Dùng Laser hồng ngoại năng lượng
thấp điều trị cận thị
Cận thị tiến triển (tăng số kính) không chỉ đơn thuần là rối loạn chức
năng thị giác có thể chỉnh kính mà có thể là một biểu hiện bệnh lý có biến
chứng tương đối nguy hiểm. Phương pháp dùng laser hồng ngoại năng lượng
thấp có độ dài bước sóng 1,3 micromet tác động gián tiếp xuyên qua củng
mạc kích thích cơ thể mi, kết hợp luyện tập điều tiết trên máy là một trong
những phương pháp mới, hiện đại điều trị tiến triển cận thị ở trẻ em dựa trên
nguyên lý: tăng cường tuần hoàn, tăng cường trao đổi chất của cơ điều tiết.
Cận thị là một tật khúc xạ gây rối loạn chức năng thị giác và chiếm một vị
trí đáng kể trong nhóm tật về thị giác, đặc biệt ở học sinh và người lao động trẻ.
Người bị cận thị nhìn rõ khi vật gần mắt và nhìn mờ khi vật xa mắt.
Xã hội càng phát triển, trẻ em sớm được tiếp cận với những phương tiện
máy móc tiện ích phục vụ việc học tập và nhu cầu giải trí thì số lượng người cận
thị ngày càng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt gần đây tỷ lệ trẻ em bị cận thị tăng
cao, có những em còn rất nhỏ. Theo Tổ chức y tế thế giới, có khoảng trên 800
triệu người bị cận thị. Cận thị làm giảm sức nhìn của con người, gây cản trở, khó
khăn trong công việc hàng ngày. Ở các em học sinh từ 7 - 16 tuổi rất dễ mắc
chứng cận thị, mà độ cận thị tiến triển nhanh do mức độ làm việc nhìn gần bằng
mắt nhiều, thường gọi là cận thị mắc phải, đây là một điều nguy hiểm vì cận thị
xuất hiện càng sớm thì mức độ tăng số kính càng nhanh.
Độ dài nhãn cầu phát triển bình thường cho đến tuổi 25, độ dài trục nhãn
cầu trung bình ở người trưởng thành là 23,0 đến 24,0 mm. Ở người cận thị trục
nhãn cầu có thể dài hơn, đôi khi tới trên 30,0 mm. Trục nhãn cầu cứ dài ra 1 mm
tương ứng với tăng độ cận thị - 3,0 D.
Triệu chứng cận thị
Cận thị bẩm sinh thường được phát hiện sớm khi trẻ 1 - 2 tuổi, cận thị bẩm
sinh thường có số kính cao và tăng số nhanh bất bình thường. Cận thị khởi phát ở
thiếu niên là cận thị xuất hiện ở trẻ từ 5 - 6 tuổi, và được phát hiện khi trẻ đến
trường. Trẻ nhìn không rõ, mờ khi vật ở xa, không phân biệt rõ hoặc nhầm lẫn nét
số và chữ trên bảng, mỏi mắt khi đọc sách, tiến gần khi xem ti vi.
Cận thị khởi phát ở người lớn xuất hiện ở khoảng 20 tuổi. Công việc nhìn
gần nhiều là yếu tố nguy cơ cho sự phát triển cận thị ở tuổi này.
Nguyên nhân phát triển cận thị
Có nhiều nguyên nhân gây phát triển cận thị. Các nguyên nhân chính là:
- Làm việc, nhìn gần bằng mắt nhiều (trong điều kiện ánh sáng thiếu và
không được nghỉ ngơi thích hợp).
- Di truyền.
- Thành củng mạc (lớp vỏ nhãn cầu) đàn hồi kém. Cơ địa mắt to hơn bình
thường.
- Cơ điều tiết mắt phát triển kém: bẩm sinh, nguyên phát.
Phân loại cận thị
Cận thị có nhiều loại khác nhau. Cận thị sinh lý (thường gọi là cận thị học
đường): thường xuất hiện ở học sinh phổ thông, cận thị nhẹ hoặc vừa. Cận thị
bệnh lý (cận thị ác tính, cận thị tiến triển, cận thị thoái hóa): do khúc xạ của giác
mạc hoặc thủy tinh thể cao hơn bình thường, hoặc độ dài trục nhãn cầu phát triển
quá mức bình thường, độ cận thị thường trên 6,0 D, số kính tăng trên 1,0 D/năm
và có tổn hại dịch kính, võng mạc.
Cận thị có thể được phân chia thành 3 loại: cận thị nhẹ dưới - 3,0 D; cận thị
trung bình - 3,0 đến - 6,0 D; cận thị nặng trên - 6,0 D.
Nếu người cận thị có kính tăng nhanh trên 1,0 D/năm thì sẽ tiếp tục tăng
sau tuổi trưởng thành, có khi tới -20,0 D. Trục nhãn cầu phát triển quá mức dễ gây
biến chứng cận thị: giãn lồi võng mạc, xuất huyết võng mạc, dịch kính, thoái hóa,
teo hắc võng mạc dẫn đến giảm thị lực trầm trọng gây mù lòa.
Điều trị cận thị
Người cận thị nhìn xa rõ khi được chỉnh kính phân kỳ (kính đi - ốp hay gọi
là kính cận thị).
Kính gọng: là một trong những biện pháp cần thiết để điều chỉnh tật cận
thị. Tùy theo mức độ, bệnh nhân cần đeo kính thường xuyên hay chỉ cần đeo kính
khi nhìn xa (các bác sĩ nhãn khoa sẽ tư vấn cụ thể cho từng trường hợp). Nếu bệnh
nhân được chỉnh kính đúng, thích hợp, tiến triển cận thị sẽ chậm hơn.
Ngoài kính gọng, bệnh nhân có thể dùng kính tiếp xúc, phương pháp này có
lợi ích mỹ quan. Tuy nhiên người sử dụng phải đặc biệt thận trọng giữ vệ sinh nếu
không sẽ tổn hại đến giác mạc, có thể gây viêm hoặc loét giác mạc.
Đeo kính cận thị không thể làm dừng lại mức độ tăng số kính mà nó chỉ có
thể điều chỉnh mức độ quang học. Nếu thị lực kém đi và cần tăng số kính cận thị
có nghĩa là cận thị tiến triển (độ cận thị nặng thêm).
Ngoài việc chỉnh kính, để hạn chế cận thị tiến triển, giữ ổn định số kính cận
thị và đề phòng các biến chứng cận thị như xuất huyết dịch kính, võng mạc, bong
võng mạc… dẫn đến giảm thị lực trầm trọng, bệnh nhân cần được điều trị bằng
một số phương pháp thích hợp làm hạn chế tăng số kính, tiến đến ổn định độ cận
thị và đề phòng biến chứng.
Vật lý trị liệu: tác động làm phục hồi chức năng điều tiết mắt, tăng cường
tuần hoàn cơ thể mi, võng mạc, tăng cường trao đổi chất, tăng cường trương lực cơ
như: luyện tập điều tiết trên máy, thuốc tác động lên điều tiết, dùng sóng siêu âm,
điện, điện tử, laser năng lượng thấp.
Từ những năm đầu của thập kỷ 1980, do có sự tiến bộ vượt bậc của khoa
học, tia laser đã được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả trong khám và điều trị các
bệnh nhãn khoa. Năm 1981, nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm trên động
vật và điều trị lâm sàng cho thấy tia laser năng lượng thấp kích thích võng mạc,
thể mi, làm tăng tuần hoàn võng mạc, tăng trao đổi chất tế bào để điều trị một số
bệnh võng mạc: thoái hóa võng mạc hoàng điểm, viêm, teo gai thị, thị thần kinh,
điều trị tật khúc xạ, nhược thị ở trẻ em. Điều trị bằng laser công suất thấp là
phương pháp ứng dụng kỹ thuật hiện đại và có hiệu quả cao, an toàn, không có
biến chứng và tác dụng phụ.
Phẫu thuật:
- Đối với trẻ em cận thị có số kính tăng nhanh (trên 1,0D/năm) cần can
thiệp phẫu thuật ghép độn củng mạc để hạn chế mức độ tăng số kính và giãn lồi
củng mạc.
- Đối với bệnh nhân trên 18 tuổi có độ cận thị ổn định có thể phẫu thuật
điều trị cận thị bỏ kính bằng excimer laser (lasik). O