Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Phiên dịch thơ Lý Bạch ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.99 KB, 105 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Xưa nay các nền văn hóa trong quá trình phát triển của mình phải luôn
đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ, đó là duy trì những nét văn hóa truyền
thống và tiếp thu các thành tố bên ngoài để đổi mới. Quá trình này được diễn
ra thường xuyên liên tục. Chúng ta biết rằng, không thể có một nền văn hóa
nào dù lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến đâu lại có thể liên tục phát triển
triển một địa bàn khép kín, tách rời sự tiếp xúc với các nền văn hóa khác.
Chỉ có giao lưu và qua giao lưu giữa các nền văn hóa mới có thể làm tăng
vốn liếng của mình, tạo nên những tiền đề để tiếp ứng với các giá trị mới của
nhân loại.
Văn học là một thành tố cơ bản của văn hóa nên bản thân văn học cũng
mang những đặc điểm cơ bản của văn hóa, trong đó có đặc điểm về sự giao
lưu, ảnh hưởng như đã nói. Điều này có nghĩa rằng văn học thế giới không
phải là phép cộng đơn thuần của các nền văn học riêng lẻ. Nó cũng không
phải là bảng thống kê đơn thuần những kiệt tác của các nhà văn mà theo
Trương Đăng Dung là “sự giao lưu của những giá trị tinh túy và đa dạng của
các nền văn học dân tộc vào một tiến trình chung nhất - tiến trình văn học
thế giới”[; 86]. Như vậy quá trình giao lưu hội nhập văn học nước mình với
văn học các dân tộc khác là một quá trình tất yếu, nhất là trong bối cảnh hiện
nay xu thế toàn cầu hóa đang được thúc đẩy mạnh mẽ. Có rất nhiều hình
thức để một nền văn học dân tộc này thâm nhập vào một nền dân tộc khác,
trong đó dịch thuật được coi là hình thức chiếm ưu thế hơn cả. Dịch thuật
không phải là một công việc mới mẻ đối với thế giới cũng như Việt Nam ta.
Nó đóng vai trò quan trọng trong sự giao lưu văn hóa và kinh tế giữa các dân
tộc. Nói chung, đó là quá trình “thể hiện hiện thực được hình dung trong văn
bản gốc bằng văn bản dịch”[; 169], là “chuyển đạt ngôn ngữ từ mã số này
sang mã số khác trong phạm vi quốc gia hay quốc tế, nhưng không đơn
thuần chỉ là chuyển đạt mã số, mà chính là chuyển đạt tâm tư qua tín hiệu
của mã số, nhất lại là dịch thuật thơ văn”[; 169]. Với việc thay đổi lớp vỏ
ngôn ngữ, tạo ra một hình hài ngôn ngữ hoàn toàn mới của tác phẩm được


dịch so với văn bản gốc và tồn tại dưới lớp hình hài này. Trong hình hài mới
văn bản đã đánh mất một số yếu tố so với văn bản gốc và nó cũng thu nhận
thêm một số yếu tố khác, nó thoát khỏi tình trạng duy nhất ban đầu và hòa
nhập vào dòng chảy chung đa ngôn ngữ của văn bản gốc. Dịch thuật không
chỉ có ở ngành văn học mà còn ở sử học, triết học, khoa học kĩ thuật. v. v.
Dịch thuật văn học là công tác chuyển đổi ngôn ngữ của tác phẩm văn học,
từ ngôn ngữ nước ngoài thành ngôn ngữ bản địa, từ đó làm chuyển đổi chủ
thể tiếp thu tác phẩm từ độc giả nước ngoài thành độc giả bản địa, tức là
cách thức làm cho người khác hiểu được một văn bản này thông qua một văn
bản khác. Đối tượng nghiên cứu của dịch thuật văn học đó là nghiên cứu
dịch giả, nghiên cứu quá trình dịch và nghiên cứu tác phẩm dịch. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đề dịch thuật nói chung và dịch văn học nói riêng thực chất
là một khía cạnh của mỹ học tiếp nhận hiện đại ngày nay. Nguyễn Văn Bổng
cho rằng “chính dịch thuật đã giúp cho một tác phẩm kéo dài tuổi thọ ở một
môi trường khác và dịch thuật cũng trở thành bản gốc có tác động mới mẻ
đối với môi trường ấy. Dịch thuật đã đưa lại một đời sống mới cho bản
gốc”[;]. Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser là hai đại biểu tiêu biểu của mỹ
học tiếp nhận hiện đại của thế kỉ XX đã chứng minh được rằng “sự tồn tại
của tác phẩm văn học không thể hình dung được nếu thiếu sự tham dự của
người đọc”[; 106] và từ đó người đọc chính là nhân tố tất yếu sống còn của
tác phẩm. Dịch giả - người đọc đặc biệt mọi thời đại chính là chiếc cầu nối
diệu kì giữa nền văn học của dân tộc khác với nền văn học của dân tộc mình.
Họ phải là người có vốn hiểu biết chung về nền văn hóa văn học có tác
phẩm được dịch. Họ phải giỏi ngoại ngữ và hiểu biết kĩ về nghề văn đặc biệt
về phong cách sáng tác. Ngoài ra họ còn phải nắm vững tiếng mẹ đẻ, phải có
cảm quan tinh nhạy và năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ. Dịch - một quá
trình đọc đặc biệt, dịch giả đã nhân thêm sức sống cho văn bản gốc. Họ đã
tiếp nhận đưa những áng văn chương vươn xa hơn, tới những chân trời thẩm
mĩ khác nhau. Như vậy, không gian thẩm mỹ của tác phẩm được nới rộng tới
vô cùng, từ thời đại này sang thời đại khác, từ dân tộc này sang dân tộc

khác, từ người này qua người khác và tác phẩm - trung tâm tạo nghĩa sẽ mở
ra vô vàn cách hiểu, cách nhìn mới lạ.
Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ
của một thời đại văn chương có một không hai không chỉ với Trung Hoa mà
với toàn thế giới. Nó không những được coi là “khuôn vàng thước ngọc” về
hệ đề tài, chủ đề và nội dung tư tưởng mà còn được coi là mẫu mực trong
việc sử dụng ngôn từ vừa chính xác, vừa trau chuốt, vừa giản dị lại vừa uyên
thâm. Với tính chất hàm súc, ước lệ, cổ kính, trang nghiêm, chặt chẽ về niêm
luật, thể loại, thơ Đường đã vượt qua mọi thử thách về không gian - thời
gian đến nay hàng ngàn năm đã trôi qua mà việc tiếp nhận vẫn diễn ra không
ngừng. Điều này càng khẳng định hơn nữa sức sống trường tồn vĩnh cửu của
các thi phẩm cổ điển Đường thi có ảnh hưởng, tác động sâu sắc tới nền văn
học thế giới nói chung và khu vực nói riêng. Việt Nam và Trung Quốc có
quan hệ qua lại lâu đời, mật thiết về nhiều mặt như lịch sử, văn hóa…Lẽ dĩ
nhiên, thơ Đường - một kiệt tác của nền văn hóa nhân loại cũng có tác động
sâu sắc đến văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Từ phương diện thể loại cho
đến đề tài, chủ đề, từ phần thơ chữ Hán đến phần thơ Nôm của dân tộc ta
đều ghi đâm dấu ấn của Đường thi. Các nhà nho Việt Nam đã coi các thi
nhân Trung Quốc như là cổ nhân của mình, lấy Đường thi làm khuôn mẫu.
Không chỉ vay mượn, người Việt Nam còn tiếp nhận Đường thi dưới nhiều
hình thức như dịch thuật, diễn dịch, “thổng”…thơ Đường. Vì thế nghiên cứu
tiếp nhận thơ Đường ở Việt Nam hiện nay sẽ cho chúng ta thấy bức tranh
toàn diện của nó đã ảnh hưởng, ăn sâu vào văn hóa văn học Việt Nam như
thế nào?
Tiếp nhận thơ Lý Bạch là một khía cạnh của việc tiếp nhận thơ Đường
nói chung ở Việt Nam. Lý Bạch là một trong hai thi nhân lớn nhất đời
Đường (Lý Bạch, Đỗ Phủ), là một trong ba đỉnh cao của thơ Đường (Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị). Để có được địa vị ấy không chỉ ở chỗ Lý Bạch
đã sáng tác ra một số lượng tác phẩm đồ sộ gồm hàng nghìn bài thơ, trong
đó có những thi phẩm nổi tiếng trở thành kiệt tác, mà còn ở chỗ ông đã tạo

cho mình một phong cách riêng không có một nhà thơ đương thời nào có.
Đó là chất trữ tình lãng mạn với những nét ngang tàng, khí phách, phóng
khoáng, ngôn từ điêu luyện, tự nhiên dễ chinh phục lòng người. Nếu Đỗ Phủ
trung thành với Khổng giáo được người đời tôn là “Thánh Thi” thì Lý Bạch
lại nghiêng về Đạo giáo thích ẩn dật, tiêu dao mà được phong là “Tiên Thi”.
Ảnh hưởng của thơ Lý Bạch đến các đời sau khá mạnh mẽ và Lý Bạch quả
là một “Tiên Thi” mà tài hoa còn lan tỏa đến ngàn đời sau. Theo sự tìm hiểu
của chúng tôi, cho đến nay vấn đề phiên dịch thơ Lý Bạch đã được giới thiệu
rất nhiều trong các báo, tạp chí, các tuyển tập thơ Đường ở Việt Nam. Tuy
nhiên chưa có công trình nào đặt vấn đề trực tiếp đi sâu tìm hiểu một cách có
hệ thống việc phiên dịch thơ Lý Bạch ở Việt Nam từ góc độ mỹ học tiếp
nhận. Đây chính là lý do chính để chúng tôi chọn đề tài cho khóa luận của
mình: Phiên dịch thơ Lý Bạch ở Việt Nam.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Có thể nói nghiên cứu quá trình tiếp nhận thơ Lý Bạch nói riêng và thơ
Đường nói chung là một vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam hiện nay. Bởi trong
quá trình tìm tài liệu phục vụ cho khóa luận của mình, chúng tôi thấy không
có công trình nào nghiên cứu về vấn đề phiên dịch thơ Lý Bạch ở Việt Nam.
Chúng tôi chỉ thấy có các công trình luận án, khóa luận nghiên cứu về nội
dung, tư tưởng nghệ thuật của Lý Bạch. Tức là những công trình nghiên cứu
trực tiếp về thi hào Lý Bạch. Cụ thể là luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn của Phạm
Hải Anh với đề tài: Thơ tứ tuyệt Lý Bạch phong cách và thể loại (Đại học sư
phạm Hà Nội, 1996). Luận án đã vận dụng thi pháp học hiện đại để nghiên
cứu phong cách thơ tứ tuyệt Lý Bạch. Tiếp đến là luận án Tiến sĩ Ngữ văn
của Trần Trung Hỷ với đề tài: Thi pháp thơ Lý Bạch - một số phương diện
chủ yếu (Đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn Hà Nội, 2002). Luận án
này đề cập đến ba vấn đề chính là quan niệm thơ ca và con người Lý Bạch
trong thơ; thời gian - không gian nghệ thuật và thể loại ngôn ngữ thơ Lý
Bạch. Ngoài ra, còn phải kể đến rất nhiều đề tài khóa luận làm về Lý Bạch
của sinh viên Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn Hà Nội như:

Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Lý Bạch của Nguyễn Thế Hiệp (1965);
Hình tượng người phụ nữ trong thơ ca Lý Bạch của Nguyễn Đức Anh (1966);
Bút pháp lãng mạn trong thơ ca Lý Bạch của Nguyễn Hồng Vân (1970). v. v.
Tuy nhiên khi thực hiện đề tài này, chúng tôi nhận thấy cũng có nhiều
công trình cùng hướng khai thác. Nghiên cứu về quá trình tiếp nhận thơ
Đường ở Việt Nam có thể kể tới luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của
Nguyễn Tuyết Hạnh với đề tài: Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam (Thành
Phố Hồ Chí Minh, 1996). Luận án của Nguyễn Tuyết Hạnh đã cung cấp cho
chúng ta một cái nhìn bao quát về vấn đề dịch thuật nói chung cũng như việc
dịch thuật thơ Đường nói riêng ở Việt Nam. Luận án đã nghiên cứu được sự
vận động và phát triển của việc dịch thơ Đường qua các giai đoạn lịch sử, sự
vận động của thể loại chuyển dịch theo trục thời gian lịch đại, việc dịch thơ
Đường trên góc độ thi pháp.
Ngoài công trình nghiên cứu này, qua sự khảo sát chúng tôi thấy có khá
nhiều khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội
& Nhân Văn Hà Nội đã đề cập tới vấn đề này.
Năm 1965, Phạm Đình Lợi đã viết khóa luận với tên đề tài: Điểm qua
việc dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam. Khóa luận đã bước đầu điểm qua
được những nét lớn, qua những dịch giả tên tuổi cung cấp cho độc giả những
tư liệu quý về vấn đề dịch thơ Đường tại Việt Nam.
Năm 1972, Nguyễn Trọng Nuôi đã thực hiện khóa luận với tên đề tài:
Tìm hiểu việc dịch thuật và nghiên cứu Đường thi ở Việt Nam trước Cách
mạng Tháng tám. Khóa luận đã tổng hợp được tài liệu và bước đầu có những
lời bình ý nghĩa về vấn đề nghiên cứu Đường thi ở Việt Nam.
Năm 1991, Nguyễn Thị Mỹ Linh đã viết khóa luận với tên đề tài: Tình
hình giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch thơ ca Trung Quốc ở Việt Nam từ
trước tới nay. So với hai khóa luận trên, khóa luận này có dự nghiên cứu tiếp
nhận rộng hơn ở cả lĩnh vực giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch; và đối
tượng nghiên cứu rộng không giới hạn ở Đường thi mà là cả thơ ca Trung
Quốc. Khóa luận đã cung cấp cho độc giả nguồn tư liệu quý giá rất chi tiết

về việc tiếp nhận thơ ca Trung Quốc.
Nhìn chung các công trình trên được nghiên cứu từ góc độ văn học so
sánh (nghiên cứu ảnh hưởng), chứ chưa khảo sát đối tượng từ góc độ mỹ học
tiếp nhận. Những năm gần đây khi mỹ học tiếp nhận được mở rộng, lí luận
tiếp nhận đã chuyển từ nghiên cứu ảnh hưởng sang nghiên cứu tiếp nhận thì
vấn đề đối tượng tiếp nhận được nghiên cứu sâu hơn. Liên tiếp những năm
2006, 2007, 2008, 2009 dưới sự hướng dẫn của thầy Phạm Ánh Sao, đã có
các niên luận, khóa luận hiểu quá trình tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam
trong sách giáo khoa phổ thông và qua một số trường hợp tiêu biểu.
Năm 2006, khóa luận của Nguyển Thu Hương viết về đề tài: Tiếp nhận
và diễn dịch Phong kiều dạ bạc tại Việt Nam. Khóa luận đã cung cấp những
lí luận cơ bản về tiếp nhận văn học và đưa ra một hướng tiếp cận mới về
Phong kiều dạ bạc ở Việt Nam.
Năm 2008, Nguyễn Thị Hường đã thực hiện đề tài niên luận: Vấn đề
tiếp nhận Tỳ bà hành tại Việt Nam. Niên luận đã cơ bản mô tả được những
ghi chép về thời điểm sớm nhất tiếp nhận văn bản Tỳ bà hành ở Việt Nam.
Năm 2008, Mạnh Thị Minh viết đề tài khóa luận về: Đường thi trong
SGK phổ thông ở Việt Nam. Khóa luận cung cấp cho độc giả nhiều tư liệu
quý trong việc tìm hiểu Đường thi trong SGK phổ thông.
Năm 2009, có khóa luận của Lê Thị Tuyết Mai với tên đề tài: Nghiên
cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam, chủ yếu thông qua hai tác
phẩm là Tỳ bà hành và Phong kiều dạ bạc. Khóa luận đã tập trung tìm hiểu
qua trình tiếp nhận và diễn dịch hai tác phẩm đó ở Việt Nam theo từng giai
đoạn khác nhau, khảo sát mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của quá trình
tiếp nhận và diễn dịch văn bản, lý giải nguyên nhân và hệ quả của những cách
tiếp cận, từ đó nhận diện một số vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam.
Năm 2009, Nguyễn Thị Hồng Mơ viết đề tài khóa luận: Tiếp nhận
Hoàng Hạc lâu tại Việt Nam. Khóa luận đã tổng thuật và lí giải những ý kiến
xung quanh tác phẩm trên các phương diện như dịch thuật, nghiên cứu; khảo
sát mối liên hệ giữa tác phẩm với người tiếp nhận.

Năm 2009, còn có niên luận của Phạm Thanh Thủy với tên đề tài: Đi
tìm độ vênh giữa bản dịch với nguyên tác thơ Đường trong SGK trung học
phổ thông (THCS). Niên luận đã dựa vào việc so sánh đối chiếu hình thức
diễn đạt ngữ nghĩa để tìm ra những chỗ khác biệt giữa các bản dịch và
nguyên tác của các bài thơ Đường trong SGK THCS.
Thông qua việc hệ thống trên, chúng tôi thấy các công trình nghiên cứu
tiếp nhận này đã có những đóng góp rất quý báu trong việc tổng hợp, thống
kê, mô tả, diễn dịch, giảng giải, cắt nghĩa, đối chiếu, so sánh…trên phương
diện dịch thuật, nghiên cứu, phê bình các tác phẩm Đường thi. Điều đó có
nghĩa các công trình này, đặc biệt là ở những năm gần đây đã tiếp cận được
lí thuyết của mỹ học tiếp nhận hiện đại. Từ đó chúng tôi cũng thấy chưa có
một công trình nào đi sâu đề cập tới việc dịch thuật các thi phẩm của một
danh gia Đường thi cụ thể nào một cách hệ thống. Thực hiện đề tài này,
chúng tôi mong muốn tiếp tục đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào
mảnh đất tiếp nhận Đường thi nói chung, thơ Lý Bạch nói riêng ở Việt Nam.
3. NHIỆM VỤ, MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Để thực hiện đề tài này, nhiệm vụ của chúng tôi là đi thống kê, mô tả
việc tuyển chọn và dịch thuật thơ Lý Bạch ở Việt Nam trên báo, tạp chí,
trong các sách giáo khoa phổ thông, sách giáo trình đại học, đặc biệt là trong
các tuyển tập thơ dịch. Từ việc thống kê, mô tả một cách hệ thống ấy, chúng
tôi dựa vào đó làm tiền đề để nghiên cứu cận cảnh về dịch phẩm, nghiên cứu
xã hội học về dịch giả. Đối với dịch phẩm tức các văn bản dịch, chúng tôi sẽ
tiến hành nghiên cứu vấn đề lựa chọn thể loại dịch, là dịch giả dịch theo
nguyên tác hay chọn các thể loại khác để dịch (dựa vào chương một, chúng
tôi sẽ nhận xét các thể loại chuyển dịch chủ yếu là trong các tuyển tập thơ
dịch); tiếp đó chúng tôi sẽ tập trung đi sâu vào việc diễn giải nghĩa nguyên
tác - tức quá trình đọc nghĩa của các dịch giả cùng dịch về một tác phẩm của
Lý Bạch (trong phạm vi của một khóa luận, chúng tôi không có điều kiện để
đối chiếu, so sánh tất cả các tác phẩm nguyên tác của Lý Bạch với các bản
dịch của các dịch giả Việt Nam, mà chúng tôi chỉ đối chiếu, so sánh một vài

tác phẩm của Lý Bạch với các bản dịch tương ứng của các dịch giả Việt
Nam để tìm ra những khoảng trống thể hiện trên tác phẩm dịch). Đối với
phần dịch giả, chúng tôi tiến hành phân loại dịch giả và nghiên cứu phông
tiếp nhận, tầm đón nhận của họ về thơ Lý Bạch.
Mục đích khóa luận của chúng tôi là mong muốn có một cái nhìn hệ
thống việc phiên dịch thơ Lý Bạch tại Việt Nam, theo trục thời gian lịch đại
của văn học sử. Như đã trình bày, khóa luận của chúng tôi tiếp tục kế thừa
các công trình nghiên cứu trước, vận dụng lí thuyết của mỹ học tiếp nhận để
tiếp nhận thơ Lý Bạch nói riêng, góp phần vào tiếp nhận Đường thi nói
chung.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, PHẠM VI TƯ LIỆU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là tìm hiểu quá trình phiên dịch
thơ Lý Bạch ở Việt Nam. Tương ứng với đối tượng nghiên cứu đó, phạm vi
nghiên cứu của chúng tôi là những vấn đề xung quanh việc dịch thuật thơ Lý
Bạch ở Việt Nam.
Về phạm vi tài liệu, chúng tôi chủ yếu dựa vào các tài liệu thành văn
bằng chữ quốc ngữ (sách, báo,tạp chí, các tuyển tập thơ dịch…) từ đầu thế kỉ
XX đến nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, trên phương diện lí thuyết, chúng tôi tiếp cận
đối tượng chủ yếu từ góc độ văn học so sánh và mỹ học tiếp nhận.
Về các mặt thao tác khoa học cụ thể, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương
pháp mô tả, thống kê, phân loại, chia giai đoạn nhằm khôi phục diện mạo và
phác họa quá trình Phiên dịch thơ Lý Bạch ở Việt Nam, đồng thời cũng sử
dụng phương pháp xã hội học văn học, phương pháp phân tích ngữ nghĩa, so
sánh, đối chiếu, lí giải…để làm rõ việc tiếp nhận các văn bản dịch của chủ
thể tiếp nhận - dịch giả.
6. BỐ CỤC KHÓA LUẬN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo ra, phần Nội dung
của khóa luận bao gồm hai chương:

CHƯƠNG 1: TUYỂN CHỌN VÀ DỊCH THUẬT THƠ LÝ BẠCH
Ở VIỆT NAM
1.1. Khởi điểm dịch thuật ở Việt Nam.
1.2. Thơ Lý Bạch trong báo chí Việt Nam đầu thế kỉ XX.
1.3. Thơ Lý Bạch trong Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng
Hàm.
1.4. Thơ Lý Bạch trong các tuyển tập thơ dịch (từ năm 1945 đến nay).
1.5. Thơ Lý Bạch ở trong SGK phổ thông.
1.6. Thơ Lý Bạch ở trong sách giáo trình đại học.
1.7. Thơ Lý Bạch ở trên báo chí (khảo sát trên báo văn nghệ từ năm
1990 đến nay).
1.8. Thơ Lý Bạch ở trên tạp chí (khảo sát từ những năm 1960 đến nay).
CHƯƠNG 2: DỊCH PHẨM VÀ DỊCH GIẢ THƠ LÝ BẠCH
2. 1. Dịch phẩm.
2. 1. 1. Lựa chọn thể loại dịch.
2. 1. 2. Diễn giải nghĩa nguyên tác.
2. 2. Dịch giả.
2. 2. 1. Phân loại dịch giả.
2. 2. 2. Phông tiếp nhận và tầm đón nhận.
7. QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
Khóa luận của chúng tôi được trình bày theo quy cách của Trường Đại
Học Khoa học Xã Hội & Nhân Văn Hà Nội quy định cho khóa luận tốt
nghiệp.
Đối với tên các tác phẩm của Trung Quốc và Việt Nam ở các công trình
nghiên cứu hay tên tác phẩm riêng, để tôn trọng nguyên tác và tiện tra cứu,
chúng tôi phiên âm Hán Việt đồng thời in nghiêng; riêng tên các tác phẩm
của Lý Bạch chúng tôi sẽ in nghiêng đậm.
Đối với tên các công trình nghiên cứu niên luận, khóa luận hay luận
văn…chúng tôi cũng sẽ in nghiêng. Các thông tin về công trình và các bài
báo, tạp chí như tác giả, xuất xứ, nhà xuất bản… chúng tôi sẽ ghi cụ thể

ngay bên cạnh.
Tài liệu tham khảo được sắp xếp theo thứ tự tên tác giả vần a,b,c… ở
cuối khóa luận.
Để chú thích chúng tôi sử dụng dấu ngoặc vuông: [;] số đứng trước là
vị trí của tài liệu như trong thư mục tham khảo, số đứng sau là số vị trí trang
trong tài liệu của tư liệu được chú thích.
Chú thích trực tiếp ở chân trang dành riêng cho việc giải thích từ ngữ,
khái niệm
Sau đây là một số kí hiệu viết tắt:

Số thứ tự STT
Sách giáo khoa SGK
Nhà xuất bản NXB
Trang Tr hoặc tr
Hà Nội H.
v. v.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TUYỂN CHỌN VÀ DỊCH THUẬT THƠ LÝ BẠCH Ở VIỆT NAM
1.1. Khởi điểm dịch thuật ở Việt Nam.
Như đã trình bày ở trên, vấn đề dịch thuật văn học trở nên hết sức cần
thiết trong quá trình giao lưu, tiếp xúc giữa các nền văn hóa, văn học. Dựa
vào những cứ liệu còn để lại đến ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng
Việt Nam là một trong những nước có truyền thống dịch thuật từ lâu đời.
Theo nhà nghiên cứu Đình Vĩnh thì “sách Lĩnh nam trích quái có ghi vào
thời Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi là họ Việt Thường đem
bạch trĩ sang tiến cống. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai sứ qua
nhiều lần thông dịch mới hiểu được nhau”[;73]. Dĩ nhiên đây là hình thức
dịch nói. Vào giai đoạn Bắc thuộc, khi sang xâm chiếm nước ta, chính quyền
phong kiến Trung Quốc đã đưa ra nhiều chính sách và biện pháp nhằm đồng

hóa dân tộc ta. Thời kì này, chữ Hán được truyền vào nước ta và dần dần trở
thành công cụ để chính quyền phong kiến Trung Quốc xây dựng và phát
triển nền văn hóa thành văn. Hình thức dịch viết đã ra đời và chủ yếu dành
cho việc chuyển dịch các Kinh Phật từ chữ Sancrit hoặc chữ Pali sang chữ
Hán là chữ được ông cha ta sử dụng. Sử sách còn ghi vào thế kỉ thứ hai, Luy
Lâu đã trở thành trung tâm Phật giáo lớn, quy mô ở Việt Nam hơn cả Bành
Thành và Lạc Dương ở Trung Quốc. Văn học phật giáo từ bên ngoài cụ thể
là từ Ấn Độ bằng nhiều con đường cũng được truyền vào nước ta và được
dịch ở thời kì này.
Sau một nghìn năm Bắc thuộc giành được độc lập dân tộc, ông cha ta
lại bắt tay vào việc xây dựng lại đất nước, chủ động học hỏi những cái hay
từ nền văn hóa bên ngoài, trong đó cơ bản vẫn là học hỏi văn hóa Trung
Hoa. Trên tinh thần học hỏi tự chủ, sáng tạo, ông cha ta đọc rất nhiều tác
phẩm thơ văn của Trung quốc và chữ Hán lúc này được dùng làm ngôn ngữ
chính thống, do vậy việc tiếp xúc là thông qua con đường nguyên tác. Thời
kì này, việc dịch thơ chữ Hán của Việt Nam và Trung Quốc đã có, không kể
văn xuôi. Nhà sư Lý Đạo Tái, pháp danh Huyền Quang (1254 - 1334) thời
Trần dịch một bài thơ của nhà sư Từ Lộ, pháp danh Đạo Hạnh (? – 1117)
thời Lý, và Hồ Quý Ly (1336 - ?) dịch Kinh Thi. Đến thế kỉ XV khi chữ
Nôm ra đời, phát triển và thịnh hành và được dùng để sáng tác văn học thì
việc dịch cũng bắt đầu được chú ý. Những văn bản đầu tiên được lựa chọn
dịch là những văn bản chữ Hán. Theo các nhà nghiên cứu, việc dịch từ chữ
Hán sang chữ Nôm đã giúp cho công chúng dễ tiếp cận với tác phẩm hơn.
Suốt quá trình lịch sử của chế độ phong kiến Việt Nam, tuy chữ Hán được
dùng làm “quốc gia văn tự”, hầu như người ta vẫn “diễn nôm” nhiều tác
phẩm, có lẽ với mục đích làm tăng hiệu quả việc truyền đạt chúng. Trên lĩnh
vực thơ ca, ông cha ta dịch nhiều nhất là Kinh Thi (Mao Thi ngâm vịnh thực
lục, Thi kinh giải âm, Thi kinh diễn nghĩa, Thi Kinh diễn âm), thơ Đường
(Đường thi quốc âm, Đường thi trích dịch, Đường thi tuyệt cú diễn ca,
Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm…), và một số bài lẻ tẻ như Quy

khứ lai từ diễn ca (trong Chư đề hợp tuyển), Tương tiến tửu (trong Ca điệu
lược kí), Tỳ bà hành diễn ca, Trường hận ca, Chính khí ca. Trong giai đoạn
này, cha ông ta chú trọng nhiều đến phương pháp “ dịch chữ” (trực dịch),
nếu có “dịch ý” (nghĩa dịch) thì cũng còn rất thô sơ.
Bắt đầu từ cuối thế kỉ XVIII mới xuất hiện những dịch phẩm hay, sáng
giá, trong đó nổi bật lên là Chinh phụ ngâm diễn ca của Phan Huy Ích (1751
- 1822), nguyên tác của Đặng Trần Côn (tập truyện vốn cho là Đoàn Thị
Điểm dịch) và Tì bà hành diễn ca của Phan Huy Thực (1779 - 1846).
Đến thế kỉ XIX, thơ Nôm đã hết sức phát triển, nghệ thuật sử dụng
ngôn từ cũng rất điêu luyện nên cũng có nhiều bản dịch thơ Đường. Nhưng
đến ngày nay chỉ tìm thấy một số rất ít bài của một số dịch giả vốn là những
nhà thơ nổi tiếng như Phạm Đình Toái dịch Xuân giang hoa nguyệt dạ của
Đỗ Phủ, Nguyễn Công Trứ dịch Vịnh tỳ bà của Bạch cư Dị và dịch Thu hứng
I của Đỗ Phủ, Trần Tế Xương có dịch bài Thập thất dạ đối nguyệt của Đỗ
Phủ, Nguyễn Khuyến dịch bài Há chung Nam Sơn quá Hộc Tư sơn nhân
túc trí tửu của Lý Bạch theo thể song thất lục bát và tự dịch thơ mình.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX khi chữ Hán, chữ Nôm mất dần vị thế
của mình thì chư Quốc ngữ đã lên ngôi. Trước những âm mưu đè ép của
thực dân Pháp, chữ Quốc ngữ vẫn thể hiện được sức sống mãnh liệt của nó.
Nó được coi là thứ chữ dễ học, dễ đọc, dễ viết đủ mềm mại phong phú để
phô diễn các loại tư tưởng tình cảm, từ cái tinh vi đến cái thông thường, là
phương tiện thuận lợi để thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của văn hóa xã
hội Việt Nam. Văn học dịch Tiếng Việt (theo mẫu tự La tinh) đã hình thành
trước năm 1900. Tuy nhiên phải đến những năm đầu thế kỉ XX, dịch thuật
mới phát triển rầm rộ và trở thành một bộ phận trong dòng chảy của văn học
Việt Nam.
1. 2. Thơ Lý Bạch trong báo chí Việt Nam đầu thế kỉ XX
Đầu thế kỉ XX, dịch thuật hầu như chiếm hết văn đàn trong bước đầu
của nền quốc văn mới. Chưa bao giờ nền dịch thuật của ta lại phát triển đến
thế, dịch văn học Âu châu chủ yếu là văn học Pháp, dịch Tân thư Trung

Quốc, dịch cổ thi nước nhà và Trung Quốc. Nho học vốn đã suy tàn từ trước,
giờ đây khi chính phủ bảo hộ lần lượt bãi bỏ chế độ khoa cử ở cả ba kì thì số
người “ném bút lông đi, gác bút chì lại” ngày càng đông đảo. Hầu như
không có mấy ai học chữ Hán trong cái thời “ông nghè, ông cống vẫn nằm
co”. Các cựu nho học có tâm huyết muốn cứu vãn nền học cổ chỉ còn dựa
vào dịch thuật, dịch từ chữ Hán hoặc nhữ Nôm ra chữ Quốc ngữ. Trước tình
hình đó, thơ Đường đã được sưu tập lại từ những bản dịch xưa hoặc được
các nhà cựu học như Tùng Vân, Đông châu Nguyễn Hữu Tiến, Sở Cuồng Lê
Dư, Phạm Sỹ Vỹ, Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải, Trúc Khê. v. v. dịch
thành thơ đăng tải trên các tạp chí.
Thơ Đường trên các tạp chí đã giữ một vị trí đặc biệt trong lịch sử dịch
thơ Đường đầu thế kỉ XX ở nước ta. Trong thời điểm này các tạp chí là
phương tiện duy nhất phổ biến những bản dịch thơ Đường, trong đó có các
bản dịch thơ Lý Bạch bằng chữ Quốc ngữ. Về sau, nhiều tuyển tập thơ
Đường cũng sưu tập lại các bản dịch thơ Đường đăng tải trên các tạp chí. Do
sự hạn chế về mặt tài liệu nên chúng tôi không thống kê được đầy đủ các
bản dịch thơ Lý Bạch trên các báo, tạp chí đầu thế kỉ XX, mà chúng tôi chỉ
thống kê được một số bản dịch thơ Lý Bạch trên một số báo, tạp chí.
Nam phong tạp chí, ra đời năm 1917 do Phạm Quỳnh chủ biên. Đây là
tạp chí đi đầu trong việc dịch, giới thiệu thơ Đường đầu thế kỉ XX. Người
phụ trách phần dịch thơ Đường là Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục - là một
trong những nhà nho cuối mùa rất có tâm huyết trong việc chấn hưng lại nền
văn học cổ. Ông cùng với Đông Châu Nguyễn Hữu tiến và Sở Cuồng Lê Dư
đã đem hết sức lực của mình để tiến hành dịch và giới thiệu thơ Đường cho
giới tân học. Tồn tại trong vòng 17 năm (1917 - 1934), Nam Phong tạp chí
đã dịch được khoảng 300 bài thơ Đường. Chúng tôi đã sưu tập được một số
bản dịch thơ Lý Bạch trên mục Văn uyển của Tạp chí Nam Phong dưới đây:
- Tạp chí Nam Phong số 9, trang 163, năm 1918 có bài: Thanh bình
điệu (3 bài) do Nguyễn Khuyến sưu tầm.
- Tạp chí Nam Phong số 10, trang 230 - 231, năm 1918 có 4 bài: Tô đài

lãm cổ; Đêm xuân ở Lạc thành nghe tiếng sáo; Trên lầu Hoàng Hạc tiễn
Mạnh Hiệu Nhiên đi ra đất Quảng Lăng; Tảo phát Bạch Đế thành do dịch
giả Vô danh dịch.
- Tạp chí Nam Phong số 33, trang 258 - 259, năm 1920 có 2 bài: Đêm
xuân ở Lạc thành nghe tiếng sáo; Ông Lý Bạch tiễn ông Mạnh Hiệu Nhiên
ở lầu Hoàng Hạc đi ra Quảng Lăng do Trần Sở Kiều dịch.
- Tạp chí Nam Phong số 48, trang 518 - 519, năm 1921 có 2 bài: Thanh
bình điệu tam thủ; Ở Hoàng Hạc tiễn ông Mạnh Hiệu Nhiên đi Quảng
Lăng do cụ Đặng Tích Trù dịch.
- Tạp chí Nam Phong số 65, trang 389 - 390, năm 1922 có bài: Nghĩ cổ
(2 bài) do Tùng Vân dịch.
- Tạp chí Nam Phong số 99, trang 279, năm 1925 có bài: Một mình trên
núi Kính Đình do Nguyễn Thế Nức dịch.
- Tạp chí Nam Phong số 115, trang 277 - 278, năm 1927 có 2 bài: Việt
trung lãm cổ; Tô đài lãm cổ do Tùng Vân dịch.
Các bản dịch thơ Lý Bạch trên chỉ trích đăng phần nguyên văn chữ Hán
và bản dịch thơ.
Do sự hạn chế về mặt tài liệu nên chúng tôi không thống kê được hết
các bản dịch thơ của Lý Bạch trên tạp chí này, nhưng thông qua một số bản
dịch thơ mà chúng tôi đã thống kê được ở trên có thể khẳng định rằng các
bản dịch thơ Lý Bạch của các dịch giả đương thời và các bản dịch cổ được
sưu tập lại đã đóng góp rất đáng kể vào nền dịch thuật thơ Đường trong buổi
Hán học suy tàn, mở đầu cho phong trào dịch thơ Đường nói chung, thơ Lý
Bạch nói riêng trên các tạp chí.
Đông Dương tạp chí ra đời năm 1937 được phát hành với mục đích
tuyên truyền cho văn hóa Pháp. Vì thế tạp chí ra đời không bao lâu thì bị
đình chỉ nên các dịch phẩm thơ Đường tồn tại rất ít, số lượng không đáng kể.
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì cây bút dịch thơ Đường chủ yếu là Á
Nam Trần Tuấn Khải - một cây bút cổ học có tiếng. Ông chỉ dịch các bài cổ
phong của Đỗ Phủ không thấy dịch bài thơ nào của Lý Bạch. Các bài thơ của

Lý Bạch chỉ thấy đăng phần phiên âm Hán Việt và các dịch giả đều dịch
nghĩa, dịch thơ bằng tiếng Pháp. Cụ thể:
- Ngân Giang dịch 2 bài: Vấn nguyệt ; Xuân dạ yến đào của Lý Bạch
trên tạp chí số 3, trang 26, năm 1937.
- Ngân Giang dịch bài: Tương tiến tửu của Lý Bạch trên tạp chí số 4,
trang 30, năm 1937.
- Nam Dương dịch bài: Tương Dương ca của Lý Bạch trên tạp chí số 7,
trang 290, năm 1937.
Tạp chí ngày nay ra đời năm 1935, tồn tại trong vòng 5 năm(1935 đến
năm 1939). Tạp chí đã giới thiệu được hơn 77 dịch phẩm thơ Đường. Tạp
chí này cũng là nơi thể hiện sự tài hoa của nhà thơ Tản Đà và chỉ có mình
Tản Đà dịch thơ Đường. Với lối dịch thanh thoát trong việc lựa chọn thể Lục
bát(thể thơ dân tộc), trong hầu như các bản dịch, ông đã đưa thơ Đường gần
gũi với hồn Việt. Do sự hạn chế trong việc tìm tài liệu, chúng tôi dựa vào
tuyển tập Tản Đà dịch thơ Đường do Nguyễn Quảng Tuân biên soạn có thể
thống kê các bản dịch thơ Lý Bạch của Tản Đà trên tạp chí Ngày nay theo
bảng dưới đây:

STT Số đăng tải trên tạp chí
Ngày nay
Tên tác phẩm nguyên tác
1. Số 77 (19. 9. 1937) Biệt hữu nhân
2. Số 78 (26. 9. 1937) Xuân tứ
3. Số 82 (24. 10. 1937) Kinh Hạ Bì dĩ kiều hoài Trương Tử
Phòng
4. Số 83 (31. 10. 1937) Ô dạ đề
5. Số 88 (5. 12. 1937) Tảo phát Bạch Đế thành
6. Số 89 (10. 12. 1937) Thái liên khúc
7. Số 91 (26. 12. 1937) Xuân nhật túy khởi ngôn chí
8. Số 94 (16. 1. 1938) Sơn trung vấn đáp

9. Số 119 (17. 7. 1938) Tống khách qui ngô
10. Số 119 (17. 7. 1938) Oán tình
11. Số 130 (1. 10. 1938) Tặng nội
12. Số 135 (5. 11. 1938) Tặng Uông Luân
Các bản dịch thơ do Tản Đà dịch ở trên mỗi bài chỉ có phần phiên âm
và bản dịch thơ.
Tạp chí Tri Tân ra đời năm 1941, tồn tại trong vòng 5 năm (1941 -
1945) đóng góp hơn 30 bản dịch thơ Đường của Hoa Bằng, Tùng Vân, Giản
Chi, Trúc Khê, J. Leiba, Nguyễn Đức Tốn… Tạp chí Tri tân đã qui tụ các
nhà thơ, nhà văn của thế hệ Nam Phong có tân học thấm nhuần nho học.
Nhiều bản dịch trên Tri Tân có giá trị nhất là những bài của Trúc Khê, Giản
Chi. Chúng tôi cũng chỉ thống kê được một số bản dịch thơ của Lý Bạch
dưới đây:
- Tạp chí Tri Tân số 35, trang 23, năm 1942 ở mục Vườn hoa xuân có
bài: Xuân tứ do Nguyễn Đức Tốn dịch có kèm theo phiên âm Hán Việt,
- Tạp chí Tri Tân số 89, trang 2, năm 1943 ở phần Nguồn gốc lối từ
khúc có trích đăng 2 bài kèm theo cả chữ Hán, phiên âm và dịch thơ: Khuê
tình; Thu tứ.
- Tạp chí Tri Tân ở mục Tùy hứng số 89, trang 7, năm 1943 có bài
Tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng doTrúc Khê dịch.
- Tạp chí Tri Tân ở mục Tùy hứng số 94, trang 3, năm 1943 có bài: Việt
trung hoài cổ do Trúc Khê dịch.
- Tạp chí Tri Tân ở mục Tùy hứng số 98, trang 5, năm 1943 có bài: Ô
thê khúc do Trúc Khê dịch.
Các bản dịch thơ của Trúc Khê trên chỉ trích đăng phần dịch thơ.
Đến những năm 50, 60 một số tạp chí như tạp chí Lành Mạnh, tạp chí
văn hóa Ngày nay vẫn trích đăng mục dịch thơ Đường trong đó có thơ Lý
Bạch. Tuy nhiên số lượng các bản dịch được giới thiệu trên mặt báo đã ít đi
dần.
Tiểu kết:

Do sự hạn chế về mặt tài liệu nên việc thống kê các bản dịch thơ Lý
Bạch trên các báo, tạp chí đầu thế kỉ của chúng tôi chỉ mang tính chất tương
đối. Qua việc thống kê ấy chúng tôi thấy rằng, trong giai đoạn đầu thế kỉ XX
nhiệm vụ của các tạp chí chủ yếu là phổ biến các bản dịch thơ Đường nói
chung, thơ Lý Bạch nói riêng bằng chữ Quốc ngữ. Có thể ghi nhận rằng
chưa bao giờ thơ Đường trong đó có thơ Lý Bạch được sưu tập và được dịch
thuật nhiều đến như vậy. Chính bằng con đường dịch thuật này mà thơ
Đường đã đến với những thanh niên tân học và những nhà thơ mới. Đến
những năm 50,60 thì hầu như không còn tạp chí nào duy trì mục dịch thơ
Đường thường xuyên nữa. Việc phổ biến thơ Đườngcũng như thơ Lý Bạch
trên tạp chí đã chuyển giao nhiệm vụ cho các tuyển tập thơ Đường.
1. 3. Thơ Lý Bạch trong Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng
Hàm
Công trình Việt Nam văn học sử yếu của nhà nghiên cứu Dương Quảng
Hàm xuất bản lần đầu tiên tại Hà Nội, năm 1943. Dương Quảng Hàm là
người đầu tiên đưa môn văn học Trung Quốc vào chương trình nhà trường
phổ thông trung học. Đây không chỉ là một cuốn sách giáo khoa văn học
dùng ở bậc phổ thông trung học dưới thời Pháp thuộc trước Cách mạng
Tháng Tám, mà còn được xem như một cuốn lịch sử văn học Việt Nam có
tính cách phổ thông đầu tiên được biên soạn bằng chữ Quốc ngữ. Đặt trong
nền học thuật bằng chữ Quốc ngữ lúc đó đang thịnh đạt, Việt Nam văn học
sử yếu tỏ rõ sự vững chắc trong việc bao quát quá trình văn học dân tộc từ
khởi nguyên đến đương thời, thu góp được hầu hết những kết quả sưu tầm,
nghiên cứu của giới học giả tính đến thời điểm ấy, từ đó phác thảo một lịch
trình diễn biến của văn học dân tộc. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành
hẳn sáu chương cho văn học Trung Quốc từ dân gian đến hiện đại. Trong
chương trình năm thứ nhì ban trung học Đông Pháp (Lớp nhất trong các
trường trung học Pháp), Dương Quảng Hàm dành ba chương cho văn học
Trung Quốc. Trong chương thứ nhất nhan đề: Ảnh hưởng của văn chương
Tàu, tác giả giới thiệu năm nhà thơ Trung Quốc có ảnh hưởng lớn nhất đến

văn chương Việt Nam là Khuất Nguyên, Đào Tiềm (trước đời Đường); Lý
Bạch, Hàn Dũ (đời Đường); Tô Đông Pha (đời Tống). Như vậy chúng ta
thấy, trong ba đỉnh cao của thơ Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị thì
Dương Quảng Hàm chỉ tuyển chọn Lý Bạch vào chương trình giảng dạy. Vì
Lý Bạch được tác giả coi là một trong năm nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất
đến văn chương Việt Nam. Ngoài phần giới thiệu về thân thế, tính tình tư
tưởng, văn từ của Lý Bạch, trong phần các bài đọc thêm Dương Quảng Hàm
đã tuyển chọn một bài thơ của Lý Bạch với dụng ý là làm rõ hơn những
nhận xét về tính tình tư tưởng của nhà thơ Lý Bạch. Đó là bài Tương tiến
tửu (Sắp kèo rượu) do Vô danh dịch và Dương Quảng Hàm đã trích phần
dịch thơ của Vô Danh.
1. 4. Thơ Lý Bạch trong các tuyển tập thơ dịch (từ 1945 đến nay)
Có thể thấy trước năm 1945, chủ yếu việc dịch thuật và giới thiệu
Đường thi nói chung trong đó có thơ Lý Bạch được phổ biến trên các báo,
tạp chí. Năm 1931, có tập Đường thi hợp tuyển của Huyền Mặc đạo nhân do
Dương Mạnh Huy san dịch và chú giải. Qua khảo sát có hai bài thơ của Lý
Bạch trong tập dịch này: Tống hạ giám quy Tứ Minh ứng chế; Đề Đông
Khê công u cư. Các bài thơ trong tập dịch này đều ghi rõ nguyên văn chữ
hán, phiên âm Hán Việt, chú thích, dịch nghĩa và diễn thơ Nôm.
Từ thập niên 40 trở đi, các tuyển tập thơ Đường trong đó có thơ Lý
Bạch ngày càng phong phú, số tuyển tập được tái bản nhiều lần. Trong phần
này, chúng tôi sẽ kẻ bảng thống kê tên tác phẩm nguyên tác, thể loại thơ
nguyên tác, thể loại thơ chuyển dịch để tạo tiền đề cho chương hai chúng tôi
nhận xét về phần lựa chọn thể loại thơ dịch. Chúng tôi sẽ đi thống kê các
bản dịch thơ Lý Bạch trong các tuyển tập thơ Đường và các tuyển tập thơ Lý
Bạch theo thứ tự thời gian các tuyển tập thơ dịch được xuất bản.
* Năm 1940, có cuốn Phiên dịch và khảo cứu thơ Đường của Ngô Tất
Tố. Đến năm 1961, nó được tái bản lại có tên là cuốn Đường thi của Ngô Tất
Tố. Trong tuyển tập này có 52 bài thơ Đường được dịch, trong đó có 10 bài
thơ của Lý Bạch. Mỗi bài thơ trong tuyển tập đều có nguyên tác chữ Hán,

phiên âm Hán Việt, phần tìm điển, giải nghĩa và dịch vần. Dưới đây là tên
10 bài thơ dịch của Lý Bạch:

STT Tên Tác phẩm nguyên tác Thể loại nguyên tác Thể loại chuyển
dịch
1 Xuân nhật túy khởi ngôn chí Ngũ ngôn cổ thể Lục bát
2 Xuân tứ Ngũ ngôn cổ thể Lục bát
3 Thục đạo nan Thất ngôn cổ thể Nguyên thể
4 Tương tiến tửu Thất ngôn cổ thể Song thất lục bát
5 Độc tọa Kính Đình sơn Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
6 Tĩnh dạ tứ Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
7 Ức Đông sơn Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
8 Thanh bình điệu Thất ngôn tuyệt cú Nguyên thể
9 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh
Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Thất ngôn tuyệt cú Lục bát
10 Tống hữu nhân nhập Thục Ngũ ngôn luật Nguyên thể
* Năm 1950 có cuốn Đường thi của Trần Trọng Kim tuyển dịch. Đến
năm 1995, nó được tái bản lại. Trong tuyển tập này có 336 bài thơ Đường
được dịch, trong đó Lý Bạch được dịch 40 bài. Mỗi bài thơ trong tuyển tập
đều có nguyên văn chữ Hán, phiên âm Hán Việt, chú thích ngắn gọn và bản
dịch thơ. Tên 40 bài thơ của Lý Bạch cụ thể đưới đây:
STT Tên tác phẩm nguyên tác Thể loại nguyên tác Thể loại
chuyển dịch
1 Xuân nhật độc chước Ngũ ngôn cổ thể Lục bát
2 Xuân nhật túy khởi ngôn chí Ngũ ngôn cổ thể Lục bát
3 Nguyệt hạ độc chước Ngũ ngôn cổ thể Lục bát
4 Xuân tứ Ngũ ngôn cổ thể Lục bát
5 Há chung Nam Sơn quá
Hộc Tư sơn nhân túc trí tửu

Ngũ ngôn cổ thể Lục bát
6 Tử dạ thu ca Ngũ ngôn cổ thể Lục bát
7 Tương tiến tửu Thất ngôn cổ thể Song thất lục
bát
8 Giang thượng ngâm Thất ngôn cổ thể Lục bát
9 Hành lộ nan Thất ngôn cổ thể Song thất lục
bát
10 Tuyên châu Tạ Diểu lâu tiễn
biệt hiệu thư Thúc vân
Thất ngôn cổ thể Lục bát
11 Kim Lăng tửu tứ lưu biệt Thất ngôn cổ thể Lục bát
12 Thu tứ Thất ngôn cổ thể Nguyên thể
13 Tống hữu nhân nhập Thục Ngũ ngôn luật Lục bát
14 Tặng Tiền trưng quân thiếu
dương
Ngũ ngôn luật Lục bát
15 Tống hữu nhân Ngũ ngôn luật Lục bát
16 Tầm ung tôn sư ẩn cư Ngũ ngôn luật Lục bát
17 Phỏng đái Thiên sư đạo sĩ Ngũ ngôn luật Lục bát
bất ngộ
18 Thính thục tăng tuấn đàn
cầm
Ngũ ngôn luật Lục bát
19 Tặng Mạnh Hạo Nhiên Ngũ ngôn luật Lục bát
20 Dạ bạc ngưu chử hoài cổ Ngũ ngôn luật Lục bát
21 Đăng Kim Lăng phượng
hoàng đài
Thất ngôn luật Lục bát
22 Tống hạ Giám qui Tứ Minh
ứng chế

Thất ngôn luật Lục bát
23 Đề Đông Khê u cư Thất ngôn luật Lục bát
24 Tĩnh dạ tứ Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
25 Ngọc giai oán Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
26 Tự khiển Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
27 Lục thủy khúc Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
28 Ức Đông Sơn Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
29 Độc tọa kính Đình Sơn Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
30 Oán tình Ngũ ngôn tuyệt cú Lục bát
31
-33
Thanh bình điệu Thất ngôn tuyệt cú Nguyên thể
34 Thiếu niên hành Thất ngôn tuyệt cú Lục bát
35 Hoàng giang từ Thất ngôn tuyệt cú Nguyên thể
36 Mạch thượng tặng hữu
nhân
Thất ngôn tuyệt cú Lục bát
37 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh
Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Thất ngôn tuyệt cú Lục bát
38 Sơn trung vấn đáp Thất ngôn tuyệt cú Lục bát
39 Việt trung hoài cổ Thất ngôn tuyệt cú Lục bát
40 Tảo phát Bạch Đế Thất ngôn tuyệt cú Lục bát
* Năm 1962 có tuyển tập thơ Đường (2 tập) do Nam Trân tuyển thơ,
Hoa bằng, Tảo Trang, Hoàng Tạo dịch nghĩa và chú thích. Tuyển tập này
tuyển chọn dịch 356 bài thơ Đường, mỗi bài đều có phần phiên âm Hán
Việt, dịch nghĩa, chú thích và dịch thơ. Trong 356 bài thơ Đường được tuyển
chọn này có 64 bài của Lý Bạch được chọn dịch. Nam Trân đã tuyển chọn
nhiều bài dịch hay của các dịch giả nổi tiếng (Tản Đà, Trúc Khê, Nguyễn
Hữu Bổng, Khương Hữu Dụng, Ngô Tất Tố…) trên các tạp chí như Nam

Phong, Tiểu thuyết thứ bẩy, Ngày Nay…và các bản dịch cổ nên các bản dịch
thơ hầu hết đều có giá trị. Vì đây là tuyển tập sưu tầm nhiều bản dịch của
nhiều dịch giả khác nhau nên trong bảng thống kê tên mỗi bài thơ chúng tôi
ghi tên dịch giả ngay bên cạnh:

ST
T
Tên tác phẩm
nguyên tác
Thể loại nguyên tác Dịch giả/ Thể loại
chuyển dịch
1 Xuân tứ Ngũ ngôn cổ thể Khương Hữu Dụng/
Lục bát
2 Oán tình Ngũ ngôn tuyệt cú Tản Đà/ Lục bát;
Tương Như/ Nguyên
thể
3 Việt Trung lãm cổ Thất ngôn tuyệt cú Tùng Vân/ Nguyên thể
4 Thái liên khúc Thất ngôn luật Tản Đà/ Lục bát
5 Tặng uông Luân Thất ngôn tuyệt cú Khương Hữu Dụng/
Lục bát
6 Phỏng đái Thiên
sơn đạo sĩ bất ngộ
Ngũ ngôn luật Trần Quang Thân và
Tương Như/ Nguyên
thể
7 Dạ bạc ngưu chử
hoài cổ
Ngũ ngôn luật Nguyễn Hữu Bổng/
Lục bát
8 Ô thê khúc Thất ngôn cổ thể Trúc Khê/ Nguyên thể

9 Kinh Hạ Bì dĩ kiều
hoài Trương Tử
Phòng
Ngũ ngôn cổ thể Trúc Khê/ Nguyên thể
10 Há chung Nam sơn
quá Hộc Tư sơn
nhân túc trí tửu
Ngũ ngôn cổ thể Tam Nguyên Yên Đổ/
song thất lục bát;
Cường Thiết/ Nguyên
thể
11 Bả tửu vấn nguyệt Thất ngôn cổ thể Tương Như/ Nguyên
thể
12 Tống khách qui Ngô Ngũ ngôn luật Tản Đà/ Lục bát
13 Mạch thượng tặng
mỹ nhân
Thất ngôn Tuyệt cú TRúc Khê/ Nguyên thể
14 Ký viễn Thất ngôn cổ thể Nguyễn Hữu Bổng/
Nguyên thể
15 Tống Dương sơn
nhân qui Tung sơn
Ngũ ngôn luật Nguyễn Hữu Bổng/
Lục bát
16 Tống Trương xá
nhân chi Giang
đông
Ngũ ngôn luật Nguyễn Hữu Bổng/
Nguyên thể
17 Tặng nội Ngũ ngôn tuyệt cú Tản Đà/ Lục bát
18 Vương chiêu quân Thất ngôn cổ thể Trúc Khê/ Nguyên thể

19 Song yến ly Ngũ ngôn cổ thể Trúc Khê/ Lục bát
20 Trường Tương tư Thất ngôn cổ thể Nguyễn Hữu Bổng/ 4
chữ; Nguyễn Bích
Ngô/ Nguyên thể
21 Quan san nguyệt Ngũ ngôn cổ thể Tản Đà/ Lục bát;
Hoàng Tạo/ nguyên thể
22 Tái hạ khúc Ngũ ngôn luật Tương Như/ Nguyên
thể
23 Tĩnh dạ tứ Ngũ ngôn tuyệt cú Tương Như/ Nguyên
thể
24 Ngọc giai oán Ngũ ngôn tuyệt cú Tương Như/ Nguyên
thể
25 Đảo y thiên Thất ngôn cổ thể Khương Hữu Dụng/
Nguyên thể
26 Trường tương tư Thất ngôn cổ thể Nguyễn Hữu Bổng/ 4
chữ; Nguyễn Bích
Ngô/ nguyên thể
27 Tống hữu nhân Ngũ ngôn luật Tản Đà/ Lục bát;
Khương Hữu Dụng/
Nguyên thể
28 Đăng Kim Lăng
phượng hoàng đài
Thất ngôn luật Khương Hữu Dụng/
Nguyên thể
29 Nguyệt hạ độc
chước
Ngũ ngôn cổ thể Tương Như/ Nguyên
thể
30 Lao lao đình Ngũ ngôn tuyệt cú Trúc Khê/ Lục bát;
Tương Như/ Nguyên

thể
31 Vọng Lư Sơn bộc bố Thất ngôn tuyệt cú Tương Như/ Nguyên
thể
32 Độc bất kiến Ngũ ngôn cổ thể Trúc Khê/ Lục bát
33 Xuân nhật túy khởi
ngôn chí
Ngũ ngôn cổ thể Ngô Tất Tố/ Lục bát
34 Bạch đầu ngâm Ngũ ngôn cổ thể Trúc Khê/ Nguyên thể
35 Nga mi sơn nguyệt Thất ngôn tuyệt cú Tương Như/ Nguyên
thể
36
- 37
Trường can
hành(I,II)
Ngũ ngôn cổ thể Trúc Khê(I)/ Nguyên
thể; Khương Hữu
Dụng(II)/ Nguyên thể
38 Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên
chi Quảng Lăng
Thất ngôn tuyệt cú Ngô Tất Tố/ Lục bát
39 Khách trung tác Thất ngôn tuyệt cú Tương Như/ Nguyên
thể
40 Trào lỗ nho Ngũ ngôn cổ thể Hoàng Tạo/ Thể 7 chữ
41 Giang thượng ngâm Thất ngôn cổ thể Trúc Khê/ Lục bát
42 Xuân dạ Lạc thành
văn địch
Thất ngôn tuyệt cú Tương Như/ Nguyên
thể
43 Đinh đô hộ ca Ngũ ngôn cổ thể Khương Hữu Dụng/

Nguyên thể
44 Tô đài lãm cổ Thất ngôn tuyệt cú Khương Hữu Dụng/
Nguyên thể
45 Kim Lăng tửu tứ
lưu biệt
Thất ngôn cổ thể Khương Hữu Dụng/
Nguyên thể
46 Thục đạo nan Thất ngôn cổ thể Ngô Tất Tố/ Nguyên
thể
47 Tống hữu nhân
nhập Thục
Ngũ ngôn luật Ngô tất Tố/ Nguyên
thể
48 Ô dạ đề Thất ngôn cổ thể Tản Đà/ Lục bát
49
-50
Tử dạ ngô ca (I; II) Ngũ ngôn cổ thể Nguyễn Hữu Bổng(I)/
Lục bát; Tương
Như(II)/ Nguyên thể
51
-53
Thanh bình điệu Thất ngôn tuyệt cú Ngô Tất Tố/ Nguyên
thể
54 Hành lộ nan Thất ngôn cổ thể Hoàng Tạo/ Nguyên
thể
55 Sa Khâu thành hạ
kí Đỗ Phủ
Ngũ ngôn luật Tương Như/ Nguyên
thể
56 Mộng du thiên mụ

ngâm lưu biệt
Thất ngôn cổ thể Khương Hữu Dụng/
Nguyên thể
57 Chiến thành nam Thất ngôn cổ thể Hoàng tạo và Tương
Như/ Nguyên thể
58 Tương tiến tửu Thất ngôn cổ thể Hoàng Tạo và Tương

×