Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

quá trình chuyển hoá giá trị hàng hoá trong điều kiện tự do cạnh tranh.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.42 KB, 7 trang )

Đề bài
Câu 1: Trình bày quá trình chuyển hoá giá trị hàng hoá trong điều kiện tự do
cạnh tranh.
Câu 2: Thế nào là lợi nhuận siêu ngạch, so sánh lợi nhuận siêu ngạch trong
nông nghiệp và công nghiệp.
1
Bài làm
Câu 1.
Trong điều kiện tự do cạnh tranh, giá trị hàng hoá đã có sự chuyển
hoá. Vậy quá trình chuyển hoá này bắt nguồn từ đâu?
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữ những người
sản xuất, kinh doanh hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện có lợi
về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá dể thu được lợi nhuận cao nhất. Cạnh
tranh xuất hiện và gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Tồn tại hai loại cạnh tranh là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh
trong nội bộ ngành.
Về sự cạnh tranh giữa các ngành. Chúng ta đều biết, ở các ngành
sản xuất có các điều kiện tự nhiên, kinh tế, kĩ thuật và tổ chức quản lí
khác nhau nên tỉ suất lợi nhuận khác nhau. Do đó cạnh tranh giữa các
ngành là sự cạnh tranh giữa các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục
đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn, tức là nơi có tỉ suất lợi nhuận cao hơn
với biện pháp là tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành
khác.Vì vậy, các nhà tư bản ở các ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp sẽ
chuyển tư bản sang ngành có tỉ suất lợi nhuận cao hơn. Ta xét một ví
dụ cụ thể như sau: ngành da là ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản
(chính là giá trị hàng hoá) thấp nhất nhưng lại có tỉ suất lợi nhuận cao
nhất. Ngược lại, ngành cơ khí có cấu tạo hữu cơ cao nhất nhưng lại có
tỉ suất lợi nhuận thấp nhất. Chính vì vậy những nhà tư bản trong ngành
2
cơ khí sẽ tự phát chuyển tư bản của mình sang ngành da. Điều này
khiến số lượng hàng hoá của ngành da tăng lên (cung vượt quá cầu ) do


đó giá cả hàng hóa ở ngành da sẽ giảm xuống thấp hơn giá trị của nó, tỉ
suất lợi nhuận giảm. Còn ngành cơ khí thì ngược lại, giá cả sẽ tăng cao
hơn giá trị, tỉ suất lợi nhuận tăng lên. Khi đó, tư bản ở ngành da lại
chuyển sang ngành cơ khí hoặc một ngành khác có tỉ suất lợi nhuận
cao hơn. Sự tự do di chuyển tư bản này làm thay đổi cả tỉ suất lợi
nhuận cá biệt vốn có của các ngành, và nó chỉ tạm thời dừng lại khi tỉ
suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau. Từ đó hình
thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân.
Khi hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân thì lượng lợi nhuận của
tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau sẽ đều tính theo lợi nhuận bình
quân và do đó, nếu lượng tư bản ứng ra bằng nhau, dù đầu tư vào
ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận
bình quân. Vì vậy lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của
những tư bản bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau, bất kể
cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào.
Ta cũng đã biết, giá trị thặng dư là một bộ phận giá trị mới dôi ra
ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư
bản chiếm không. Hay nói thẳng ra thì đây chính là lợi nhuận của nhà
tư bản. Vì vậy, xét về bản chất thì giá trị thặng dư hay lợi nhuận bình
quân cũng đều là lợi nhuận của nhà tư bản, đều có chung nguồn gốc là
kết quả lao động không công của công nhân. Chỉ có điều, giá trị thặng
3
dư là lợi nhuận cá biệt của mỗi nhà tư bản còn lợi nhuận bình quân là
lợi nhuận của toàn xã hội tư bản chia đều ra cho mỗi nhà tư bản. Giá trị
hàng hoá biểu hiện qua tư bản bất biến, tư bản khả biến và giá trị thặng
dư. Giá cả sản xuất biểu hiện qua tư bản bất biến, tư bản khả biến và
lợi nhuận bình quân.
Như vậy có thể kết luận, trong giai đoạn cạnh tranh tự do của chủ
nghĩa tư bản, hình thành nên tỉ suât lợi nhuận bình quân, là khi giá trị
thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hoá

chuyển hoá thành giá cả sản xuất và quy luật giá trị cũng biểu hiện
thành quy luật giá cả sản xuất. Tiền đề của sự chuyển hoá từ giá trị
hàng hoá sang giá cả sản xuất chính là sự hình thành tỉ suất lợi nhuận
bình quân đã nói ở trên. Và điều kiện để có sự chuyển hoá này là nền
đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển, sự liên hệ rộng rãi
giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển và tư bản tự do di
chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Trong sản xuất hàng hoá giản đơn thì giá cả hàng hoá xoay quanh
giá trị hàng hoá. Giờ đây, giá cả hàng hoá sẽ xoay quanh giá cả sản
xuất. Xét về mặt lượng, ở mỗi ngành, giá cả sản xuất và giá trị hàng
hoá có thể không bằng nhau, nhưng đứng trên phạm vi toàn xã hội thì
tổng giá cả sản xuất luôn băng tổng giá trị hàng hoá. Trong mối quan
hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá cả sản xuất, giá
cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá trị thị trường xoay
quanh giá cả sản xuất.
4
Câu 2.
Để hiểu thế nào là lợi nhuận siêu ngạch trước tiên ta phải tìm hiểu
lợi nhuận bình quân.
Lợi nhuận bình quân hình thành dựa trên sự hình thành của tỉ suất
lợi nhuận bình quân ( đã nói rất kĩ ở câu 1). Nó là số lợi nhuận bằng
nhau của những tư bản bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau
bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào.
Và lợi nhuận siêu ngạch là phần lợi nhuận đặc biệt vượt quá lợi
nhuận bình quân mà các nhà tư bản thu được trong một thời gian nhất
định trong qua trình cạnh tranh nhờ thường xuyên cải tiến kĩ thuật,
nâng cao năng suất lao động, ... hoặc do những lợi thế về điều kiện sản
xuất tác động làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá của mình sản xuất ra
thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó.
So sánh lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp và lợi nhuận siêu

ngạch trong công nghiệp:
 Giống nhau: cả hai đều là phần lợi nhuận vượt quá lợi nhuận
bình quân mà các nhà tư bản thu được trong một thời gian nhất định
trong quá trình cạnh tranh nhờ thường xuyên cải tiến kĩ thuật, nâng cao
năng suất lao động,... hoặc do những lợi thế về điều kiện sản xuất tác
động làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá mình sản xuất ra thấp hơn giá
trị xã hội của hàng hoá đó trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp.
5

×