Cao Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 33 - 39
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
THI PHÁP HIỆN ĐẠI - MỘT DẤU ẤN CỦA PHÊ BÌNH SÁNG TẠO
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Cao Thị Hồng
*
Trường Đại học Nông lâm – Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Với Thi pháp hiện đại Đỗ Đức Hiểu muốn giới thiệu toàn diện thi pháp cả ba thể loại thơ, truyện và kịch,
với ông thi pháp là công cụ khám phá văn chương về phương diện thể loại. Đặc biệt với công trình này Đỗ
Đức Hiểu đã vận dụng thi pháp để đọc lại và phát hiện nhiều giá trị của văn học cũ tưởng như đã có tiếng
nói cuối cùng, đọc ra và khẳng định giá trị của nhiều hiện tượng văn học xuất hiện ở thời kỳ đổi mới. Bài
viết cho thấy sự đóng góp đáng kể của Đỗ Đức Hiểu vào việc khẳng định sức sống lâu bền và vai trò quan
trọng của một phương pháp nghiên cứu văn học mang nhiều tính ưu việt: phương pháp thi pháp học
Từ khóa: Lý luận, Phê bình, Thi pháp học, hiện đại, đổi mới.
Việc ứng dụng các lý thuyết văn chương, cách
tiếp cận văn chương của các trường phái nước
ngoài vào Việt Nam như là công cụ để đi vào
tìm hiểu tác phẩm, tác giả, xu hướng, trào lưu,...
hiện nay còn nhiều vấn đề vẫn đang được tiếp
tục nghiên cứu, giới thiệu để có thể đánh giá
thống nhất về giá trị của chúng cũng như luận
giải về tính cần thiết và tính khả dụng của chúng
đối với văn học Việt Nam. Tuy vậy, quan sát
thành tựu lý luận và sự vận động của phê bình
văn học Việt Nam qua hơn hai mươi năm đổi
mới (từ 1986 đến nay), có thể khẳng định con
đường đi từ đối lập đến hội nhập, với phương
châm tìm tòi vươn ra nhiều hướng, các phương
pháp nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam
bước đầu đã thể hiện rõ sự đổi mới sáng tạo. Lần
lượt xuất hiện trên văn đàn những công trình
nghiên cứu mang giá trị học thuật, được những
người quan tâm đến đời sống văn học nước nhà
hào hứng, nhiệt thành đón nhận. Bài viết này
hướng đến tìm hiểu một trong những thành tựu
ban đầu được ghi nhận trong ứng dụng lý thuyết
thi pháp học hiện đại để nghiên cứu văn học ở
Việt Nam- đó là công trình Thi pháp hiện đại
của Đỗ Đức Hiểu (Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội,
2000).
Thi pháp học là một hướng nghiên cứu văn học
có lịch sử xa xưa nhất, tác phẩm đầu tiên là
Nghệ thuật thi ca của Aristote ra đời từ thời cổ
đại ở Hy Lạp cách đây 2.400 năm. Đến thời
trung đại ở châu Âu và châu Á ra đời nhiều tác
phẩm bàn về quy tắc sáng tác văn học, những tác
phẩm này được gọi chung là Thi pháp học cổ
Tel: 0974088979, Email:
điển. Thi pháp học hiện đại được dấy lên từ cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sau hướng nghiên
cứu thi pháp học lịch sử do nhà nghiên cứu văn
học Nga Vessenovski đề xuất là đến sự phát
triển mạnh của trường phái hình thức Nga ở giữa
thế kỷ XX, rồi dịch chuyển sang Âu – Mỹ, các
trường phái thi pháp học hiện đại nối tiếp nhau
ra đời (Phê bình mới Anh- Mỹ, Hiện tượng luận,
Thi pháp học cấu trúc, ký hiệu,…). Thi pháp học
hiện đại là một lý thuyết văn học tuân theo
những nguyên tắc khác với thi pháp học cổ điển,
nội hàm của thi pháp theo nghĩa hiện đại đã
được bồi đắp lên theo thời gian từ gốc thi học.
Nó không coi trọng tính quy phạm mà đi sâu vào
khảo sát những đặc điểm nghệ thuật của tác
phẩm. Nghiên cứu văn học theo hướng thi pháp
học không quan tâm đến những yếu tố ngoài
văn bản (tiểu sử tác giả, bối cảnh văn hóa xã
hội,…) mà luôn lấy tác phẩm làm đối tượng
chính để quan sát, coi ngôn ngữ tác phẩm làm
điểm tựa khách quan, điều này cho thấy tinh
thần chủ đạo của phương pháp nghiên cứu thi
pháp học là ở chỗ nó hướng tới cách tiếp cận nội
quan, tức là nghiên cứu văn học từ bản thân văn
học, quan tâm đến tính văn học, tính nghệ thuật
của văn bản văn học, coi tác phẩm như một
chỉnh thể, như một hệ thống. Nếu các phương
pháp truyền thống trên thế giới coi nhẹ hoặc bỏ
qua chất liệu nghệ thuật của văn học là ngôn từ
thì thi pháp học hiện đại coi tác phẩm văn học là
văn bản ngôn từ. Chính vì vậy nó khắc phục
được một số sai lầm mà phương pháp truyền
thống mắc phải như quan niệm quá sơ lược, một
chiều về tác phẩm văn học, gán ghép gượng gạo
những ý nghĩa chính trị, xã hội, thiếu nhiều điểm
Cao Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 33 - 39
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nhìn, bỏ qua tiềm năng trực giác và tiềm thức
của chủ thể sáng tạo,... nó giúp người nghiên
cứu khai thác được những ý nghĩa đa dạng của
tác phẩm, tìm ra bản chất sáng tạo của tác phẩm,
tránh được cái nhìn áp đặt, phiến diện đối với
văn bản nghệ thuật.
Tuân thủ các nguyên tắc khảo sát văn bản nghệ
thuật của thi pháp học. Với Thi pháp hiện đại
Đỗ Đức Hiểu muốn giới thiệu toàn diện thi pháp
cả ba thể loại thơ, truyện và kịch, với ông thi
pháp là công cụ khám phá văn chương về
phương diện thể loại. Nhìn lại quá khứ, Đỗ Đức
Hiểu đã dành một sự trân trọng đặc biệt cho một
số cây bút và những hiện tượng độc đáo của văn
học dân tộc. Trong phê bình thơ, Đỗ Đức Hiểu
chú ý đến Thế giới thơ nôm Hồ Xuân Hương,
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thơ Mới- cuộc nổi
loạn của ngôn từ thơ, 14 tháng bảy 1789 và Thi
nhân Việt Nam, Chùa Hương của Nguyễn
Nhược Pháp, Tiếng thu, thơ nhạc của Lưu Trọng
Lư, Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Thế giới ngôn từ
thơ Đặng Đình Lưu. Tiếp đó ông tập trung vào
phê bình truyện với các bài viết Phố huyện của
Thạch Lam, Chất thơ trong vang bóng một thời,
Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ, Hai không
gian trong Sống mòn, Tiểu thuyết Nhất
Linh,Phiên chợ Giát, Thân phận tình yêu của
Bảo Ninh, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nước
Thiên đàng của Đào Duy Hiệp, Balzac đó đây.
Phê bình kịch với Bi kịch Vũ Như Tô,Phong
cách kịch Đoàn Phú Tứ. Nghiên cứu các tác
phẩm trải dài theo thời gian từ cổ đến kim, từ
Việt Nam ra nước ngoài, từ Đông sang Tây có lẽ
nhà nghiên cứu quan niệm thi pháp là một
phương pháp có thể áp dụng cho mọi nền văn
chương dân tộc ở mọi thời đại. Trong khuôn khổ
cho phép của bài viết, chúng tôi tập trung cắt
nghĩa nguyên tắc ứng dụng lý thuyết thi pháp
học để giải mã những tác phẩm văn học cụ thể
của Đỗ Đức Hiểu thông qua một số nghiên cứu
tiêu biểu của ông được tập hợp ở Thi pháp hiện
đại để từ đó làm rõ đặc sắc của Đỗ Đức Hiểu là
đã vận dụng thi pháp để đọc lại và phát hiện
nhiều giá trị của văn học cũ tưởng như đã có
tiếng nói cuối cùng, đọc ra và khẳng định giá trị
của nhiều hiện tượng văn học xuất hiện ở thời kỳ
đổi mới.
Đọc lại và phát hiện nhiều giá trị của văn học
trước đây
Thơ Hồ Xuân Hương nhìn từ bình diện hệ thống
ngôn ngữ
Quán triệt nguyên tắc: xuất phát từ cấu trúc biểu
đạt, trên bình diện của ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ
pháp, coi “ngôn ngữ văn học là “người anh
hùng” trong phê bình văn học”[1.69] để có thể
làm “nổ tung” văn bản, giải mã, tìm bí ẩn của tác
phẩm từ những “khoảng trắng”, Đỗ Đức Hiểu đã
đọc lại thơ của “bà chúa thơ Nôm” với nhiều
phát hiện thú vị.
Ông quan sát tỷ mỷ hệ thống động từ được dùng
trong thơ Hồ Xuân Hương với một mật độ dày
đặc để đưa ra nhận xét: “Những động từ hoạt
động trong thơ Hồ Xuân Hương giữ vị trí đầu
não, vị trí “chúa tể”, nó là cột sống, hòn đá tảng
của nhịp thơ, nó có khả năng gây biến động, gây
tai biến, bất chợt và hùng hổ”[1.71]. Đỗ Đức
Hiểu đã tìm ra được điều cốt tủy nhất làm nên
sức sống của thơ Hồ Xuân Hương đó là bởi thơ
bà “vừa tuân thủ thi pháp của thời đại mình, vừa
vi phạm các quy tắc ấy và sáng tạo theo phong
cách của riêng mình. Hồ Xuân Hương sáng tạo
một phong cách thơ luật Đường mới”[1.71].
Để chỉ rõ cái mới trong thơ Đường của Hồ Xuân
Hương nhà nghiên cứu đã quan tâm đến những
động từ miêu tả hành động bởi thơ Hồ Xuân
Hương là thơ hành động, “những cử chỉ mạnh
mẽ, ráo riết, say mê”, và theo ông chính nó đã
tạo nên một “thế giới đời thường thắm tươi, một
thiên nhiên tràn đầy sức sống, một triết lý tự
nhiên của cuộc đời trần thế, của trực giác, cảm
giác, bản năng, của say mê, một cái đẹp góc
cạnh và vui tươi của sự vận động hối hả, căng
thẳng với những nhịp thơ nhảy múa, những âm
thanh vang động, những điệu van xơ chóng mặt.
Thơ Hồ Xuân Hương là thơ chạm trổ, hòn đá
biết cười, hang động biết nói, nước lạch hát ca;
Thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu là ngày hội của
bản năng, một Festival của cơ thể người phụ nữ,
một đám cưới dân gian náo nhiệt, barôc,
grotesque. Thế giới thơ nôm Hồ Xuân Hương là
thế giới vô vàn scandalles, những cú huých,
những thách thức ”[1.71].
Bên cạnh động từ là những tính từ kèm trạng
ngữ. “Thơ Hồ Xuân Hương tràn trề màu sắc, và
hầu như không mấy khi những sắc màu ở độ
không, mà đỏ loét, xanh rì, tối om, đỏ lòm lòm,
chín mõm mòm…Ở đây, trạng ngữ giữ một
chức năng quan trọng, nó đẩy màu sắc đến mực
Cao Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 33 - 39
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cực độ, tối đa, nó tạo trong văn bản cái không
đồng chất, cái bất ngờ, nó gãy khúc. Nó có tác
dụng chuyển nghĩa, từ cái bình thường sang cái
ẩn dụ - cơ thể người phụ nữ”[1.73].
Ngoài ra nhịp điệu, âm điệu trong thơ Hồ Xuân
Hương cũng là một đối tượng để nhà nghiên cứu
tìm thấy: “Cái được biểu đạt này trở thành cái
biểu đạt và sinh ra cái được biểu đạt thứ hai
v.v.”[1.70], tạo nên những làn sóng âm vang đến
những thế kỷ sau.
Như vậy, có thể thấy cách khám phá tác phẩm
của Đỗ Đức Hiểu là bám sát nguyên tắc cắt
nghĩa tác phẩm từ những yếu tố hình thức mang
tính nội dung, tác phẩm là một ký hiệu, có mặt
biểu hiện và mặt được biểu hiện, hai mặt này
không thể tách rời. Ông đã vượt qua sự bình tán
du dương, bám sát văn bản để chỉ ra thao tác
nghệ thuật của riêng nhà thơ, tìm hiểu những
cách cấu trúc ngôn từ đầy tài năng để thấy cái
hay, cái đẹp và chiều sâu trong mỗi bài thơ độc
đáo của Hồ Xuân Hương- đó là một thứ thơ
“mang nhiều chất nổ của thời đại, thời đại của
kinh kỳ, phố Hiến, của trào lưu văn học nghệ
thuật đòi giải phóng con người, ngợi ca tài năng,
cái đẹp, nhất là của phụ nữ”[1.81]
Giải mã thông điệp nghệ thuật qua những điểm
nhấn nghệ thuật của cấu trúc Truyện Kiều
(Nguyễn Du)
Đỗ Đức Hiểu cho rằng: “Thúy Kiều là một nhân
vật động, tức là luôn luôn vượt không gian của
mình, đi tìm một không gian mơ ước(…).
Nghiên cứu Thúy Kiều như một nhân vật động
có nghĩa là nghiên cứu một nhân vật chủ động
về cuộc sống của mình, một cá tính tự sinh
thành, tự tạo thành, tức là đề cập đến vấn đề chủ
nghĩa nhân văn rất cụ thể của văn học Việt Nam
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, công cuộc
giải phóng cá tính xây dựng tính cách tự do,
nhân cách sáng tạo, và cũng có nghĩa là khảo sát
nhân vật trong môi trường của nó, và những mối
quan hệ của nó với các nhân vật khác”[1.83].
Chính vì vậy ông đặt nhân vật Thúy Kiều trong
những không gian nghệ thuật khác nhau trên
con đường đi tìm tình yêu tự do, tự giải phóng
mình: “Thứ nhất, con đường “gập gềnh” từ nhà
họ Vương; Thứ hai, con đường “cỏ lợt màu
sương” của Sở Khanh; Thứ ba, con đường “mịt
mù dặm cát đồi cây”, từ nhà Hoạn Thư”[1.83].
Từ ba điểm tựa về không gian nghệ thuật, nhà
nghiên cứu đi sâu giải mã nghệ thuật, ông quan
tâm đến nhịp thơ, âm điệu thơ, hình tượng thơ
tức là các cấu trúc thơ để tiếp cận tâm linh con
người. Đỗ Đức Hiểu có những phát hiện tinh tế
khi ông phân tích chỉ rõ những dụng công ngôn
từ nghệ thuật qua bút lực Nguyễn Du, từ đó ông
nhìn ra: “Mọi con đường Kiều đi đều dẫn đến
đau khổ và nhân vật cứ phải đi trên những con
đường cụt”[1.89]. Từ hình tượng không gian,
nhà nghiên cứu thấu hiểu thế giới Truyện Kiều
chứa chất khổ đau, chỉ có nước mắt, khóc than,
đánh đập, cướp của - Đó là một “không gian đầy
kinh hãi” [1.89].
Phát hiện những điểm nhấn nghệ thuật qua cấu
trúc chỉnh thể tác phẩm là một cách tiếp cận để
nhà nghiên cứu dò tìm những tiếng vọng khổ
đau và da diết của thân phận con người - đó
cũng là một đóng góp đáng kể của Đỗ Đức Hiểu
vào đổi mới cách đọc tác phẩm văn chương.
Cái nhìn mới về tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ
Trọng Phụng
Trước đây nhiều ý kiến cho rằng đây là một tác
phẩm mang tiếng cười đả kích xã hội Việt Nam
thời “Tây hóa”, đó là cái hoạt kê, cười hể hả, cái
hài hước, cái châm biếm, nhạo báng, cái hề,…
cái cười được quan tâm trên bình diện bề mặt.
Đỗ Đức Hiểu không dừng lại quan niệm như
vậy, ông hiểu thêm rằng: “Cái cười trong Số đỏ
không phải là những phương thức nghệ thuật để
chuyên chở tư tưởng của tác phẩm. Cái cười ở
đây là bản chất, là tinh túy của văn bản nghệ
thuật, nó đồng nhất với thế giới quan của tác giả,
nó là tất cả tác phẩm – cái cười đa diện, cái cười
vừa khẳng định vừa bác bỏ, cái cười lớn luôn
luôn để ngỏ, không khép kín, không khô
cứng(…), Số đỏ là cái cười nhại với một tầm cỡ
lớn”[1.180].
Việc nhà nghiên cứu quan niệm cái cười là bản
chất, là tinh túy, của tác phẩm đã đồng nghĩa với
việc ông không nghiên cứu tiếng cười chỉ trên bề
mặt mà tiếng cười ấy được soi chiếu từ tầng sâu.
Thông qua các “lớp sóng ngôn từ đô thị” xô đẩy,
đầy nghịch lý, xung đột Đỗ Đức Hiểu quan tâm
đến Số đỏ như là “một hiện thực ngôn ngữ
học…nó là một hệ thống ký hiệu vạn năng, chứa
đựng nhiều lực tiềm ẩn: cái đẹp, cảm xúc, suy
tư, xã hội học, mỹ học,…”[1.180]. Chính hệ
thống ngôn từ sinh động, đầy sức sống vừa dân
gian vừa đài các, vừa cổ điển vừa hiện đại, vừa
Cao Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 33 - 39
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thô tục, vừa cao đạo đã tạo nên nội dung, ý
nghĩa đa dạng, sâu sắc của cái cười, tự nó lột
mặt nạ của một thời đại lịch sử dối lừa, những
người lừa dối có ý thức và không có ý thức,
những trào lưu văn hóa lừa dối, đồng thời nó
cũng ẩn giấu tư tưởng nhân đạo đầy bao dung
của tác giả đối với “cái đô thị khốn khổ trong
công cuộc đô thị hóa khốn khổ ở một thuộc
địa”[1.181]. Nhà nghiên cứu đã rất có lý khi
đưa ra sự khẳng định cái cười trong Số đỏ vì thế
không đơn thuần chỉ là thứ trang sức hay hình
thức để chế giễu cái này hay hạ bệ cái khác, cái
cười làm nên chính tác phẩm, là “chất tinh túy”,
là nội dung căn cốt của tác phẩm. Tác phẩm là
một chuỗi cái cười liên hoàn, không dứt: “Tất cả
Số đỏ là cái cười và tất cả cái cười là Số
đỏ”[1.193].
Ở một phương diện khác trong bài viết, khi xem
xét hệ thống nhân vật của tác phẩm nhà nghiên
cứu chú ý khai thác yếu tố không gian, ông cho
rằng không gian là nơi thể hiện rõ mối quan hệ
của nhân vật với môi trường. Nhân vật, không
gian, thời gian là một khối thống nhất, không thể
chia cắt. Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là tìm
những mối liên hệ giữa những cấu thành ấy.
Theo Đỗ Đức Hiểu, nhân vật chính của tiểu
thuyết (Xuân Tóc Đỏ) được đặt trong hai không
gian: Không gian I- đó là không gian vỉa hè, ở
đó tồn tại những cư dân dưới đáy đô thành Hà
Nội; Không gian II- đó là không gian của thế
giới thượng lưu rởm và những me Tây, những trí
thức dở hơi đầy tham vọng, đó là những kẻ bịp
bợm bị bịp bợm lại, những con rối, những tên hề
vừa ma mãnh vừa ngu dại,…Xoay quanh trục
không gian nghệ thuật, xem xét các quan hệ hết
sức phức tạp, rối ren của nhân vật chính với các
nhân vật khác, sự phiêu lưu, mạo hiểm, hóa thân
như có phép lạ và những tính cách biến đổi của
nhân vật, nhà nghiên cứu đã cắt nghĩa về ý nghĩa
của nhân vật, ông cho rằng: “Chức năng của
Xuân Tóc đỏ là thực hiện tính ý hướng của
chuyện (…). Nhân vật Xuân Tóc đỏ đa sắc, đa
diện, Số đỏ là một tiểu thuyết đa thanh, đa
nghĩa”[1.186].
Như vậy trên tinh thần xem xét những hình thức
là những nội dung và những nội dung là những
hình thức, nhiều phát hiện mới mẻ của Đỗ Đức
Hiểu đã góp phần rất đáng kể trong việc khẳng
định giá trị hết sức đặc sắc của tiểu thuyết Số đỏ
- một liên văn bản sáng tạo bởi tài năng Vũ
Trọng Phụng, một hệ thống ngôn từ độc đáo
mang tính xã hội và tính lịch sử cụ thể.
Vận dụng thi pháp để đọc lại và phát hiện nhiều
giá trị của văn học cũ tưởng như đã có tiếng nói
cuối cùng, Đỗ Đức Hiểu đã góp phần làm thay
đổi tư duy cách đọc và tiếp cận tác phẩm văn
học. Từ những phát hiện của Đỗ Đức Hiểu có
thể thấy mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống
ký hiệu vạn năng, tự nó luôn chứa đựng nhiều
lực tiềm ẩn đòi hỏi sự nỗ lực và giải mã tích cực
của đọc.
Đọc ra và khẳng định giá trị của nhiều hiện
tượng văn học xuất hiện ở thời kỳ đổi mới
Đọc ra và khẳng định giá trị của nhiều hiện
tượng văn học mới là đóng góp quan trọng của
công trình này, nó có tính chất mở đường và
bước đầu tháo gỡ tình trạng lúng túng, bế tắc của
nghiên cứu, phê bình văn học nước nhà trong
giai đoạn giao thời còn tồn tại nhiều giới hạn.
Đỗ Đức Hiểu đã thành công đặc biệt ở nghiên
cứu phê bình một số tác giả, tác phẩm xuất hiện
ngay thời kỳ đầu đổi mới như Phiên chợ Giát
của Nguyễn Minh Châu, Thân phận tình yêu
của Bảo Ninh, các tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài. Đó là những hiện
tượng văn học mới lạ, có nhiều phá cách về
nghệ thuật và phương thức thể hiện.
Phác họa nét “nhòe” nghệ thuật trong “Phiên
chợ Giát” của Nguyễn Minh Châu- Một sáng
tạo trên nền sáng tạo
M.Bakhtin (nhà lý luận thiên tài người Nga) đã
từng chỉ rõ trong nghệ thuật ngôn từ việc tạo ra
văn bản đa thanh là dấu hiệu của tư duy nghệ
thuật hiện đại. Lý luận hiện đại cũng đã thừa
nhận sự xuất hiện nhiều giọng nói và sự tương
tác giữa chúng sẽ tạo ra tính đa thanh của tác
phẩm. Từ góc nhìn thi pháp học, thâm nhập vào
lớp ngôn ngữ bề sâu, khai thác ngôn ngữ biểu
tượng, nhà nghiên cứu đọc ra ý nghĩa thông điệp
của Phiên chợ Giát:Nó là cái nhìn nghệ thuật
của nhà văn về phận người, về cuộc đời, về thế
sự - tất cả được thể hiện trong một thế giới vừa
thực, vừa hư, thế giới của sự hóa thân, biến dạng
người/ vật. Đỗ Đức Hiểu đã phát hiện ra tấn bi
kịch của thời đại được tái hiện sinh động thông
qua những nét nhòe nghệ thuật- một sáng tạo
đặc sắc của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong
tác phẩm này. Nếu coi văn bản phê bình cũng là
Cao Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 33 - 39
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
văn bản mang đậm dấu ấn cá tính sáng tạo, tồn
tại song song với sáng tác thì đây chính là nét
sáng tạo của nhà nghiên cứu. Trong khi phê bình
văn học ở Việt Nam luôn chú trọng cắt nghĩa
rạch ròi trước/sau, tốt/xấu, đen/trắng, phải/trái,
đúng/sai của mỗi tác phẩm…thì Đỗ Đức Hiểu đã
rất tinh tế khi cho rằng: “Nghệ thuật xây dựng
truyện Phiên chợ Giát, chủ yếu, là cái pha màu,
cái pha trộn của các tâm trạng đối nghịch, là sự
thâm nhập lẫn nhau của các chi tiết, là cái nét
nhòe, cái mơ hồ, cái không xác định của các cấu
trúc hình tượng”[1.250].
Quan sát trên sự hiện diện của văn bản, nhà
nghiên cứu đã chỉ ra những “nét nhòe” được thể
hiện qua phương diện hình thức mang tính nội
dung quan trọng bậc nhất của tác phẩm đó là
nghệ thuật kể chuyện. Bám sát bốn mạch truyện
cụ thể (ông Khúng thức giấc; ông dắt con bò đi
trong tăm tối mịt mù; ông và con bò tiếp tục đi
dưới ánh sao; và cuối cùng trời sáng, ông đến
phố chợ), Đỗ Đức Hiểu đã thâm nhập vào “con
người bên trong con người” của nhân vật, ông
đọc rõ: “Tiếng người kể chuyện nhòe với độc
thoại của nhân vật; độc thoại của nhân vật nhòe
với đối thoại với con bò, với người đọc, với lịch
sử, với số phận, với người vô danh hay cái tuyệt
đối, trở thành một dàn nhạc nhiều bè, lắm khi
lộn xộn, càng thêm nhức nhối, mịt mờ như chính
số phận ông Khúng của chúng ta”[1.251] Nhận
ra độ nhòe giữa các đối tượng có nghĩa là nhà
nghiên cứu đã cảm nhận rất rõ tính mơ hồ của
văn bản nghệ thuật, tính mơ hồ đa nghĩa là một
đặc trưng cơ bản tư duy nghệ thuật, chính nó đã
làm nên số phận của văn bản văn học, là sự mê
hoặc, hấp dẫn của nghệ thuật. Trong văn bản
nghệ thuật, hình ảnh tượng trưng là mơ hồ nhất,
bởi ở đó cái cá biệt biểu thị một cái chung lớn lao
hơn. Không thể phân định được ông Khúng hóa
thân thành bò hay bò đã hóa thân thành ông khi
người nghệ sĩ chủ động, có ý thức làm nhòe sự
vật, xóa mờ đường nét, thuộc tính để đạt tới sự tái
hiện cuộc sống trong tổng thể bao la, trong chiều
sâu thăm thẳm, biến đổi, vận động không ngừng,
đầy bất ngờ, bí ẩn. Sự mơ hồ này tạo nên tính đa
thanh của tác phẩm, gợi cho người tiếp nhận
những liên tưởng phong phú và sâu sắc về kiếp
người nhọc nhằn, tủi nhục, mất mát loanh quanh
trong một cái vòng tròn kín: người/vật- vật/người.
Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc của Nguyễn Minh
Châu ở thiên truyện ngắn này đã làm nên một
dấu ấn của văn học thời kỳ đầu đổi mới, nó được
Đỗ Đức Hiểu phát hiện và khẳng định nó có giá
trị như: “Một di chúc nghệ thuật, hòa quyện máu
và nước mắt, nhắn nhủ người đọc hãy nhận thức
thế giới và nhận thức bản thân mình để thoát
kiếp Bò Khoang nhẫn nhục và tiếp cận con
người tự do”[1.256].
Tóm lại, từ phân tích hình thức, Đỗ Đức Hiểu đã
vượt qua phương pháp đọc tuyến tính truyền
thống và áp dụng cách đọc phi tuyến tính, chính
cách nhìn mới mẻ này đã giúp nhà nghiên cứu
đọc ra thông điệp của văn bản từ những ký hiệu
riêng của Nguyễn Minh Châu trong thời kỳ cả
người sáng tác và người phê bình đều bứt thoát
nhọc nhằn để tìm về một chân trời mới trong
sáng tạo nghệ thuật.
Lý giải những cấu trúc biểu đạt phức hợp trong
“Thân phận tình yêu” của Bảo Ninh- Sự cố
gắng vượt thoát khỏi hạn chế của lối phê bình xã
hội học
Thân phận tình yêu của Bảo Ninh vốn bị nhiều
người nhìn nhận, đánh giá theo lối áp đặt chủ
quan, phê phán là “phủ nhận quá khứ của mình”,
Đỗ Đức Hiểu đã đọc văn bản này dưới ánh sáng
của phương pháp phân tích cấu trúc và khẳng
định nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc của thiên
tiểu thuyết này. Coi tác phẩm là một chỉnh thể
toàn vẹn, nhìn từ cấp độ thi pháp tác phẩm ông
đã phân tích từ nhan đề đến việc mổ xẻ nhịp
mạnh của tiểu thuyết, bám sát mạch ngôn ngữ
tiểu thuyết để nhận ra những nguyên tắc cảm
nhận đời sống một cách thẩm mỹ của người
nghệ sĩ.
Có lẽ Đỗ Đức Hiểu là người đầu tiên đã nhìn ra
kết cấu lạ được sáng tạo bởi ý thức nghệ thuật
của người cầm bút: Bảo Ninh đã lồng “tiểu
thuyết trong tiểu thuyết” - “Tình yêu, chiến
tranh, viết tiểu thuyết, ba nhịp đó xen kẽ, đan
chéo, gây chóng mặt, bàng hoàng, nhức
nhối(…), tiểu thuyết của Bảo Ninh là một giấc
mơ dài, một huyền thoại của thời đại”[1.267].
Theo ông, nỗi buồn tình yêu, nỗi buồn chiến
tranh hòa tan với nhau thành nỗi buồn sáng tạo-
những nhịp mạnh xen kẽ kết thành một tổng thể
mang tính triết lý.
Trong quá trình giải mã văn bản, Đỗ Đức Hiểu
đặc biệt quan tâm đến thế giới được biểu đạt qua