Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ung thư gan nguyên phát - điều trị và phòng ngừa (Kỳ 1) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.16 KB, 5 trang )

Ung thư gan nguyên phát - điều
trị và phòng ngừa
(Kỳ 1)

1. Triệu chứng
Ở thời kỳ đầu đa số bệnh nhân hoàn toàn không có triệu chứng gì, thường
bệnh được phát hiện qua siêu âm định kỳ hoặc xét nghiệm AFP tăng cao.
Khi khối u lớn dần, có thể thấy một hay nhiều triệu chứng dưới đây: mệt
mỏi, sụt cân, gầy sút nhanh; đau âm ỉ, cảm giác tức nặng khó chịu vùng hạ sườn
phải; chán ăn, ăn chậm tiêu; sốt; vàng da; cổ chướng; có thể bệnh nhân tự sờ thấy
khối u ở vùng hạ sườn phải
Khi thăm khám, bác sỹ chuyên khoa sẽ xác định bản chất khối u cùng với
việc đánh giá toàn trạng cơ thể bệnh nhân để có thể lựa chọn phương pháp điều trị
thích hợp.
2. Phương pháp điều trị
Có nhiều phương pháp điều trị ung thư gan đã được ứng dụng trong lâm
sàng cũng như còn trong giai đoạn thử nghiệm:
Phẫu thuật cắt gan: Là phương pháp điều trị kinh điển, thường chỉ định
phẫu thuật khi khối u còn khu trú dưới ba phân thùy gan, chưa có di căn phổi và
chức năng gan còn tốt. Hiện nay, đã có nhiều phương pháp mới ít xâm lấn hơn do
vậy chỉ định phẫu thuật cắt gan đã giảm nhiều.

Nút mạch hóa dầu động mạch gan (TOCE – Transarterial Oily
Chemoembolization): Nút mạch hóa dầu động mạch gan là dựa trên cơ sở nguồn
cung cấp máu cho mô ung thư gan phần lớn là từ động mạch gan, hóa chất chống
ung thư được đưa tới các tế bào ung thư thông qua ống thông đồng thời với việc
gây nút tắc lại nguồn máu nuôi các tế bào ung thư, kết quả là các tế bào ung thư sẽ
chết, khối u bị hoại tử. Với phương pháp này 100% bệnh nhân có kích thước khối
u nhỏ hơn 2 cm còn sống sau 3 năm.

Phương pháp này có ưu điểm là tránh được vết mổ, điều trị trực tiếp lên


khối u, các hóa chất hủy diệt khối ung thư ít gây tổn thương tới nhu mô lành lân
cận. Đây còn được coi như là biện pháp hỗ trợ điều trị phẫu thuật cắt gan hoặc
ghép gan. Tuy vậy phương pháp này không thể áp dụng đại trà cho các thể ung thư
gan.
Tiêm cồn tuyệt đối vào khối u qua da (PEIT - Percutaneous Enthanol
Injection Therapy): Cơ sở của phương pháp này là dựa vào đặc tính của cồn tuyệt
đối có tác dụng làm mất nước, đông vón protein, gây độc tế bào đồng thời làm bít
tắc các mạch máu nuôi khối u. Dưới hướng dẫn của siêu âm, thầy thuốc dùng kim
tiêm bơm cồn tuyệt đối vào khối u và vì vậy khối u sẽ bị hoại tử.

Liệu pháp này đơn giản, an toàn, không tốn kém. Thường chỉ định tiêm cồn
qua da với khối u gan dưới 3 cm có thể lên tới 6 cm và không quá 3 khối u. Nhiều
kết quả nghiên cứu thấy rằng tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 40% với các khối u nhỏ
dưới 3 cm. Biến chứng thường gặp sau tiêm là rò rỉ cồn ra bao gan và vào khoang
bụng gây đau và sốt cần được theo dõi chặt chẽ, tuy nhiên tỷ lệ tử vong do thủ
thuật là rất thấp.
Đốt nhiệt khối u bằng sóng cao tần (RFA - Radiofrequency Ablation): Dưới
hướng dẫn của siêu âm hay qua nội soi ổ bụng, thầy thuốc đưa kim điện cực vào
khối u, tác dụng của sóng cao tần sẽ làm hoại tử khối u. Phương pháp này có hiệu
quả tốt với khối u dưới 3 cm. Tác dụng phụ hay gặp là rối loạn nhịp tim, sốt, chảy
máu… Tuy vậy biến chứng nặng nề rất hiếm gặp.

×