Quan hệ Việt Nam - APEC
Tuy là thành viên mới, một trong 3 thành viên gia nhập sau cùng trong 21 nền kinh tế
thành viên, nhưng Việt Nam đã tích cực và chủ động đề xuất nhiều sáng kiến tại các
Hội nghị và Diễn đàn khác nhau của APEC. Bước đầu Việt Nam đã tạo được uy tín
và hình ảnh tốt đẹp với các thành viên về một đất nước năng động, cởi mở và hội
nhập qua gần 20 sáng kiến do Việt Nam đưa ra tại các lĩnh vực hợp tác khác nhau
của APEC.
1. Tham gia của Việt Nam trong APEC
- Nhận thấy tầm quan trọng của APEC đối với sự phát triển kinh tế của các nước trong
khu vực nói chung và của Việt Nam nói riêng, phù hợp với đường lối hội nhập kinh
tế quốc tế của Đảng và nhà nước ta, ngày 15/6/1996, Chính phủ Việt Nam đã nộp
đơn xin gia nhập APEC. Tiếp đó, theo yêu cầu của APEC, tháng 8/1996 ta đã gửi
cho APEC "Bản ghi nhớ hệ thống chính sách kinh tế thương mại của Việt Nam"
(Aide Memoire). Trong thời gian chờ quyết định chính thức kết nạp Việt Nam, ta
cũng đã xin tham gia 3 Nhóm Công tác để làm quen và nắm bắt tình hình hoạt
động của tổ chức. Ngày 25/4/1997, Việt Nam gửi đơn xin tham gia với tư cách khách
mời vào Nhóm Công tác về Xúc tiến Thương mại; Nhóm Công tác về Khoa học và
Công nghệ Công nghiệp; và Nhóm Chuyên gia về Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp
của APEC. Đây là những Nhóm mà ta có khả năng đóng góp, đồng thời có thể đem
lại những lợi ích cụ thể cho ta.
- Ngày 14/11/1998, tại Hội nghị Bộ Trưởng Ngoại giao - Kinh tế, APEC đã tuyên bố kết
nạp Việt Nam, Nga và Pê-ru. Việc trở thành thành viên chính thức của APEC là
một bước đi sâu hơn vào con đường hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, góp phần
mở rộng kinh tế đối ngoại, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện điện hoá
đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong APEC, Việt Nam có nhiều đối tác
quan trọng như các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Úc và Niu Di-lân.
Một số thành viên APEC đang dần trở thành đối tác chiến lược trong kế hoạch phát
triển quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư của Việt Nam. Thống kê gần đây cho
thấy các nền kinh tế APEC chiếm khoảng 67% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), khoảng 75% vốn ODA và 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
- Quán triệt chủ trương “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”, ngay sau khi gia nhập APEC, Việt
Nam đã tích cực tham gia vào nhiều chương trình, dự án hợp tác của APEC, tranh
thủ được sự hỗ trợ và giúp đỡ to lớn về vốn, khoa học kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân
lực, phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tuy là thành viên mới nhưng Việt Nam cũng đã tích cực và chủ động đề xuất nhiều
sáng kiến tại các Hội nghị và Diễn đàn khác nhau của APEC. Kết quả tham gia
APEC trong 10 năm qua là rất đáng khích lệ, chúng ta đã bước đầu tạo được uy tín
và hình ảnh tốt đẹp với các thành viên về một Việt Nam năng động, cởi mở và hội
nhập qua gần 20 sáng kiến đưa ra tại các lĩnh vực khác nhau của APEC.
2. Việt Nam và năm APEC 2006
Một sự kiện và đồng thời là đóng góp hết sức quan trọng của Việt Nam đối với tiến
trình hợp tác APEC là việc Việt Nam chủ động đăng cai tổ chức năm APEC 2006.
Điều này thể hiện tính chủ động và tinh thần trách nhiệm của Việt Nam trong việc
thúc đẩy tiến trình hợp tác APEC.
Kết quả:
- Dưới sự chỉ đạo của UBQG về APEC 2006, sự phối hợp chặt chẽ của 5 Tiểu ban : Nội
dung, Lễ tân, Vật chất - Hậu cần, An ninh, Tuyên truyền – Văn Hóa, các tỉnh, thành
phố đăng cai các sự kiện (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng
Nam ) và sự ủng hộ của nhân dân trong cả nước, chúng ta đã tổ chức thành công
hơn 100 sự kiện của năm , trong đó đáng chú ý là:
+ Tuần lễ Cấp cao (12-19/11/2006 tại Hà Nội) gồm Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế
APEC lần thứ 14 (18-19/11), Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao – Kinh tế lần thứ
18 (15-16/11) và Hội nghị Thượng đỉnh các Tổng Giám đốc Doanh nghiệp (CEO
Summit, 17-19), Phiên họp thứ tư của ABAC; Diễn đàn đầu tư APEC, Diễn đàn xúc
tiến thương mại và đầu tư với Việt Nam
+ 05 Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành (HNBT Thương mại, HNBT Tài chính, HNBT
Doanh nghiệp vừa và nhỏ, HNBT Du lịch, HNBT về cúm gia cầm và dịch bệnh
truyền nhiễm).
+ 04 Hội nghị các quan chức cao cấp (SOM I, II, III và CSOM)
Riêng trong Tuần lễ Cấp cao đã có hơn 10.000 đại biểu tham dự bao gồm các Nhà
Lãnh đạo của 21 nền kinh tế thành viên, quan chức, doanh nghiệp, báo chí
- Dưới chủ đề “Hướng tới một Cộng đồng Năng động vì Phát triển Bền vững và Thịnh
vượng”; Năm APEC 2006 đạt kết quả thực chất về nội dung, tạo dấu ấn của Việt
Nam trong tiến trình APEC:
(i) Thông qua Tuyên bố Hà Nội của các Nhà Lãnh đạo, Tuyên bố của Hội nghị liên Bộ
trưởng Ngoại giao-kinh tế APEC 18, trong đó khẳng định các kết quả hợp tác
phong phú của năm APEC đồng thời đề ra phương hướng hợp tác APEC trên tất
cả các lĩnh vực, cho tất cả các diễn đàn của APEC cho năm 2007 và các năm tiếp
theo.
(ii) Phê chuẩn Kế hoạch hành động Hà Nội nhằm thực hiện Lộ trình Busan, hướng đến
mục tiêu Bogor là thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư năm 2010 đối với các
nền kinh tế phát triển và năm 2020 đối với các nền kinh tế đang phát triển. Đây là
sáng kiến quan trọng của Việt Nam, để lại dấu ấn của Việt Nam trong tiến trình
hợp tác của APEC và cơ sở mang tính định hướng cho các hoạt động hợp tác kinh
tế thương mại của APEC trong nhiều năm tới.
(iii) Ra Tuyên bố riêng của Các Nhà Lãnh đạo APEC về Vòng đàm phán Đô-ha, khẳng
định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, đặc biệt nhấn mạnh mỗi thành viên APEC sẽ
chủ động đưa ra các cam kết cao hơn nhằm thúc đẩy việc sớm khởi động lại Vòng
đàm phán.
(iv) Thông qua Báo cáo cả gói các biện pháp cải cách APEC nhằm làm cho APEC ngày
càng có sức sống mạnh mẽ, năng động, hiệu quả hơn.
(v) Đạt được nhiều kết cụ thể nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế-kỹ
thuật như: thông qua 6 biện pháp mẫu của các Hiệp định thương mại tự do song
phương và khu vực chất lượng cao; hai hướng dẫn mẫu về bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ; đánh giá Kế hoạch hành động thuận lợi hóa thương mại về giảm 5% chi phí
giao dịch thương mại (TFAP) giai đoạn 1 (2001-2006) và khung Kế hoạch TFAP giai
đoạn 2 nhằm giảm tiếp 5% giao dịch thương mại (2006-2010).
(vi) Khẳng định quyết tâm thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực an ninh con người, chống
khủng bố, an ninh năng lượng, cùng nhau ứng phó với những thách thức chung
như thiên tai, dịch bệch, HIV/AIDS, nạn tham nhũng…
(vii) Thông qua kết quả năm Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành được tổ chức trong
năm 2006 với nhiều sáng kiến của Việt Nam như Tuyên bố Hà Nội về nâng cao năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại và đầu tư;
Tuyên bố Hội An về thúc đẩy du lịch; Kế hoạch hành động phòng chống cúm gia
cầm và đại dịch cúm
- Trong Tuần lễ Cấp cao, chúng ta đã đón năm chuyến thăm song phương chính thức
của lãnh đạo của Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Nhật Bản, Chi-lê. Nhiều
thoả thuận hợp tác quan trọng về kinh tế, chính trị đã đạt được trong các chuyến
thăm song phương.
- Tại Hội nghị Thượng đỉnh các Tổng Giám đốc doanh nghiệp APEC, đã có hơn 1500
đại biểu tham dự (125 đến từ các tập đoàn được xếp hạng Top 500 trên thế giới) để
bàn về cơ hội và thách thức, cũng như các định hướng để thúc đẩy hoạt động kinh
doanh tại khu vực. Đặc biệt, Diễn đàn thúc đẩy thương mại và đầu tư với Việt Nam
với chủ đề “Những cơ hội kinh doanh khi Việt Nam trở thành thành viên WTO”
được tổ chức bên lề Hội nghị đã thu hút hơn 1000 đại biểu tham dự. Trong dịp này,
06 hợp đồng trị giá 2 tỷ đô-la giữa các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đã
được ký kết.
Ý nghĩa của việc tổ chức thành công năm APEC 2006:
Nhìn chung lại, Năm APEC nói chung và Tuần lễ Cấp cao APEC nói riêng đã thành
công rực rỡ trên cả 03 mặt; nội dung, tổ chức và lễ tân, và trên 02 phương diện đa
phương và song phương. Tổ chức thành công Năm APEC 2006 chúng ta đạt các
mục tiêu sau:
- Khẳng định đường lối đối ngoại tích cực hội nhập quốc tế, củng cố hòa bình, tăng
cường hợp tác ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương;
- Tạo dấu ấn Việt Nam cả về nội dung và cách tổ chức; nâng cao hình ảnh sâu đậm về
một nước Việt Nam năng động, cởi mở, mến khách và an ninh;
- Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác song phương với các nền kinh tế thành viên,
đặc biệt là với các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản; góp phần
nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các trung tâm chính trị - kinh tế
lớn trên thế giới;
- Thông qua hợp tác APEC, mở rộng thị trường, thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư,
du lịch, khoa học công nghệ; tranh thủ sự hỗ trợ của các thành viên APEC trên
những vấn đề ta quan tâm (gia nhập W
O, ngăn chặn dịch cúm gia cầm, thu hẹp khoảng cách phát triển, kể cả về công nghệ
thông tin);
- Thông qua APEC, đưa ra một thông điệp mạnh mẽ đối với cộng đồng doanh nghiệp
về chính sách thông thoáng của ta về thương mại, đầu tư phù hợp với chuẩn mực
quốc tế, góp phần đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp
APEC, tăng thêm lòng tin và khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp APEC kinh
doanh, đầu tư vào Việt Nam.
3. Sự tham gia của Việt Nam sau năm APEC 2006
Sau thành công của năm APEC 2006, chúng ta tiếp tục phát huy những kết đã đạt
được, tiếp tục đóng góp tích cực vào các hoạt động chung của APEC, qua đó khẳng
định vai trò của Việt Nam trong APEC, cụ thể là:
- Thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác thường niên của APEC như cập nhật
Chương trình Hành động Quốc gia và Báo cáo tiến độ thực hiện Chương trình
Hành động tập thể về Thuận lợi hóa Thương mại; cập nhật Kế hoạch Hành động
Chống khủng bố; cung cấp các thông tin về chính sách trong một số lĩnh vực khác
theo yêu cầu của APEC.
- Tại các diễn đàn, ta tham gia tích cực, có tiếng nói độc lập và thuyết phục, góp phần
giải tỏa mâu thuẫn giữa các nền kinh tế trên nhiều lĩnh vực nhạy cảm. Qua đó, ta
dành được thiện cảm và củng cố quan hệ với các nền kinh tế hàng đầu khu vực.
Ngoài ra, ta cũng chủ động tham gia nhiều sáng kiến hợp tác mới trong APEC,
ngay cả trong những lĩnh vực nhạy cảm như việc ta là một trong 3 thành viên tham
gia thử nghiệm Quy tắc Ứng xử Doanh nghiệp với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong khuôn khổ hợp tác chống tham nhũng, tham gia thử nghiệm Kế hoạch phục
hồi thương mại trong trường hợp khủng bố tấn công. Điều này đã góp phần nâng
cao hình ảnh của Việt Nam trong APEC.
- Trong 2 năm 2007 và 2008, ta đã chủ động đề xuất nhiều sáng kiến hợp tác mới, chủ
yếu dưới hình thức hỗ trợ xây dựng năng lực, trong hàng lọat lĩnh vực như thuận
lợi hóa thương mại, sở hữu trí tuệ, chống tham nhũng, phòng chống dịch bệnh và
đối phó với tình trạng khẩn cấp. Những hình thức hợp tác này đã thu hút hàng
trăm nghìn đô la tài trợ từ các dự án Hỗ trợ năng lực cảu APEC. Các dự án tuy
không nhiều nhưng góp phần nâng cao trình độ cán bộ và ý thức của các doanh
nghiệp về hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế./.
Mục tiêu hợp tác thương mại và đầu tư của APEC được nêu rõ trong Tuyên bố Bogo là
"Thương mại và đầu tư tự do và thông thoáng trong khu vực châu Á-Thái Bình
Dương vào năm 2010 đối với các thành viên APEC phát triển và năm 2020 đối với
các thành viên đang phát triển". Nhằm đạt mục tiêu này, Hội nghị cấp cao APEC
lần thứ IV tại Manila (Philippines) tháng 11-1996 đã thông qua một số văn kiện
quan trọng, trong đó có Kế hoạch hành động Manila, bao gồm Kế hoạch hành động
tập thể (CAP) và Kế hoạch hành động quốc gia (IAP).
CAP do 21 thành viên phối hợp thực hiện, thông qua các nhóm công tác về từng lĩnh
vực cụ thể như: thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ, đầu tư, tiêu chuẩn
và hợp chuẩn, thủ tục hải quan, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, mua sắm
chính phủ Các thành viên phối hợp, chia sẻ kinh nghiệm để thực hiện các biện
pháp thuận lợi hóa trong nội bộ như đơn giản hóa các thủ tục hải quan, tạo thuận
lợi cho lưu thông hàng hóa. Năm 2001, Hội nghị cấp cao APEC ở Thượng Hải
(Trung Quốc) thông qua Thỏa thuận Thượng Hải, trong đó đặt ra mục tiêu giảm
5% chi phí giao dịch từ 2001 đến 2006. Năm 2002, APEC xây dựng Chương trình
hành động thuận lợi hóa thương mại, tập trung vào bốn lĩnh vực cơ bản là thủ tục
hải quan, tiêu chuẩn hợp chuẩn, đi lại của doanh nhân và thương mại điện tử.
Trong mỗi lĩnh vực, APEC đề ra một loạt việc cần làm nhằm cải tiến quy trình,
nâng cao hiệu quả công việc, tinh giản tối đa các thủ tục cho lưu thông hàng hóa và
đi lại của các doanh nghiệp trong khu vực. Trong lĩnh vực tiêu chuẩn và hợp chuẩn,
APEC thúc đẩy hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm tăng cường sự
tham gia rộng rãi vào các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau, bảo đảm tính minh bạch
về tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp của các nền kinh tế thành viên APEC. Trong
lĩnh vực hài hòa các tiêu chuẩn, APEC ưu tiên bốn lĩnh vực là dán nhãn thực phẩm,
điện tử, cao-su và cơ khí, thời gian thực hiện vào năm 2005 đối với các thành viên
phát triển và năm 2010 đối với các thành viên đang phát triển. Trong lĩnh vực thừa
nhận lẫn nhau, APEC đã xây dựng một số thỏa thuận như điện, điện tử, thực phẩm,
an toàn đồ chơi, thu hồi và hướng dẫn thu hồi thực phẩm. Giao dịch hàng điện và
điện tử trong APEC chiếm khoảng 250 tỷ USD/năm. Theo thỏa thuận thừa nhận
lẫn nhau đã tiết kiệm khoảng 5% chi phí , tương đương 12,5 tỷ đồng.
Nếu CAP chủ yếu nhằm thuận lợi hóa thương mại và đầu tư thì IAP đựơc coi là một
trong ba trụ cột chính và công cụ để thực hiện các biện pháp tự do hóa thương mại.
Theo IAP, các thành viên cam kết tự nguyện thực hiện trên nguyên tắc cuốn chiếu
trong 15 lĩnh vực: thuế quan; các biện pháp phi thuế quan; dịch vụ; đầu tư; tiêu
chuẩn và hợp chuẩn; thủ tục hải quan; sở hữu trí tuệ; chính sách cạnh tranh; mua
sắm của chính phủ; rà soát cơ chế chính sách; các nghĩa vụ của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO); giải quyết tranh chấp; đi lại của doanh nhân; thu thập và xử
lý thông tin; thương mại điện tử. Các thành viên phải nêu rõ tình hình hiện tại, các
luật lệ, chính sách cơ bản để điều tiết các hoạt động trong từng lĩnh vực.Từ năm
2001, APEC đã yêu cầu các thành viên xây dựng IAP theo mẫu mới và xây dựng
một trang web về IAP
Cùng với IAP, APEC còn đưa ra sáng kiến tự do hóa sớm theo ngành (EVSL) nhằm
thúc đẩy tiến trình tự do hóa trên nguyên tắc tự nguyện, linh hoạt, bao gồm 15
ngành hàng: cá và các sản phẩm từ cá; lâm sản; thiết bị và dụng cụ y tế; thoả thuận
công nhận lẫn nhau về viễn thông; năng lượng; đồ chơi; đá quý và đồ trang sức;
hoá chất; hạt có dầu và các sản phẩm từ hạt có dầu; thực phẩm; cao-su tự nhiên và
cao-su tổng hợp; phân bón; ô-tô; máy bay dân dụng.Các thành viên APEC tham
gia EVSL thực hiện giảm thuế và các biện pháp phi thuế quan cho các ngành hàng
này sớm hơn mốc thời gian 2010/2020 theo lộ trình giảm thuế cho chín ngành hàng
đầu là giảm mức thuế còn 0-5% vào năm 2002- 2005.Cho đến nay, APEC đã xây
dựng các đối thoại thuận lợi hóa theo ngành trong các lĩnh vực ô-tô, hóa chất.
Mục tiêu của APEC được xác định không phải là để xây dựng một khối thương mại,
một liên minh thuế quan hay một khu vực mậu dịch tự do, mà là tạo dựng một diễn
đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu
tưu giữa các nền kinh tế thành viên. Trong hơn 15 năm hình thành và phát triển,
các hoạt động của APEC luôn hướng tới mục tiêu tự do hóa thương mại, tạo thuận
lợi cho thương mại và đầu tư trong khu vực. Để đạt được mục tiêu trên, nhiều nền
kinh tế thành viên APEC đã tiến hành các chương trình cải cách cơ cấu, mang lại
sự phát triển về kinh tế, xã hội cho nhiều nền kinh tế, song trong xu thế toàn cầu
hiện nay, nhiều vấn đề không còn là của riêng mỗi quốc gia.
Các hội nghị cấp cao APEC đã đưa ra nhiều mục tiêu phát triển chung cho các
nước thành viên. Năm 1991, trong Tuyên bố Seoul, APEC đề ra 4 mục tiêu phát
triển:
- Duy trì tăng trưởng và phát triển, vì lợi ích chung của nhân dân các nền kinh tế
trong khu vực, góp phần vào tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế thế giới;
- Phát huy những tác động tích cực của sự tuỳ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng
tăng của kinh tế khu vực và thế giới, bằng cách đẩy mạnh giao lưu hàng hoá, dịch
vụ, vốn và công nghệ;
- Xây dựng và tăng cường hệ thống thương mại đa phương, vì lợi ích của khu vực
châu Á-Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác;
- Giảm dần những rào cản đối với thương mại hàng hoá và dịch vụ giữa các nền
kinh tế thành viên phù hợp với các nguyên tắc cả WTO, trên cơ sở không có hại đối
với các nền kinh tế khác;
Tới Tuyên bố Bogor năm 1994, mục tiêu của APEC lại được xác định theo 3 vấn đề
chính cần được tập trung giải quyết trong khuôn khổ APEC là: tự do hoá thương
mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật với
các Chương trình hành động tập thể (CAP) và các Chương trình Hành động Quốc
gia (IAP) của từng nước thành viên.
Thúc đẩy hoạt động thương mại trong APEC
Thuận lợi hoá thương mại: Mục tiêu quan trọng của APEC
Một trong những mục đích chính của APEC chính là việc tạo thuận lợi tối đa cho
sự phát triển thương mại của 21 nền kinh tế thành viên. Thuận lợi hoá thương mại
là làm cho thị trường hoạt động hiệu quả hơn, giảm chi phí đối với các doanh
nghiệp hoạt động trên thị trường, đặc biệt là giữa các thị trường khác nhau với sự
tham gia của cả các nhà hoạch định chính sách và quan chức chính phủ. Trong bối
cảnh thương mại thế giới ngày càng gia tăng, thuế quan giảm dần và công nghệ
phát triển, thuận lợi hoá thương mại càng trở nên quan trọng đồng thời lợi ích tiềm
tàng của nó cũng không ngừng tăng theo.
Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới năm 2002 về “Tác động kinh tế của các biện
pháp thuận lợi hoá thương mại” cho biết: Nếu thực hiện tốt các công tác hậu cần
cảng biển, thống nhất tiêu chuẩn, chuyên nghiệp hoá và minh bạch hoá thủ tục
hành chính cùng lúc với thực hiện kinh doanh điện tử, APEC có thể tạo ra thêm
10% kim ngạch xuất khẩu nội khối (tương đương 280 tỷ USD).
ý thức được lợi ích tiềm tàng của thuận lợi hóa thương mại, năm 2001 tại Thượng
Hải, các nhà lãnh đạo APEC đã đặt mục tiêu giảm 5% chi phí giao dịch vào năm
2006 nhằm tiết kiệm khoảng 154 tỷ USD để đóng góp vào GDP của các nền kinh tế
thành viên APEC đã nỗ lực giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác, nâng
cao hiệu quả nền kinh tế thành viên và đẩy mạnh xuất khẩu. Sự tăng trưởng
thương mại và đầu tư thương mại đã tăng 3 lần kể từ khi thành lập APEC (năm
1989). Thuế quan trung bình trong khu vực đã giảm từ 16,9% năm 1989 xuống còn
5,5% năm 2004. Thực tế của các nền kinh tế thành viên tăng 46% trong giai đoạn
1989-2003 (cao hơn nhiều mức 36% của các nền kinh tế ngoài APEC).
Mười nguyên tắc và thuận lợi cơ bản cho doanh nghiệp
Việc triển khai vào thực tế các biện pháp, chương trình thuận lợi hoá thương mại
trong APEC đã được thực hiện theo hướng thiết thực và có lợi cho doanh nghiệp.
Nguyên tắc trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động của APEC là các thành viên thực hiện
các thoả thuận trên cơ sở tự nguyện, chia sẻ chuyên môn, kỹ thuật cũng như các
nguồn lực khác. Từ đó, thuận lợi hoá thương mại được thực hiện theo 5 nguyên tắc
cụ thể là: Minh bạch hóa, cung cấp thông tin, tham vấn và hợp tác; Đơn giản hoá,
thiết thực và hiệu quả; Không phân biệt đối xử, nhất quán ổn định và áp dụng luật
một cách công bằng; Thống nhất, chuẩn hoá và thừa nhận lẫn nhau; Hiện đại hoá
và áp dụng công nghệ mới.
APEC khuyến khích các nền kinh tế thành viên thực hiện nhiều nỗ lực để mang lại
lợi ích trực tiếp cho doanh nghiệp về thủ tục hải quan, thương mại phi giấy tờ, đồng
bộ với các tiêu chuẩn quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nhân khi đi
lại. Hải quan Hàn Quốc (KCS) đã xây đựng được hệ thống bốc dỡ hàng 24/24 giờ
tại Busan, giảm thời gian bốc dỡ hàng từ 5 ngày theo quy định xuống còn 3 ngày;
giảm thời gian xử lý tại cảng, mang lợi chừng1,5 tỷ USD.
Các nền kinh tế APEC tự nguyện thực hiện thương mại phi giấy tờ nhằm giúp hàng
hoá và dịch vụ trao đổi qua biên giới hiệu quả và minh bạch hơn. Nhiều nền kinh tế
đã có hệ thống toàn diện cho phép chấp nhận chữ ký điện tử, giao dịch điện tử và
bảo mật thông tin cá nhân. Thông qua giao dịch tài liệu điện tử, doanh nghiệp đã
tập trung được các nguồn lực để tận dụng tối đa ưu thế của mắt xích quan trọng
này trong dây chuyền cung ứng. Tại hầu hết các nền kinh tế APEC, trên 50% văn
bản thương mại được thực hiện qua giao dịch điện tử, trong khi ở một số nền kinh
tế thành viên khác tỷ lệ này lên tới 85%. Và hiển nhiên là, khi các nền kinh tế thành
viên thực hiện phi giấy tờ hiệu quả, doanh nghiệp trong khu vực sẽ được hưởng lợi
do thời gian xử lý nhanh hơn, tiết kiệm chi phí và dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt
hơn.
Việc chuẩn hoá các quy định nội khối cho phù hợp với các quy định quốc tế cũng
được đặc biệt coi trọng nhằm tránh những rào cản và giảm chi phí trong kinh
doanh. APEC đã thực hiện nhiều biện pháp trong lĩnh vực tiêu chuẩn và hợp
chuẩn. Các thành viên được khuyến khích đồng bộ hệ thống tiêu chuẩn của mình
với các tiêu chuẩn quốc tế, trong đó có áp dụng những thông lệ tốt nhất, đặc biệt là
khi xây dựng những tiêu chuẩn mới. Bên cạnh đó, APEC khuyến khích phát triển
những hệ thống hữu hiệu đảm bảo sự tuân thủ các tiêu chuẩn, khuyến khích các
ngành sản xuất kinh doanh cũng như người tiêu dùng tin tưởng vào chất lượng
hàng hoá và dịch vụ và vào bản thân thị trường. Các nền kinh tế thành viên cũng
được khuyến khích tăng cường tham gia các cơ quan hoạch định tiêu chuẩn quốc tế
và đẩy mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế. Họ cùng thoả thuận thừa nhận
lẫn nhau và áp dụng những công cụ thiết thực khác giúp giảm chi phí tuân thủ của
doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực quan trọng.
Một trong những lợi ích quan trọng mà APEC đem lại cho doanh nhân chính là tạo
thuận lợi cơ bản cho họ khi làm ăn, đi lại nội khối. Nhóm Đi lại của doanh nhân
APEC đã đề ra một giải pháp “nhất cử lưỡng tiện” là thực hiện Thẻ đi lại Doanh
nhân APEC. Chương trình này cho phép các doanh nhân đủ điều kiện chỉ cần nộp
đơn một lần tại nền kinh tế sở tại là được phép nhập cảnh ngắn hạn nhiều lần vào
tất cả các nền kinh tế tham gia chương trình này qua hệ thống thông quan sớm rất
đơn giản. Là một trong những sản phẩm dễ thấy nhất của APEC và cũng là sản
phẩm duy nhất bạn có thể cho vào túi áp, thẻ đi lại Doanh nhân APEC thực sự giúp
tiết kiệm thời gian, chi phí và rất tiện lợi, đáp ứng được nhu cầu của các doanh
nhân, thúc đẩy quá trình phát triển thương mại trong khu vực bằng biện pháp cụ
thể và thiết thực.
Vài nét về Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
Kể từ khi thành lập tới nay, APEC đã phát triển thành một trong những tổ chức
khu vực quan trọng nhất và lớn nhất thế giới, gồm 21 nền kinh tế thành viên trải
rộng trên bốn châu lục với hơn 2,6 tỷ dân, chiếm 41% dân số thế giới, 56% GDP
thế giới và 47% thương mại toàn cầu.
Quá trình thành lập:
APEC ra đời dựa trên sáng kiến của Australia, nước chủ nhà tổ chức cuộc họp
cấp Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại đầu tiên với sự tham gia của 12 nền
kinh tế trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Brunei Darussalam, Canada,
Indonesia, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Malaysia, Nhật Bản, New Zealand, Philippines,
Thái Lan, Australia và Singapore). Đây là các nền kinh tế thành viên sáng lập
APEC.
Năm 1993, Hoa Kỳ tổ chức cuộc họp thường niên đầu tiên giữa các Nhà Lãnh
đạo APEC tại Đảo Blake, Seattle nhằm đạt được cam kết ở cấp cao hơn.
Từ khi thành lập năm 1989 tới cuộc họp thường niên đầu tiên của các nhà Lãnh
đạo, APEC đã kết nạp thêm được 6 thành viên (Trung Quốc, Hong Kong của
Trung Quốc, Đài Bắc thuộc Trung Quốc, Mexico, Papua New Guinea và Chile);
Peru, Liên bang Nga và Việt Nam là những nền kinh tế sau cùng tham gia vào
APEC (năm 1998) đưa tổng số thành viên hiện nay lên 21.
Mục tiêu của APEC:
APEC được thành lập nhằm phát huy lợi thế của sự phụ thuộc lẫn nhau ngày
càng tăng giữa các nền kinh tế trong khu vực. Mục tiêu quan trọng nhất của
APEC là giúp toàn khu vực thịnh vượng hơn nữa.
Để thực hiện mục tiêu trên, các hoạt động của APEC dựa trên “ba trụ cột” chính
sau:
Tự do hóa Thương mại và Đầu tư
Thuận lợi hóa Kinh doanh
Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật
Tầm quan trọng:
Kể từ khi thành lập tới nay, APEC đã phát triển thành một trong những tổ chức
khu vực quan trọng nhất và lớn nhất thế giới. 21 nền kinh tế thành viên trải rộng
trên bốn châu lục với hơn 2,6 tỷ dân, chiếm 41% dân số thế giới; chiếm 56%
GDP thế giới (23 nghìn tỷ USD) và chiếm 47% thương mại toàn cầu (8 nghìn tỷ
USD).
APEC là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, tạo ra gần 70% tăng trưởng
kinh tế toàn cầu trong 10 năm đầu tiên kể từ khi thành lập.
Cơ cấu Tổ chức:
Chức vụ Chủ tịch APEC được thay đổi mỗi năm theo nguyên tắc luân phiên giữa
các nền kinh tế thành viên. Chủ tịch APEC thường là nước chủ nhà tổ chức các
cuộc họp bộ trưởng và các nhà lãnh đạo thường niên.
APEC có ba ủy ban chính: Ủy ban Đầu tư và Thương mại, Ủy ban Kinh tế và Ủy
ban Quản lý và Ngân sách. Ban Chỉ đạo SOM về Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật
(ESC) có trách nhiệm theo dõi chương trình làm việc về Hợp tác Kinh tế và Kỹ
thuật.
APEC cũng có các Nhóm Công tác (WG) theo ngành trong các lĩnh vực: năng
lượng, hải sản, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ trong công
nghiệp, bảo tồn tài nguyên biển, viễn thông, xúc tiến thương mại, giao thông vận
tải và du lịch. Những nhóm làm việc này có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác trên thực
tế giữa các thành viên để xây dựng năng lực trong lĩnh vực mình phụ trách.
Các Nhóm Đặc trách giải quyết các vấn đề liên quan tới hợp tác kỹ thuật trong
nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, môi trường và phát triển bền vững.
Để hỗ trợ cho các hoạt động của APEC, một Ban Thư ký thường trực được thành
lập tại Singapore năm 1993. Ban Thư ký có 40 chuyên viên thực hiện nhiệm vụ
mang tính hành chính và hỗ trợ điều phối cho tất cả các diễn đàn của APEC. Ban
Thư ký cũng quản lý quỹ trung tâm của APEC – quỹ này dùng để hỗ trợ cho các
dự án đã được các nhà lãnh đạo và các bộ trưởng thông qua.
Năm 1995, các nhà lãnh đạo APEC đã nhất trí thành lập Hội đồng Tư vấn Doanh
nghiệp APEC (ABAC) để có một kênh tư vấn chính thức. Hội đồng này hàng
năm đều gặp gỡ các nhà lãnh đạo để thảo luận về các đề xuất và góp ý của Hội
đồng.
Quan sát viên:
APEC có ba quan sát viên chính thức gồm:
Ban Thư ký của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương
Ban Thư ký Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương
Những quan sát viên này tham gia vào các cuộc họp của APEC và được tiếp cận
đầy đủ các tài liệu và thông tin liên quan đến các cuộc họp. Các nhóm quan sát
viên cũng cùng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức nhằm giúp cho APEC
thực hiện các sáng kiến và đạt được mục tiêu của mình.
Cơ chế hoạt động:
APEC là một diễn đàn đặc biệt, hoạt động trên nguyên tắc đối thoại mở và tôn
trọng quan điểm của tất cả các thành viên. Không có các cam kết ràng buộc; sự
tuân thủ đạt được thông qua thảo luận và hỗ trợ lẫn nhau dưới hình thức hợp tác
kinh tế và kỹ thuật. Trong APEC, tất cả các nền kinh tế đều có tiếng nói bình
đẳng và các quyết định được đưa ra trên cơ sở đồng thuận.
Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC là diễn đàn có tính chất quyết định cao
nhất, nơi hoạch định các chiến lược và tầm nhìn dài hạn cho APEC.
Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức hàng năm trước Hội nghị các nhà lãnh đạo
kinh tế bao gồm Hội nghị Bộ trưởng Thương mại, các Hội nghị Bộ trưởng
chuyên ngành như Tài chính, Hàng không, Bưu chính Viễn thông,… nhằm xem
xét và thông qua các chương trình hành động và đệ trình các sáng kiến, kế hoạch
mới lên Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế.
Hội nghị các Quan chức cao cấp (SOM) nhằm triển khai các quyết định của Hội
nghị Bộ trưởng, đệ trình các khuyến nghị, chương trình hợp tác lên Hội nghị Bộ
trưởng xem xét.
Một số thành tựu kinh tế nổi bật của APEC:
- Trong thập kỷ đầu tiên kể từ khi thành lập, các nền kinh tế thành viên
APEC đã tạo ra xấp xỉ 70% tăng trưởng kinh tế toàn cầu;
- Rào cản thuế quan trong khu vực APEC đã giảm từ 16,6% năm 1988
xuống còn 5,5% năm 2004;
- Các rào cản phi thuế quan đã được công khai thành thuế quan; các rào cản
đầu tư đã được cắt giảm;
- Xuất khẩu tăng 113% lên trên 2,5 nghìn tỷ USD;
- Tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 210% (nếu tính riêng các nền kinh
tế đang phát triển trong APEC thì con số này là 475%);
- GNP thực tế tăng thêm khoảng một phần ba (nếu tính riêng các nền kinh tế
đang phát triển trong APEC thì con số này là 74%);
- GDP tính theo đầu người ở các nền kinh tế đang phát triển tăng thêm 61%.
APEC đem lại lợi ích cho người dân trong khu vực:
Công dân của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được hưởng lợi từ các hành
động tập thể và hành động riêng lẻ của các nền kinh tế thành viên APEC theo
những cách khác nhau. Một số lợi ích trực tiếp như là tăng cơ hội việc làm, có
nhiều chương trình đào tạo hơn, hệ thống an ninh xã hội vững chắc hơn, giảm
đói nghèo. Việc cắt giảm hàng rào thương mại và tạo ra một khu vực kinh tế
mang tính cạnh tranh cao hơn đã làm giảm chi phí hàng hóa và dịch vụ thiết yếu
hàng ngày từ thực phẩm, quần áo tới điện thoại di động.
Quan trọng hơn, tăng trưởng kinh tế dẫn tới tiến bộ xã hội; điều này được thể
hiện qua:
Chỉ số Phát triển Con người của Chương trình Phát triển Liên Hiệp
Quốc(UNDP) ở các nền kinh tế đang phát triển tăng gần 18%;
Tỷ lệ dân số đói nghèo trong khu vực Đông Á giảm gần một phần ba (165 triệu
người);
Tạo ra hơn 195 triệu việc làm mới trong các nền kinh tế thành viên (trong đó 174
triệu việc làm mới thuộc các nền kinh tế đang phát triển).
Các chỉ số về y tế, vệ sinh được cải thiện;
Ngày càng có nhiều công dân trong khu vực APEC được hưởng giáo dục cấp
tiểu học và trung học.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) là một tổ chức
gồm 21 nền kinh tế thành viên: Australia, Brunei Darussalam, Canada, Chile,
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Hồng Kông Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Malaysia, Mexico, New Zealand, Papua New Guinea, Peru,
Philipines, Nga, Singapore, Đài Bắc Trung Quốc, Thái Lan, Hoa Kỳ và Việt
Nam.
Việt Nam gia nhập APEC tháng 11 năm 1998. APEC hoạt động trên ba lĩnh vực
bao quát, nhằm đạt được Mục tiêu Bogor về mở cửa và tự do hoá thương mại và
đầu tư trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương vào năm 2010 cho các nền kinh
tế phát triển và 2020 cho các nền kinh tế đang phát triển của khu vực.
APEC chú trọng ba lĩnh vực then chốt như sau:
Tự do hoá thương mại và đầu tư
Hỗ trợ kinh doanh
Hợp tác kinh tế và kỹ thuật
Thành tựu của ba lĩnh vực hoạt động chính này cho phép các nền kinh tế thành
viên APEC củng cố tiềm lực kinh tế của mình thông qua việc chia sẻ các nguồn
lực trong khu vực với hiệu quả cao. Người tiêu dùng trong khu vực cũng được
hưởng lợi từ các lợi ích hữu hình các hoạt động đào tạo được tăng cường, cơ hội
việc làm và cơ hội thị trường được mở rộng, hàng hóa và dịch vụ được cung cấp
với giá thành thấp hơn, khả năng tiếp cận thị trường quốc tế được nâng cao.
Hàng năm, các sự kiện hợp tác APEC được tổ chức tại một nền kinh tế thành
viên. Với tư cách là nền kinh tế chủ nhà của năm APEC 2006, Việt Nam đã tổ
chức Hội nghị Bộ trưởng Phụ trách DNNVV lần thứ 13 trong hai ngày 28 và 29
tháng 9, Hội nghị Nhóm Công tác DNNVV lần thứ 23 trong hai ngày 26 và 27
tháng 9, và Hội nghị Tiểu nhóm Công tác Doanh nghiệp Siêu nhỏ ngày 25 tháng
9, tại Hà Nội.
Để chuẩn bị cho các cuộc họp này, Việt Nam đề xuất một số giải pháp và xin ý
kiến các nền kinh tế thành viên APEC, gồm:
Tăng cường năng lực cạnh tranh cho DNNVV trong thương mại và đầu tư
Xây dựng năng lực cho Doanh nghiệp Siêu nhỏ gia nhập thị trường
Các Bộ trưởng Phụ trách DNNVV APEC, dưới sự chủ toạ của Bộ trưởng Kế
hoạch và Đầu tư Việt Nam Võ Hồng Phúc, đã ra Tuyên bố Hà Nội về Tăng
cường năng lưc cạnh tranh cho DNNVV trong thương mại và đầu tưvà Tuyên bố
chung Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 13.