặp khó khăn vào thời gian này.
Tình trạng bất ổn trong xã hội do lệnh tổng động viên gây ra đã là yếu tố dẫn đến
việc Đảng Lao Động lên cầm quyền vào năm 1972 dưới sự lãnh đạo của Thủ
Tướng Gough Whitlam. Chính quyền Whitlam đã triệt thoái lực lượng quân đội ở
Việt Nam, hủy bỏ việc thi hành nghĩa vụ quân sự và học phí bậc đại học và cao
đẳng đồng thời xây dựng một hệ thống y tế phổ cập, miễn phí và ủng hộ quyền
làm chủ đất đai của Người Thổ Dân.
Tuy nhiên, Chính quyền của Thủ Tướng Whitlam đã bị hạn chế bởi sự chống đối
của một Thượng Viện thù địch cũng như dư luận về bộ máy quản lý không hiệu
quả. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1975, Tổng Toàn Quyền Australia (đại diện của
Nữ Hoàng Anh ở Austrlia) đã thực hiện một điều chưa từng xảy ra ởAustralia :
Giải tán quốc hội và thành lập một chính phủ lâm thời dưới sự lãnh đạo của thủ
lãnh Đảng Tự Do đối lập Malcolm Fraser. Liên đảng bảo thủ, bao gồm Đảng Tự

Do và Đảng Quốc Gia, đã chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử được tổ chức sau
8
đó và đã ở vị thế cầm quyền cho đến năm 1983, Mãi tới năm 1983, Đảng Lao
Động dưới sự lãnh đạo của nguyên lãnh tụ công đoàn Bob Hawke mới giành lại
quyền lãnh đạo chính quyền.
Lịch sử cận đại và nước Úc của ngày hôm nay.
Sau 11 năm cầm quyền, Đảng Tự Do Austrlia do ông John Howard lãnh đạo đã bị
Đảng Lao Động đánh bại trong cuộc bầu cử năm 2007. Ông Kevin Rudd chính
thức tuyên thệ trở thành Thủ Tướng thứ 26 của nước Austrlia vào ngày 3 tháng 12
năm 2007.
Nước Austrlia có một hệ thống chính phủ với lưỡng viện quốc hội dựa theo hệ
thống Westminster của Anh Quốc. Có ba cấp chính phủ: liên bang, tiểu bang và
địa phương. Quốc hội liên bang gồm có hai viện: Thượng Viện và Hạ Viện. Đảng
chính trị nắm đa số ghế tại Hạ Viện có quyền thành lập chính phủ.
1.1.2 Địa lí:
Địa hình
Là một châu đại dương rộng lớn nằm
về hướng nam của Indonesia và
Papua New Guinea, Australia nằm
giữa hai đại dương là Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương. Về mặt
diện tích, Austrlia đứng hàng thứ sáu
trên thế giới. Chiều dài từ đông sang
tây khoảng 4.000km và từ bắc xuống
nam là 3.200km. Hầu hết diện tích
nằm trong nội địa có địa hình bằng
phẳng, khô cằn và thưa thớt người ở.
Đa số cư dân sinh sống ở các vùng
bình nguyên duyên hải phì nhiêu, nhỏ
hẹp ven biển phía đông và bờ biển

đông nam. Diện tích to lớn khiến
Australia có nhiều kiểu khí hậu đa
dạng. Điều này cũng có nghĩa là vào
bất kỳ thời điểm nào cũng có thời tiết
đẹp ở một nơi nào đó trên đất
Austrlia.
Khí Hậu
Gần một phần ba nước Austrlia nằm
trong khu vực khí hậu nhiệt đới. Phần
còn lại có khí hậu ôn đới. Khu vực có
khí hậu lạnh nhất nằm ở góc đông
nam vùng đất liền và Tasmania.
9
Các mùa tại Australia:
Mùa hè Tháng 10- Tháng 12
Mùa thu Tháng 3- Tháng 5
Mùa đông Tháng 6- Tháng 8
Mùa xuân Tháng 9- Tháng 11
Múi Giờ
Do diện tích rộng lớn, Úc có ba múi
giờ khác nhau UTC +8 tới +10.5.
Việc chỉnh giờ theo mùa (Daylight
Saving) được thực hiện ở một số tiểu
bang vào mùa hè UTC+9 tới +11.5.
Giờ tiêu chuẩn Đông Bộ Úc
(AEST) : GMT +10 (Lãnh Thổ Thủ
Đô, New South Wales, Queensland,
Tasmania, Victoria).
Giờ tiêu chuẩn Trung Tâm Úc
(CST):GMT+9,5 (Nam Úc, Lãnh

Thổ Bắc Úc).
Giờ tiêu chuẩn Tây Bộ Úc (WST):
GMT+8 (Western Australia).
Mốc chỉnh giờ theo mùa của Úc
(ADST) cuối tháng Mười – cuối
tháng Ba : GMT+ 10,5 (Lãnh Thổ
thủ Đô, New South Wales, Nam Úc,
Tasmania, Victoria ).
1.1.3 Hệ thống sông:
Hệ thống sông của nửa phía đông của lục địa này bị chia cắt bởi dãy Great
Dividing Range vào phía tây là những người và những dòng chảy về phía đông.
Quan trọng nhất trong các con sông chảy về phía bờ biển phía đông là các
Burdekin, Fitzroy và Hunter. Các Murray-Darling-Murrumbidgee mạng, tổng
cộng khoảng 5.300 km chiều dài, chảy về phía tây từ lớn Dividing Range và cống
phần lớn đất ở Queensland, New South Wales, Victoria và South Australia vào
vùng biển phía Nam. Một phần đáng kể của hệ thống này là hàng hải, đặc biệt là
trong mùa mưa. Sông Murray chính thức hầu hết các biên giới giữa New South
Walies Và Victoria.
Các tiểu bang Victoria, Daly và Roper sông chảy một phần của Lãnh thổ Bắc Úc.
Tại Queensland các con sông chính chảy về phía bắc đến Vịnh Carpentaria là
10
Mitchell, Flinders, Gilbert, và Leichhardt. Các con sông chính của Tây Úc bao
gồm các Fitzroy, Ashburton, Gascoyne, Murchison và sông Swan.
1.1.4 Hồ:
Một biển nội địa rộng lớn khi mở rộng về phía nam từ Vịnh Carpentaria và khu
vực hiện nay chứa rất nhiều các hồ lớn của Australia, bao gồm các hồ saltry của
hồ Eyre, Hồ Torrens, hồ Frome và hồ Gairdner ở Nam Austrlia. Trong mùa khô
nhiều người trong số các hồ muối trở thành đầm lầy mặn, khảm giường hoặc chảo
đất sét.
Lưu vực phun kéo dài từ Vịnh Carpentaia vào các phần phía bắc của New South

Wales. Những trữ lượng nước dưới đất, thường được tìm thấy ở độ sâu lớn được
khai thác bằng cách khoan và cung cấp nước cần thiết cho vật nuôi. lưu vực phun
khác ở phía đông nam, phía tây bắc và dọc theo Great Australia sáng.
1.1.5 Các bang và vùng lãnh thổ:
Các Tiểu Bang và Lãnh Thổ Úc
• New South Wales
• Victoria
• Tasmania
• Queensland
• Nam Úc
• Tây Úc
• Lãnh Thổ Thủ Ðô
• Lãnh Thổ Bắc Úc
 Queensland
11

 Queenslandlà một tiểu bang của Úc, chiếm phần góc đông bắc của lục địa Úc
châu. Nó giáp với Northern Territory về phía tây, Nam Úc (South Australia) về
phía tây nam và New South Wales về phía nam. Về phía đông, Queensland
giáp với biển Coral và Thái Bình Dương. Đây là tiểu bang rộng thứ nhì Úc
châu nếu tính về diện tích, theo sau Western Australia, và là bang đông dân thứ
ba sau New South Wales và Victoria.
 Khu vực này được khai phá và sinh sống bởi thổ dân người Úc và người đảo
Torres Strait, những người đến đây khoảng 40 000 đến 65 000 năm về trước,
theo những phương pháp định thời đại khác nhau
[1]
. Sau này, Queensland được
trở thành một thuộc địa của Anh tách ra khỏi New South Wales vào 6 tháng 6
năm 1859, một ngày bây giờ được kỉ niệm hàng năm như là Ngày Queensland.
Khu vực bây giờ tạo thành Brisbane nguyên là khu thuộc địa tội dành cho tội

phạm hình sự ở vịnh Moreton, dự tính là cho những phạm nhân tại phạm tội
khi thi hành án ở New South Wales. Bang này sau đó khuyến khích định cư tự
do, và ngày nay kinh tế của Queensland chủ yếu là do các thành phần kinh tế
nông nghiệp, du lịch và khai thác khoáng sản tự do.
 Dân cư tiểu bang tập trung ở vùng góc phía đông nam, bao gồm thủ phủ
Brisbane, thành phố Logan, Ipswich, Toowoomba, Gold Coast và Sunshine
Coast. Các thị trấn trung tâm khác bao gồm Cairns, Townsville, Mackay,
Rockhampton, Bundaberg và Mount Isa. Queensland thường được gọi với tên
thông tục là "Sunshine State" vì nó có khí hậu ấm áp và phần lớn tiểu bang
nằm trong vùng nhiệt đới. Dân Queensland thường được biết đến như là
"Banana Benders" (người say ăn chuối) hay "Canetoads" (con cóc mía), từ thứ
nhất có lẽ là do có nhiều đồn điền trồng chuối ở khu vực nhiệt đới của tiểu
bang, và từ thứ hai nảy sinh từ một thảm họa về môi trường xảy ra khi cóc mía
được nhập khẩu để diệt trừ một loại bọ cánh cứng làm hại các cánh đồng mía.
 Du lịch là ngành công nghiệp dẫn đầu của Queensland với hàng triệu lượt
khách du lịch từ các bang khác và từ nước ngoài đổ về mỗi năm. Queensland là
một bang có nhiều địa điểm du lịch hấp dẫn với các khu bờ biển nhiệt đới đầy
12
nắng và các thắng cảnh có vẻ đẹp được thiên nhiên ban tặng như:
- Bờ biển Vàng
- Bờ biển Ánh dương
- Brisbane
- Whitsundays (Bãi biển Airlie, Bãi biển Whitehaven, Đảo Hamilton, Đảo
Daydream).
- Vùng viễn bắc Queensland (Cairns, Cảng Douglas, The Great Barrier Reef,
The Daintree)
- Đảo Bắc Stradbroke và Đảo Nam Stradbroke
Queensland còn được mệnh danh là “Thủ đô Công viên giải trí của Ôxtrâylia”
với năm công viên giải trí chính:
- Dreamworld

- Movie World
- Sea World
- Wet 'n' Wild
- WhiteWater World
Queensland có năm Di sản Thế giới được xếp hạng các khu du lịch được bảo
tồn:
- Khu di tích động vật hoá thạch Ôxtrâylia ở Riversleigh
- Khu bảo tồn rừng Trung Đông
- Đảo Fraser
- Vỉa san hô ngầm
- Vùng nhiệt đới ẩm Queensland
 Ngày nay kinh tế của bang chủ yếu là chế biến nông sản, khai khoáng và du
lich. Lượng khách du lịch quốc tế hàng năm chiếm khoảng 50% lượng
khách đến Australia.
• Thủ đô – Brisbane
13
Brisbane là thành phố lớn thứ 3 ở Australia. Nhưng không như những thủ phủ
khác đang ầm ĩ tranh giành vị trí hàng đầu, Brisbane đang lặng lẽ thay đổi theo
một phong cách ngẫu nhiên, đúng kiểu của Queensland. Không cần phải quảng
cáo những ưu điểm của mình vì người dân địa phương đã biết đây là một trong
những nơi sinh sống hấp dẫn nhất nước. Với du khách, Brisbane là một nơi tóm
gọn những đặc điểm ưu việt nhất nước Úc; đây quả là một thành phố lớn nhưng
không chỉ là những bề ngoài hào nhoáng và hầu như không có sự chạy đua trong
cuộc sống.
Khởi đầu là một thủ phủ trải dài trên một phong cảnh miền nhiệt đới. Thành phố
được chia cắt bởi sự uốn quanh của dòng sông Brisbane River và pha trộn trong
một khí hậu hấp dẫn người miền nam mỗi khi mùa đông giá lạnh tràn về. Kết hợp
bởi sự pha trộn hương vị văn hóa khác nhau, sôi nổi trong các quán cà phê, nhà
hát, rạp chiếu bóng, phòng hòa nhạc, phòng triển lãm, viện bảo tàng và các tụ
điểm nhạc sống. Tô điểm cho cảnh đẹp thành phố với những khu vườn bán nhiệt

đới và những quang cảnh ngoạn mục từ những điểm quan sát hay từ những con
thuyền trên sông. Cộng thêm vào đấy là một lịch đầy dẫy những lễ hội và quán ăn,
và bạn sẽ nhận ra thế nào là sự ồn ào không ầm ĩ.
Ðịa giới thủ phủ Brisbane có hình chữ U được bao bọc bởi dòng sông Brisbane
River. Khu phố chính là Queen St Mall, chỉ dành cho khách bộ hành, kéo dài từ
Kho Bạc cũ (bây giờ là sòng bài) và cầu Victoria Bridge đến South bank và South
Bank Parklands; xa hơn nữa về hướng nam là bờ West End. Ðường Ann St chạy từ
hướng đông bắc của trung tâm thành phố đến khu thời trang Fortitude Valley
Thời tiết ở Brisbane
Nhiệt độ ở Brisbane, khu vực phía nam tiểu bang Queensland, hiếm khi thấp hơn
20°C và trong lúc thời tiết ở đây không có độ ẩm khó chịu như những khu vực ở
mạn bắc thì mùa đông (tháng Sáu đến tháng Tám) nhiệt độ cũng rất dễ chịu. Tuy
14
nhiên, đây cũng là khoảng thời gian mà nhiều người ở Sydney và Melbourne đổ về
để tránh cái lạnh nên thành phố sẽ đông đúc hơn.
Tóm lược văn hóa
Brisbane đã gạt bỏ được biệt danh là nơi đi thụt lùi và thô lậu và trở thành một
trong những trung tâm tiến bộ nhất nước Australia. Thành phố có một số khu vực
lý thú, một con đường với những quán cà phê hè phố, một công viên ngoạn mục
dọc theo bờ sông, một cuốn lịch với đầy rẫy những sự kiện văn hóa và một cuộc
sống về đêm sinh động. Bris Vegas, cái tên được người dân địa phương đặt cho
Birsbane, là một thành phố chẳng những nổi tiếng về nắng ấm mà còn là thủ phủ
nghệ thuật của tiểu bang Queensland với hàng chục nhà hát, rạp chiếu bóng,
phòng hòa nhạc, pgòng triển lãm và viện bảo tàng. Một nơi vừa có khí hậu tuyệt
vời vừa có các đặc điểm văn hóa đa dạng? chỉ có ở một nơi mà ta vẫn thường gọi:
thiên đường hạ giới!
Hầu hết những cảnh quan của Brisbane đều tọa lạc ở trung tâm phố hoặc cách đó
không xa. Nằm rải rác chung quanh phố là những tòa nhà kiến trúc bằng đá sa
thạch, nhắc nhớ lại thời kỳ thuộc địa của Brisbane và South Bank chỉ cách trung
tâm phố bằng một chuyến phà ngắn từ bên kia sông. Fortitude Valley cũng như

West End là những khu vực quen thuộc của người dân địa phương lẫn du khách
với những quán cà phê, quá ăn, cửa hàng mua sắm và những đặc tính văn hóa. Tập
sách nhỏ Brisbane’s Living Heritage (Di Sản Sống của Bribane), tập thông tin
miễn phí có thể lấy tại các trung tâm thông tin dành cho du khách, có điểm qua
những cảnh quan nổi bật của Brisbane.
Ăn uống và vui chơi ở
Trung tâm thủ phủ Brisbane có một số nơi ăn uống rất ngon (và đắt tiền). Tuy
nhiên rất nhiều những nhà hàng ăn và quán cà phê xuất sắc lại tọa lạc ở vùng lân
cận Fortitude Valley ('The Valley'), New Farm, West End, Petrie Terrace và
Paddington. Ngoài ra khu The Valley còn được công nhận là trung tâm của cuộc
sống về đêm với nhiều quán bia, rượu và tụ điểm âm nhạc.
• North Queensland
Phía bắc Queensland là eo biển Torres và đảo Boigu ngoài khơi bờ biển New
Guinea tiêu biểu cho toàn bộ phía Bắc của lãnh thổ. Khu tam giác bán đảo
Cape York hướng về phía New Guinea được coi là phần cực Bắc của lục địa
bang. Phía tây bán đảo bị Vịnh Carpentaria khoét nạo trong khi biên giới phía
đông giáp biển Coral, chính là 1 nhánh của Thái Bình Dương. Phía đông giáp
Thái Bình Dương. Phía tây giáp với Northern Territory, tại kinh độ 138°E, và
phía tây nam giáp miền đông bắc của Nam Úc.
Ở phía nam, có ba phần làm nên biên giới của nó: Lưu vực sông từ Point
Danger đến sông Dumaresq; khu vực dòng chảy chứa các sông Dumaresq,
15
MacIntyre, Barwon ; và từ vĩ độ 29°S (bao gồm cả một số đợt xâm lấn nhỏ
trong lịch sử dưới vĩ tuyến 29) qua biên giới Nam Úc.
Thủ phủ của bang là Brisbane, nằm trên 100km dải bờ biển biên giới phía bắc
NewSouth Wales. Là thành phố lớn thứ năm trên thế giới về diện tích, Mount
Isa thuộc bang Queensland có diện tích hơn 40,000km2. Thành phố được chia
thành nhiều khu vực hợp pháp. Các vùng địa lý nhỏ hơn đáng chú ý có
Atherton Tablelands, Granite Belt và Channel Country ở đằng xa phía Tây
Nam.

Queensland có nhiều nơi thắng cảnh đẹp như bờ biển Sunshine và Gold, ngoài
ra còn có nhiều bãi biển rất nổi tiếng; Núi Bunya và Great Dividing Range với
nhiều thác nước và các khu picnic; đèo Carnarvon, Đảo Whitsunday và đảo
Hinchinbrook.
Bang có 5 di sản thế giới: Australian Fossil Mammal Site ở Riversleigh trong
Gulf Country, Khu bảo tồn rừng mưa nhiệt đới Trung Đông, Đảo Fraser, Vỉa
San Hô ngầm Great Barrier Reef và Khu vực nhiệt đới ẩm Queensland.
• Trung tâm Queensland

Trung tâm Queensland là địa bàn phân chia của Queensland và các trung tâm
trên bờ biển phía đông, xung quanh chí tuyến Khu vực trung tâm của nó chính
là Rockhampton và các bờ biển Capricorn và khu vực mở rộng về phía Tây đến
Tây Nguyên tại Emerald , phía bắc tới khu vực Mackay Hội đồng biên giới
phía nam, và phía nam tới Gladstone Khu vực này còn được gọi là
Capricornia. . Mặc dù một số người và cơ quan chính phủ như Văn phòng Khí
tượng Mackay nói như là một phần của Central Queensland, nó thực sự là một
phần của North Queensland .
Pedantically speaking, Central Queensland isn't technically the centre of
Queensland geographicall. Vẻ thông thái nói, Central Queensland kỹ thuật
16
không phải là trung tâm của Queensland địa lý; Longreach là xa trung tâm hơn,
thậm chí dọc theo bờ biển.
Về kinh tế, Central Queensland là một trung tâm quan trọng của ngành công
nghiệp tiểu học, . Mặc dù vậy, Central Queensland bao gồm các lưu vực sông
Bowen là giàu chất lượng than cốc cao, cảng Gladstone sản xuất 40% của
doanh thu xuất khẩu nhà nước, các sông Fitzroy là lớn nhất hệ thống sông thứ
hai tại Australiavà lệnh tài nguyên nước quan trọng như Fairbairn Dampton is .
Gladstone có một nhà máy luyện nhôm đáng kể, Rockhampton là thủ đô thịt bò
không thể tranh cãi của nướcAustralia, và khu vực sản xuất khoảng 50% của
nhà nước là điện.

Năm 2004, một vườn cây ăn quả trên Evergreen trang trại đã được trang web
của các phát hiện đầu tiên của tai ương cây có múi ở Central Queensland.
6,000 acres (24 km
2
). Một phần quan trọng của ngành công nghiệp trồng cây
có múi đã bị tàn phá khi có tổng số 6.000 mẫu Anh (24 km
2)
của cây trồng đã
bị phá hủy để ngăn bệnh sẽ lan rộng trên cả nước. Năm 2005 một số mới phát
sinh ổ dịch đã được báo cáo để xoá các mở rộng bao gồm cây sân sau nhà tư
nhân.của ổ dịch gây ra đã không được giải thích đầy đủ mặc dù một cuộc điều
tra liên bang. Năm 2009 chính quyền từ Chính phủ Queensland tuyên bố
chương trình xóa hoàn toàn.
Cộng đồng
Với mục đích này diện tích của Central Queensland đã được giới hạn trong khu
vực bao quanh bởi các đường cao tốc Dawson giữa Gladstone và Springsure;
các quốc lộ Gregory giữa Springsure và Clermont, và các cao điểm Downs lộ
giữa Clermont và xâm nhập vào miền Bắc Queensland qua Mackay - mở rộng
quyền phía đông bờ biển.
Các thành phố lớn trong khu vực đang Emerald , Gladstone và Rockhampton.
Một số cộng đồng trên bờ biển Capricorn bao gồm Byfield , Yeppoon , Great
Keppel Island , Emu Park và Cawarral .
• Quần đảo Queensland
17
Những hòn đảo của tiểu bang Queensland, và khu vực Great Barrier Reef
của Tropical North Queensland và các Whitsundays đặc biệt, là những viên
ngọc vương miện của Úc, với một sự lựa chọn của khách sạn và các hoạt
động cho tất cả các ngân sách khác nhau, từ nhà nghỉ sang trọng từ xa và
tách biệt và thanh lịch nghỉ dưỡng phức tạp, qua gia đình theo định hướng
đảo.

Queensland của Great Barrier Reef và Whitsunday đảo rất lý tưởng cho
tuần trăng mật, gia đình, thợ lặn, beachcombers - trong bất cứ ai thực tế tìm
kiếm một kỳ lạ, Sunkissed và nguyên sơ kỳ nghỉ điểm đến, bình dị mà là
một thoát hiếm từ một thế giới căng thẳng hơn.
• Gold Coast
Khi hầu hết các bãi biển Gold Coast là tuyệt vời cho nhúng một, điều kiện
có thể khác nhau trên cơ sở hàng ngày làm cho ngay cả những bãi biển nổi
tiếng nhất dễ bị xẻ, máng nước và dòng chảy.
Đối với bơi lội an toàn, Gold Coast Hội đồng thành phố đảm bảo 26 Gold
Coast đang tuần tra những bãi biển quanh năm và 42 Gold Coast bãi biển
trong các ngày nghỉ học Queensland và New South nghỉ học Wales.
Do vị trí của họ và đặc điểm địa lý, bãi biển nào đó được biết là tốt hơn cho
bơi lội. Nói chung, những bãi biển bơi bình tĩnh hơn được tìm thấy ở cuối
phía nam của Gold Coast và qua biên giới vào NSW.
 New South Wales ( NSW )
18


Dân số:
Dân số New South Wales vào cuối tháng Sáu năm 2007 ước tính khoảng
6.89 triệu người. Tốc độ tăng dân số khoảng 1.1% , thấp hơn so với tốc độ
tăng của cả nước ở mức 1.5%.
62.9% dân số của bang NSW (4.336.374) sống ở Sydney . Riêng tại Sydney
đã có 39.4% dân số được sinh ra tại nước ngoài, bao gồm các nước như:
Anh (4.3%), Trung Quốc (3.5%), New Zealand (2.0%), Việt Nam (1.5%),
Ấn Độ và Philippine (khoảng 1.3%), Ý (1.1%). Người dân bản địa Úc chỉ
chiếm 2% tổng dân số Sydney
Các ngôn ngữ phổ biến được nói tại nhà bao gồm tiếng Anh (64%), tiếng
Trung Quốc (5.3%), tiếng Ả rập (3.9%), tiếng Hy Lạp (1.9%), tiếng Việt
(1.8%), tiếng Ý (1.7%) và tiếng Tây Ban Nha (1.1%).

New South Wales có những bãi biển nguyên sơ bất tận, cảnh thiên nhiên
ngoạn mục và là một trong những thành phố nổi tiếng và sôi động nhất trên
thế giới. Leo lên Cầu Cảng Sydney hay đáp chuyến phà qua nhà hát Opera
House tới Manly. Đi một chuyến du lịch trong ngày tới ruộng nho ở Thung
Lũng Hunter hay tới dãy núi lãng mạn Blue Mountains. Tĩnh tâm trên bãi
biển ở Vịnh Byron và ngắm nhìn những chú cá heo chơi đùa giữa làn nước
trong vắt ở Vịnh Jervis. Đạp xe và lặn trên Đảo Lord Howe và thăm nghĩa
trang lâu đời nhất thế giới tại Công Viên Quốc gia Mungo. Cưỡi ngựa, đi bộ
hay đến những sân tuyết ở núi Snowy hoặc đi về phía tây để thưởng thức
nhạc đồng quê Tamworth và thư giãn với suối nước khoáng thiên nhiên của
Moree. Dù du khách có làm bất kỳ điều gì ở New South Wales thì đó sẽ là
một sự đầu tư thời gian mà du khách sẽ không bao giờ phải hối tiếc.
Địa lý:
Bang NSW về phía bắc giáp với Queensland, phía tây giáp với South
Australia, phía nam giáp với Victoria và phía đông là vùng biển Tasman.
Ngoài ra, NSW bao bọc 2 vùng lãnh thổ là Australian Capital Territory và
Jervis Bay Territory. Xét về mặt địa lý, ta có thể chia bang ra thành 4 khu
19
vực. Ba thành phố lớn nhất bang NSW là Sydney, Newcastle và
Wollongong nằm gần trung tâm vùng duyên hải hẹp trải dài từ các khu vực
có nhiệt độ mát mẻ ở vùng bờ biển phía nam xa xôi cho tới các khu vực có
khí hậu cận nhiệt đới gần biên giới Queensland.
Vùng duyên hải Illawarra có trung tâm là thành phố Wollongong, về phía
nam giáp với Shoalhaven, Eurobodalla và bờ biển Sapphire. Vùng duyên
hải trung tâm Central Coast nằm giữa Sydney và Newcastle, trong đó 2 khu
vực North Coast và Northern River về phía bắc giáp với ranh giới bang
Queensland. Ngành du lịch rất quan trọng đối với kinh tế của các thị trấn
ven biển như Coffs Harbour, Lismore, Norwa và Port Macquaire, nhưng
ngoài ra trong vùng còn sản xuất các mặt hàng như hải sản, thịt bò, sữa, trái
cấy, đường mía và gỗ.

Dãy núi Great Dividing trải dài từ Victoria ở phía nam xuyên qua New
South Wales đến tận Queensland, chạy dọc theo vùng đồng bằng duyên hải
nhỏ hẹp, bao gồm ngọn núi tuyết Snowy Mountain, các bình nguyên
Northern , Central và Southern Tableland, cao nguyên Southern Highlands
và sườn núi South West Slopes. Mặc dù không quá dốc nhưng nhiều đỉnh
của dãy núi có thể lên đến độ cao trên 1000 mét, cao nhất là đỉnh
Kosciuszko ở độ cao 2,229m. Tại Snowy Mountains, hàng năm vào mùa
đông vẫn diễn ra các hoạt động giải trí như trượt tuyết đem lại lợi nhuận
cho ngành công nghiệp du lịch của vùng. Ngoài ra, nông nhiệp, đặt biệt là
sản xuất len rất quan trọng đối với nền kinh tế của các khu cao nguyên.
Ở NSW có rất nhiều rừng, điển hình là các giống cây bạch đàn Red Gum và
cây tần bì Crow Ash. Các loại rừng cây bậc thấp cũng rất đa dạng với nhiều
loại cây bụi và các loại nấm, phồ biến là loại nấm phù thủy Witch’s Butter.
Khu vực sườn núi phía tây chiếm phần lớn diện tích của bang nhưng lại có
dân cư thưa thớt hơn nhiều so với các khu vực ven biển. Tại đây, nông
nghiệp là ngành kinh tế trọng tâm. Thị trấn mỏ Borken Hill là trung tâm lớn
nhất của vùng.
Khí hậu:
Phần lớn bang New South Wales có khí hậu khô hạn hoặc bán khô hạn. Tuy
nhiên, ở khu vực phía đông của bang lại có khí hậu ôn đới ẩm. Còn khu vực
núi tuyết Snowy Mountain ở phía đông nam thì nằm trong vùng có khí hậu
cao nguyên với nhiện độ mát lạnh quanh năm và có tuyết rơi vào mùa đông.
Nhiệt độ cao nhất được ghi nhận tại đây là 49.7
0
C ở Menindee nằm ở phía
đông của bang vào ngày 10/1/1939, còn nhiệt độ thấp nhất là -23
0
C
Charlotte Pass vào ngày 29/6/1994 ở khu vực Snowy Mountains. Đây cũng
được coi là nhiệt độ thấp nhất trong lịch sử của nước Úc.

Kinh tế
Từ những năm 1970, New South Wales đã có một bước chuyển đổi rất
nhanh trong kinh tế và xã hội. Các ngành công nghiệp cũ như thép và đóng
tàu hầu như không còn tồn tại nữa, ngành nông nghiệp mặc dù vẫn còn
20
đóng vai trò khá quan trọng nhưng đóng góp của ngành trong tổng thu nhập
của bang thì càng ngày càng giảm sút.

Các ngành công nghiệp mới như công nghệ thông tin và các dịch vụ tài
chính phần lớn tập trung ở Sydney, không ngừng tăng trưởng với rất nhiều
công ty có trụ sở tại Sydney. Ngoài ra khu vực Macquaire Park – Sydney -
cũng thu hút rất nhiều công ty công nghệ thông tin đặt trụ sở tại đây.

Than đá và các sản phẩm có liên quan có lượng xuất khẩu lớn nhất bang.
Tổng giá trị của nó khoảng hơn 5 tỷ đôla Úc chiếm 19% tổng sản phẩm
xuất khẩu từ New South Wales.

Du lịch đang dần trở nên quan trọng ở NSW, với Sydney là trung tâm chính
tuy nhiên du lịch ở North Coast cũng đang rất phát triển quanh bến cảng
Coffs Harbour và Byron Bay. Du lịch đóng góp $23 tỉ vào nền kinh tế NSW
và tuyển dụng hơn 8% lực lượng lao động. Vào năm 2007, thứ trưởng bang
NSW, Morris Iemma đã ra quyết định tiếp thị Sydney và NSW trở thành
điểm đến toàn cầu.
New South Wales có tổng giá trị sản phẩm bang năm 2006 là 310 tỷ đô la
Mỹ, bình quân 45,584 $ một người.

Nông nghiệp phát triển mạnh khắp bang NSW, ngoại trừ một phần vùng
phía tây. Gia súc, cừu, lợn đã là những loại vật nuôi chủ chốt kể từ những
ngày đầu người Châu Âu đến đây định cư .Về mặt kinh tế, nông nghiệp ở
NSW đóng vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế nước Úc so với các

bang khác, với một phần ba số lượng cừu, một phần năm lượng gia súc và
một phần ba số lượng lợn.

NSW sản xuất ra phần lớn các loại trái cây, cỏ khô, cỏ linh lăng ,đậu, ngô,
quả hạch len, lúa mì, yến mạch, dầu thực vật (khoảng 51%), thịt gia cầm,
gạo (khoảng 99%), rau, cá và sản phẩm lâm nghiệp cho Úc. Trong đó chuối
và đường được trồng chủ yếu ở Clarence, Richmond và khu vực sông
Tweed.

Các loại len tốt nhất thế giới được sản xuất chủ yếu ở vùng bình nguyên
Northern Tableland, cũng như thịt bò và cừu. Ngành công nghiệp bong có
trung tâm ở thung lũng Namoi, phía tây bắc NSW. Ở sườn trung tâm có rất
nhiều vườn cây ăn quả chủ yếu là táo, anh đào và lê.
Hiện có khoảng 40,200 héc ta vườn nho ở khu vực phía đông với các loại
rượu vang cao cấp sản xuất ở thung lũng Hunter, trong đó Riverina là nhà
21
sản xuất rượu lớn nhất tại NSW. Ngoài ra khu vực chăn nuôi ngựa
Thoroughbred lớn nhất nước được đặt ở Scone cũng tại thung lũng Hunter.

Khoảng một nửa lượng gỗ ở Úc được sản xuất tại NSW. Nhiều khu vực
rộng lớn của bang đang được tái trồng rừng bạch đàn.
• Thủ đô – Sydney

Thành phố Sydney là thành phố lớn nhất, nổi tiếng nhất và lâu đời nhất của
nước Úc. Sydney cũng là thủ phủ của tiểu bang New South Wales. Dân số
của Sydney là 4.198.543 người (2003).
Nằm ở bờ biển phía đông của Úc, thành phố được thiết lập vào năm 1788
tại Sydney Cove bởi Arthur Phillip người dẫn đầu Đoàn tàu Thứ nhất (First
Fleet) đến từ Anh.
Địa lí

Sydney tọa lạc trên một vùng đồng bằng trầm tích ven biển giữa Thái Bình
Dương về phía đông và Blue Mountains về phía tây. Thành phố có vịnh
biển tự nhiên lớn nhất thế giới, cảng biển Jackson, và hơn 70 vịnh và bãi
biển, bao gồm cả bãi biển Bondi nổi tiếng. Khu vực nội thành của Sydney
có diện tích 1687 km² và giống như London mở rộng. Khu vực đô thị (Theo
Sở thống kê Sydney) là 12.145 km² (4.689 mi²); một phần lớn của khu vực
này là công viên quốc gia và các vùng đất chưa bị đô thị hóa.
Sydney chiếm hai khu vực địa lý: đồng bằng Cumberland, một vùng đồi
thoai thoải tương đối bằng phẳng nằm về phía nam và tây của vịnh biển, và
đồng bằng Hornsby, một đồng bằng về phía bắc của vịnh, cao trên 389 mét,
được chia cắt bởi các thung lũng với các cánh rừng. Phần xưa nhất của
thành phố nằm ở khu vực bằng phẳng; đồng bằng Hornsby, được gọi là
22
North Shore, phát triển chậm hơn bởi vì địa hình nhiều đồi của nó, và là
một vùng khá im lặng cho đến khi cầu cảng Sydney (Sydney Harbour
Bridge) được xây vào năm 1932, nối nó với phần còn lại của thành phố.
Khí hậu
Sydney có khí hậu ven đại dương với những mùa hè ấm áp và với mùa
đông mát mẻ, với lượng mưa trải đều trong năm. Thời tiết ôn hòa bởi ở gần
đại dương, và các nhiệt độ khắc nghiệt hơn được ghi lại ở các vùng ngoại ô
phía tây sâu trong lục địa. Tháng ấm nhất là tháng giêng, với nhiệt độ
không khí trung bình trên bờ biển là 18,6–25,8°C và trung bình có 14.6
ngày trong năm nhiệt độ bên trên 30 °C. Nhiệt độ cao nhất được ghi lại là
45,3 °C vào ngày 14 tháng 1 năm 1939 vào cuối của một làn sóng nhiệt 4
ngày trên toàn quốc. Mùa đông hơi mát, với nhiệt độ ít khi nào xuống thấp
hơn 5 °C trong các khu vực ven biển. Tháng lạnh nhất là tháng 7, với trung
bình xê xích 8,0–16,2 °C. Nhiệt độ thấp nhất được ghi lại là 2,1 °C.
Lượng mưa được chia khá đều giữa mùa hè và mùa đông, nhưng cao hơn
một ít trong suốt nửa đầu của năm, khi gió phía tây thổi nhiều. Lượng mưa
trung bình hàng năm, điều hòa ít biến động, là 1217.0 mm, rơi trên trung

bình là 138,0 ngày trong 1 năm. Tuyết rơi lần cuối cùng ở khu vực thành
phố Sydney là vào thập niên 1830.
Mặc dù thành phố không chịu bão nhiệt đới hay các trận động đất lớn, hiệu
ứng El Niño đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định khuôn mẫu
thời tiết của Sydney: hạn hán và cháy rừng một mùa, và mưa bão và lụt lội
mùa còn lại, liên hệ với các pha trái ngược nhau của sự dao động. Rất nhiều
khu vực của thành phố giáp với các khu rừng bụi rậm đã bị ảnh hưởng bởi
cháy rừng, đáng kể nhất là trong năm 1994 và 2002 – những lần này thường
xảy ra vào mùa xuân hay mùa hè. Thành phố cũng thường bị mưa đá và bão
lớn. Một cơn bão như vậy xảy ra ở các vùng ngoại vi phía đông Sydney vào
buổi tối 14 tháng 4 năm 1999, tạo ra các hạt mưa đá lớn với các hạt đường
kính ít nhất 9 cm và kết quả là bảo hiểm tốn khoảng $1,5 tỉ trong dưới 1
giờ.
Các nghiên cứu gần đây bởi các khoa học gia nghiên cứu về khí hậu tại Đại
học Macquarie cho rằng việc khai phá đất ở phía tây Sydney đã góp phần
vào những thay đổi lớn trong khí hậu của thành phố
Đến Sydney, du khách sẽ có cơ hội khám phá nét hoang sơ của những khối
đá uluru hay ngất ngây trước các công trình kiến trúc vĩ đại, các tòa nhà
chọc trời. Ngoài ra, nếu tinh ý, du khách sẽ phát hiện ra sự kết hợp thật
logic giữa tất cả các tòa nhà hiện đại trên thành phố. Bạn có thể làm quen
với nhiều dân tộc trên đất nước này và học hỏi được nhiều điều từ họ.
• Blue Mountains
23
Vườn quốc gia Blue Mountains thuộc bang New South Wales, cách Sydney
48 km về phía Tây của Sydney.

Ngọn núi cao nhất cao khoảng 2.228 m, được gọi là “Blue Mountains” vì có
sương mờ màu xanh bao quanh núi do dầu của loại cây khuynh diệp mọc rất
nhiều. Vườn quốc gia là một phần của vùng đại Blue Mountains, vốn là vùng
đất của thổ dân Aborigines, được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào

năm 2000.
Blue Mountain hấp dẫn du khách những dãy núi và vách đá sừng sững, những
hẻm núi len lỏi kỳ bí và những thung lũng sa thạch đậm một màu xanh mát của
những cánh rừng khuynh diệp. Trèo lên cao khoảng 1100 m, khu Katooma hiện
ra với không khí thật mát mẻ và trong lành, từ đây bạn cũng có thể thưởng
ngoạn vẻ đẹp mê hồn của thung lũng Jamision và khối đá mang tên “Ba chị
em” kỳ lạ.
• Snowny Mountains
24

Snowny Moutains, vùng đất nằm sâu trong đất liền ở bờ biển phía nam là
nơi lý tưởng nhất để trượt tuyết. Gần khu núi tuyết này là hai lâm viên quốc
gia Mt Kosciuszko và Namadgi rộng lớn với những dãy núi hùng vĩ, vùng
đất nhiều cây bụi, các hồ nước và các động vật bản địa. Nơi đây có Thredbo
là một địa danh trượt tuyết vô cùng quen thuộc của du khách, ngoài ra còn
có các khu Perisher, Jindabyne và Mt Selwyn.

Vào những ngày ít tuyết, các khu vực trên đều dùng máy phun tuyết đủ bề
dày để du khách vui chơi, khỏi phải thất vọng vì đã lỡ đến mà không được
hưởng được cái thú đùa giỡn trên tuyết.

Đây là khu trượt tuyết lâu đời và được kỹ nghệ hoá với đầy đủ các dịch vụ
như: khách sạn, nhà hàng, các cửa hàng cho thuê mướn quần áo và dụng cụ
trượt tuyết; khu thương mại mua sắm với các shop, quán nhậu, cửa hàng
giải khát, rạp hát

Thredbo có các sân bãi cho người chập chững trượt tuyết, khu thiếu nhi với
sân phủ tuyết bằng phẳng có cả sân khấu văn nghệ để giới trẻ nhún nhảy.
Từ Sydney, qua vùng thủ đô, thêm khoảng 200 km là đến đồi núi Thredbo.


Thredbo được đông đảo khách du ngoạn nhìn nhận là khu trượt tuyết số
một ở Úc. Thredbo có một dốc đứng cao đến 621 mét, lý tưởng để những
tay trược tuyết lâu năm, dồi dào kinh nghiệm biểu diễn, thi tài hào hứng!
Chính điều kiện thiên nhiên ưu đãi nầy đã biến triền núi nơi nầy thành một
bãi trượt dài hơn bất cứ núi tuyết nào khác.

Thế nên chẳng gì gây ngạc nhiên khi khu giải trí mùa đông nầy nầy được
trang bị một đuờng xe dây cáp cao nhất trên toàn quốc, nhưng đồng thời lại
có một nền đất liền thấp nhất chỉ chưa đầy 1365 mét, nằm dưới lằn tuyết
phủ tự nhiên.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×