Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Sang kien kinh nghiem Tap lam van Lop 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.68 KB, 25 trang )


Tên sáng kiến: Rèn thể loại văn miêu tả lớp 4
2. Ngời viết : Nguyễn Huy Hoàng
3. Trình độ chuyên môn: Cử nhân Cao đẳng
4. Nơi công tác: Trờng Tiểu học Xuân Châu
Huyện xuân trờng tỉnh nam định
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Cấp huyện
A. Giải pháp
I. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Thc t dy hc cho thy: dy tp lm vn l vic rốn luyn cho hc sinh
kh nng t chc giao tip, t chc li núi ngay t khi hc sinh hc sinh bt u i
hc, õy l mt vic lm ht sc khú khn m khụng phi giỏo viờn no cng thc
hin c. Thng thỡ giỏo viờn no cng dy ỳng, quy trỡnh cỏc phõn mụn
nh tp c, luyn t v cõu, cú nhiu giỏo viờn cũn dy rt tt cỏc phõn mụn
ny. Nhng vi phõn mụn tp lm vn thỡ rt him khi cú giỏo viờn no cú
dng cm chn nú lm phõn mụn hi ging, cng cú rt ớt giỏo viờn cú kh nng
dy mt gi tp lm vn sinh ng, hp dn. Trong thc t, giỏo viờn thng cha
quan tõm, cha chỳ trng lm n phõn mụn ny, thng ch hng dn qua loa
cho hc sinh v nh t vit Cũn vic hc thỡ sao?: Ngoi SGK ting Vit thỡ
hin nay cú rt nhiu loi sỏch tham kho cho HS, giỳp cho HS cú cú cỏi nhỡn a
dng, phong phỳ hn. Nhng nhng cun sỏch tham kho ca phõn mụn tp lm
vn li thng a ra cỏc bi vn mu hon chnh nờn khi lm vn cỏc em thng
da dm, li vo bi mu, cú khi cũn sao chộp y nguyờn bi vn mu vo bi lm
ca mỡnh. Cỏch cm, cỏch ngh ca cỏc em khụng phong phỳ m thng i theo
li mũn khuụn sỏo, t nht. Mt thc t na ú l hc sinh lp 4 tuy cỏc em ó
c tip xỳc v thc hnh cỏc bi tp lm vn lp 2 v lp 3 xong cỏc em vn
vit vn theo kiu cụng thc cng nhc, cõu vn ch dng mc cú ch
ng, v ng rt ớt nhng cõu vn cú s dng cỏc bin phỏp ngh thut, bi vn
1

thiếu sinh động, hấp dẫn. Từ những lý do khách quan và chủ quan trên, để khắc


phục những hạn chế trong việc dạy tập làm văn ở tiểu học, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài : “Một số biện
pháp dạy tập làm văn - thể loại văn miêu tả lớp 4”.
II. C¸c gi¶i ph¸p thùc hiÖn:
1. Thể loại văn miêu tả:
- Khái niệm: Miêu tả là một thể loại văn bản mà trong đó người viết dùng
ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật của mình để tái hiện, sao chụp lại hình ảnh chân
dung của đối tượng miêu tả với những đặc điểm nổi bật cả về hình thức bên ngoài
lẫn những phẩm chất bên trong nhằm giúp người tiếp nhận có những hiểu biết và
dung cảm cảm nhận về đối tượng đó như được trực tiếp tiếp xúc với đối tượng
thông qua các giác quan của mình.
-Đặc điểm: Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh,
những ấn tượng về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua
các giác quan trực tiếp của mình. Bài văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính
chất nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ
trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ giàu sức gợi tả, gợi cảm
và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ.
- Kết cấu: Kết cấu bài văn miêu tả cũng tuân thủ kết cấu 3 phần:
Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cản, quan hệ của
người miêu tả với đối tượng miêu tả.
Thân bài: Tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những
góc nhìn nhất định.
Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của
người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Như vậy, bài văn là một văn bản gồm ngôn từ, nội dung chứa trong ngôn
từ chính là văn. Văn và ngữ luôn sóng đôi với nhau: văn cần đến ngữ để biểu hiện,
ngữ cần đến văn để nói lên ý nghĩa.Văn là nghệ thuật của ngôn từ, văn là cái đẹp,
2

có người lại nói văn học là nhân học, văn học là tình cảm, đạo đức lý tưởng, là

tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên và con người. Văn có được nhờ cảm xúc của
tâm hồn, nó làm cho tâm hồn con người thêm phong phú và sâu sắc.
2. Cấu trúc chương trình tập làm văn lớp 4:
Loại văn bản
Số tiết dạy
Học kỳ I Học kỳ II Cả năm
- Kể chuyện
- Miêu tả:
+ Khái niệm miêu tả
+ Miêu tả đồ vật
+ Miêu tả cây cối
+ Miêu tả con vật
- Các loại văn khác:
+ Viết thư
+ Trao đổi ý kiến
+ Giới thiệu hoạt động
+ Tóm tắt tin tức
+ Điền vào giấy tờ in sẵn

* Tổng số:
19
1
6
3
2
1
32 tiết
4
11
8

1
3
3
30tiết
19
1
10
11
8
3
2
2
3
3
62 tiết

Như vậy, ta thấy số tiết học về văn miêu tả là 30 tiết trong tổng số 62 tiết
tập làm văn của cả năm học, rõ ràng là văn miêu tả chiếm gần nửa số tiết học cả
năm ( Không kể những tiết ôn tập ).Trong đó văn miêu tả kiến thức được trang bị
cho học sinh bao gồm:
- Thế nào là miêu tả?
- Quan sát để miêu tả cho sinh động.
- Trình tự miêu tả ( đồ vật, con vật, cây cối ).
- Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả ( đồ vật, con vật, cây cối ).
3

Các kiến thức trên được cụ thể hoá qua hai loại bài : Loại bài hình thành
kiến thức và loại bài luyện tập thực hành
• Loại bài hình thành kiến thức được cấu trúc theo 3 phần :
(I) Nhận xét : Bao gồm một số câu hỏi, bài tập gợi ý học sinh khảo sát văn

bản để tự rút ra một số nhận xét về đặc điểm loại văn, kiến thức cần ghi
nhớ.
(II) Ghi nhớ : Gồm những kiến thức cơ bản rút ra từ phần nhận xét.
(III) Luyện tập : Gồm từ 1 đến 3 bài tập thực hành đơn giản nhằm giúp học
sinh củng cố và vận dụng kiến thức tiếp nhận trong bài học.
• Loại bài luyện tập thực hành Chủ yếu nhằm mục đích rèn luyện các kỹ
năng tập làm văn, do vậy nội dung thường gồm 3, 4 bài tập nhỏ hoặc 1 đề bài tập
làm văn kèm theo gợi ý thực hành luyện tập theo hai hình thức : nói, viết.
3. Quy trình giảng dạy :
(A)Kiểm tra bài cũ : Yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức cần ghi nhớ hoặc làm
bài tập đã thực hành ở tiết trước ( hoặc giáo viên nhận xét kết quả chấm bài tập
làm văn, nếu có).
(B)Dạy bài mới
( 1) Giới thiệu bài : Dựa vào nội dung và mục đích yêu cầu của bài dạy cụ
thể, giáo viên có thể dẫn dắt, giới thiệu bài bằng những cách khác nhau, sao cho
thích hợp.
(2) Hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức và luyện tập
* Đối với loại bài hình thành kiến thức :
(a) Hướng dẫn học sinh nhận xét : Dựa theo câu hỏi, bài tập gợi ý của mục I
(Nhận xét) trong SGK, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận diện đặc điểm của loại
văn thông qua việc khảo sát văn bản, thảo luận, trả lời câu hỏi nhằm tự tìm ra
những điểm cần ghi nhớ ( được diễn đạt ngắn gọn, súc tích ở mục II trong SGK).
(b) Hướng dẫn học sinh ghi nhớ : Giáo viên yêu cầu học sinh nhớ kỹ mục II
( ghi nhớ ) trong SGK, sau đó có thể nhắc lại để học thuộc và nắm vững.
4

(c) Hướng dẫn học sinh luyện tập : Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện bài
tập ở mục III ( Luyện tập ) trong SGK theo trình tự các thao tác : Đọc và nhận
hiểu yêu cầu của bài tập ; thực hành luyện tập theo từng yêu cầu của bài tập ( có
thể làm thử một phần bài tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên, sau đó trao đổi,

thảo luận theo cặp hoặc theo nhóm ) ; nêu kết quả trước lớp để giáo viên nhận
xét, đánh giá nhằm củng cố kiến thức và hình thành kỹ năng theo yêu cầu của bài
học.
* Đối với loại bài luyện tập thực hành :
Đây là loại bài chủ yếu nhằm mục đích rèn luyện các kỹ năng làm văn. Nội
dung bài học thường gồm 3, 4 bài tập hoặc 1 đề bài tập làm văn.
Dựa vào mục đích yêu cầu của bài dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh thực
hiện từng bài tập trong SGK theo trình tự các thao tác đã nêu ở mục (c) của loại
bài hình thành kiến thức, hoặc hướng dẫn học sinh lần lượt thực hiện từng nội
dung gợi ý trong SGK để luyện tập các kỹ năng tập làm văn dưới hình thức nói,
viết theo đề bài cho trước.
(3) Củng cố, dặn dò
Giáo viên giúp học sinh nhắc lại những điểm chính của nội dung bài học
hoặc yêu cầu luyện tập thực hành ; nhận xét, đánh giá chung về kết quả tiết học
( biểu dương bài làm hay, động viên học sinh học tốt )
Dặn dò học sinh thực hiện công việc tiếp theo ( học bài cũ, chuẩn bị cho
bài mới).
THỰC TRẠNG VIỆC DẠY TẬP LÀM VĂN - THỂ LOẠI VĂN MIÊU TẢ
LỚP 4 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC xu©n ch©u
1. §èi víi gi¸o viªn vµ c¬ së vËt chÊt.
+ Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho việc soạn - giảng còn hạn chế.
Nhất là tài lệu tham khảo, đầu sách phục vụ công tác giảng dạy và sách nghiệp vụ
còn rất hạn chế. Giáo viên chưa có tủ sách riêng cho mình nên hầu hết mỗi giáo
viên lên lớp chỉ dựa vào sách giáo khoa và sách bài soạn là chủ yếu, rất ít giáo
5

viên có các loại sách tham khảo khác để tự mở rộng kiến thức bài giảng mà tập
làm văn lại đòi hỏi phải đọc nhiều, biết nhiều.
+ Giáo viên tiểu học phải dạy hầu hết các môn , phải chuẩn bị nhiều lĩnh
vực chuyên môn khác nhau, hiện nay giáo viên lại phải dạy 2 buổi/ ngày nên. Bởi

vậy giáo viên không thể có nhiều thời gian nghiên cứu sâu cho từng phân môn, do
đó việc chuẩn bị kế hoạch bài học chỉ mang hình thức chiếu lệ.
+ Chương trình và sách giáo khoa mới kiến thức khá nhiều, nhất là với
việc dạy tập làm văn lớp 4 – chương trình, sách giáo khoa và phương pháp hoàn
toàn đổi mới so với trước đây và cũng rất khác so với lớp 2, 3. Lớp 2, 3 là giai
đoạn đầu của tiểu học, kiến thức lớp 3 tuy có tăng nhưng phương pháp thì gần như
lớp 2 nên giáo viên tiếp cận cũng dễ dàng hơn. Lên lớp 4 kiến thức tăng cao hơn
hẳn, trước đây mỗi kiểu bài của thể loại văn miêu tả thường được cấu trúc dưới
dạng các đề bài cho trước, mỗi đề bài lại được học trong 4 – 5 tiết: Quan sát tìm ý,
lập dàn bài, làm bài miệng, làm bài viết, trả bài. Chương trình mới được cấu trúc
khác hẳn: mỗi kiểu bài được học từ 8 – 11 tiết trong đó thường có 1 tiết lý thuyết
chung, 1 tiết cho cấu tạo từng kiểu bài, 1tiết cho quan sát đối tượng miêu tả, 2- 3
tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, 1- 2 tiết luyện tập xây dựng đoạn mở bài và kết
bài, 1tiết kiểm tra và 1 tiết trả bài. Rõ ràng chương trình mới không có sự gò bó,
áp đặt học sinh phải miêu tả cùng một đối tượng nào cho trước mà tuỳ theo từng
vùng, từng nơi, tuỳ từng em có thể lựa chọn đối tượng miêu tả miễn là trong cùng
kiểu bài ( tả con vật hay tả cây cối, tả đồ vật), như vậy sẽ phát huy được tính độc
lập, sáng tạo của học sinh.
2. Tình hình chất lượng học tập môn Tiếng Việt và phân môn tập làm
văn của học sinh Trêng TiÓu häc Xu©n Ch©u nh sau:
BẢNG CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG VIỆT
6

Khối Số
học
sinh
Chất lượng môn tiếng Việt
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
Hai 70 30 42,8 20 28,5 15 21,4 5 7

Ba 68 24 35,3 28 41,2 12 17,6 4 5,9
Bốn 82 34 41,5 21 25,6 23 28,0 4 5,0
( Nguồn: Báo cáo sơ kết học kỳ I năm học 2009-2010)
Qua bảng thống kê ở trên ta thấy, chất lượng môn tiếng Việt của cũng
tương đối cao, đa số học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản. Song ở đây ta cần
chú ý đến chất lượng môn Tiếng Việt của học sinh khối Hai, Ba, Bốn vµ N¨m.
Ta thấy chất lượng của khối Hai, Ba gần như ngang nhau, còn khối Bốn chất
lượng lại thấp hơn hẳn. Qua xem bài làm của học sinh và khảo sát tình hình
học tập lớp của các em học sinh lớp 4 tôi thấy hầu hết các em nắm được kiến
thức cơ bản của các phân môn luyện từ và câu, chính tả nhưng các em chưa
biết vận dụng kiến thức của các phân môn này để làm bài tập làm văn. Chương
trình phân môn tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài miêu tả, nhìn
chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm của các
em còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo
hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các biện
pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hoá,…
Tôi đã cho khảo sát chất lượng làm văn của học sinh hai lớp 4B và 4Cđể
làm cơ sở kiểm chứng thực nghiệm sau này:
Đề bài: Em hãy miêu tả một dụng cụ học tập của em mà em yêu thích nhất .
Chú ý mở bài theo kiểu mở rộng.

Kết quả cụ thể như sau:
Lớp
Số
HS
Điểm Giỏi Điểm Khá Điểm TB
Điểm dưới
TB
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
4B 25 13 52,0 6 24,0 4 16,0 2 8,0

4A 28 7 25,0 6 21,4 9 32,1 6 21,4
7


Kết quả trên cho thấy, hai lớp 4B và 4A có số học sinh gÇn b»ng như nhau,
chất lượng làm văn cũng gần tương đương nhau, bài làm có điểm khá, giỏi rất ít,
chủ yếu là điểm trung bình, điểm dưới trung bình còn chiếm 21,4%.
Từ thực trạng việc dạy học phân môn tập làm văn nói chung và việc dạy học
làm văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng tôi thấy rất cần thiết phải có những biện pháp
sáng tạo trong dạy văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở tiểu
học.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ LỚP 4:
1. Giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để từ đó tìm
ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên lớp:
Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh tiểu học là luôn muốn khám
phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Trong con mắt trẻ thơ, với cái nhìn trong trẻo
của mình thì thì sự vật hiện tượng nào trong cuộc sống cũng đầy bí ẩn. Các em
muốn tìm hiểu, khám phá: Tại sao cùng là một sự vật hôm nay là thế này, ngày
mai lại là thế khác? Để trả lời câu hỏi đó trước hết người giáo viên phải giúp các
em nhận thức được sự đa dạng, phong phú của các sự vật hiện tượng và sự sinh
động của cuộc sống. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em cách quan sát,
cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là
quan sát sự vật hiện tượng ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các
em sẽ có cách cảm, cách nghĩ sâu sắc khi miêu tả.
Ở tuổi học sinh tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự
bắt đầu của một quá trình. Do đó những tri thức để các em tiếp thu phải được sắp
xếp theo một trình tự nhất định. Bởi văn chương không phải là phép tính cộng đơn
thuần của các chi tiết mà nó đòi hỏi phải có một sự cảm nhận tinh tế. Sự cảm nhận
ấy bắt đầu từ óc quan sát tốt, từ sự nhạy bén của trí nhớ, từ sự cảm nhận vẻ đẹp

8

của sự vật qua những rung cảm của tâm hồn sẽ kích thích cho trí tưởng tượng của
các em hoạt động mạnh. Trí tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc làm
văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu.
Mọi suy nghĩ của các em đều rất hồn nhiên, trong sáng. Một tiếng lá rơi,
một ngọn gió nhẹ cũng rất dễ tạo nên những rung động trong tâm hồn các em.
Chính vì vậy mà những gì càng gần gũi, dễ hiểu bao nhiêu thì việc tiếp thu của các
em càng nhanh chóng bấy nhiêu. Hơn nữa nhận thức của các em còn ở mức độ
đơn giản nên giáo viên cần hướng để các em chọn đối tượng miêu tả gần gũi, quen
thuộc với cuộc sống hàng ngày của các em.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải
giàu cảm xúc, tạo nên cái “hồn”, chất văn của bài làm.Muốn vậy giáo viên phải
luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm
lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện.

2. Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
ngay từ tiết đầu tiên của thể loại bài này:
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối
tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ là sự
sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả
của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể
hiện được cái mới, cái riêng biệt của mỗi người.
Trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử dụng phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu
cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh, đây là một trong những điều quan trọng để
phân biệt văn miêu tả với những miêu tả trong sinh học, địa lý và các thể loại
văn khác.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình
cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ
ngữ, sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài

làm của các em sẽ tốt hơn.
9

3. Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng
các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần thiết.
Muốn một bài văn hay, có “hồn’, có chất văn thì các em phải có vốn từ
ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp. Chính
vì vậy giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc, luyện từ
và câu và cả trong khi dạy các môn khác hay trong những buổi nói chuyện, trong
các tiết sinh hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo chủ đề, chủ điểm, khi
có một từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi
làm văn có thể sử dụng một cách dễ dàng. Giáo viên cũng cần khuyến khích các
em đọc sách báo để tìm hiểu thêm thông tin tư liệu, có thể xây dựng tủ sách dùng
chung trong lớp để các em trao đổi sách báo cho nhau và em nào cũng được đọc.
Hàng tuần hoặc hàng tháng giáo viên có thể tổ chức cho các em những cuộc thi
vui: thi xem ai đọc được nhiều sách báo nhất ( kể tên những đầu sách và những tên
bài mình đã đọc), thi tìm từ ngữ theo chủ đề ( học sinh tự chọn một chủ đề bất kỳ
và nêu những từ ngữ thuộc chủ đề đó mà mình đã sưu tầm được),…Sau những
cuộc thi, những buổi trao đổi như thế chắc chắn vốn từ ngữ của các em sẽ tăng lên,
khả năng giao tiếp của các em cũng sẽ khá hơn, điều này giúp ích rất nhiều cho
việc làm văn của các em.
Sau khi các em đã có vốn từ phong phú, giáo viên tiếp tục rèn cho các em
cách lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh và có sử
dụng cá biện pháp nghệ thuật đã học. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu
cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là
phải đặt cầu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá, có dùng những từ láy, từ ngữ
gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm
Ví dụ: * Miêu tả một chú gà trống. Một em đặt câu:
- Chú gà nhà em có bộ lông màu đỏ tía.
Giáo viên có thể cho các em nhận xét: Câu văn đã dủ chủ ngữ, vị ngữ, đã

rõ nghĩa. Sau đó đặt câu hỏi: Em nào đặt câu khác hay hơn để miêu tả bộ lông của
chú gà trống? - Học sinh có thể đặt câu:
10

- Chú trống choai thật oai vệ, chú khoác trên mình bộ lông màu đỏ tía,
chen lẫn màu vàng sẫm như một chiếc áo sặc sỡ của những chàng công tử.
Em khác lại có thể so sánh ngắn gọn hơn:
- Chú khoác trên mình một bộ lễ phục màu tía rực rỡ như một võ tướng.
* Hay khi miêu tả con mèo:
Một học sinh tả cái đuôi chú mèo:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng ngọc. Giáo viên hỏi: Em
nào nhận xét cách đặt câu của bạn? Học sinh có thể nhận xét : bạn đã sử dụng biện
pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một cái măng ngọc.
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái
đuôi của chú mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu
nhìn và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân
thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.
Như vậy cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú mèo
nhưng những câu văn có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá, có dùng những từ
gợi tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta cảm thấy miêu tả như
vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc người nghe.
* Nghệ thuật so sánh:
- Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
- Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
- Người rực rỡ như một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loại rơi hốt hoảng

Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.
- Sợi bông trong quả đầy dần, căng lên; những mảnh vỏ tách ra cho các
múi bông nở đều, chín như nồi cơm chín đội vung mà cười., trắng loá. Cây gạo
như treo rung rinh hàng ngàn nồi cơm gạo mới.
11

* Nghệ thuật nhân hoá:
- Bác nồi đồng hát bùng bong
Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà
- Cổng trường dang tay đón các bạn nhỏ.
- Bông hoa duyên dáng tươi cười trong nắng sớm
- Mùa xuân, sân trường khoác chiếc áo mướt xanh màu lá.
Khi đọc cho học sinh những câu văn, câu thơ như vậy, ban đầu tôi
cho các em thảo luận và phát hiện các biện pháp nghệ thuật được các tác giả sử
dụng, sau đó cho các em nêu tác dụng của các biện pháp nhgệ thuật đó, có thể
phân tích để các em hiểu cái hay cái đẹp trong từng câu văn, câu thơ. Làm như
vậy, dần dần nhiều ngày tích luỹ lại các em sẽ có vốn từ phong phú và sẽ học được
cách miêu tả sinh động của các tác giả, biết vận dụng khi làm văn.
4. Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân
môn thuộc môn tiếng Việt, vì vậy muốn dạy tốt tập làm văn cần dạy tốt các
phân môn khác.
- Ta có thể thấy, mỗi bài tập đọc là những đoạn văn mẫu mực cả về câu, từ
cả về cách cách diễn đạt, những văn bản trong các bài tập đọc đạt yêu cầu lời hay,
ý đẹp, dạy tốt tập đọc sẽ tạo điều kiện cho học sinh tăng thêm vốn từ và biết được
khả năng thể hiện của của tiếng Việt trong mọi trường hợp rất phong phú, học sinh
sẽ học tập được cách dùng từ, viết câu, diễn đạt.
Trong dạy tập đọc chủ yếu là rèn cho học sinh các kỹ năng, trong đó có kỹ
năng văn hay còn gọi là kỹ năng cảm thụ:
Làm cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong ngôn từ văn bản: âm
thanh, gieo vần, cách dùng từ, đặt câu, những biện pháp tu từ ( ví von, so sánh,

nhân hoá, từ láy, từ gợi tả, gợi cảm, )
Khám phá ý nghĩa trong mỗi đơn vị ngôn từ, biết cách giải nghĩa từ nhất là
nghĩa của từ trong từng văn cảnh – ý nhĩa xung quanh nó tạo nên nghĩa của từ:
Ví dụ: Sông Hồng bận chảy
12

Chiếc xe bận chạy
Bận : bận rộn, nhiều việc, việc nọ kế tiếp việc kia, trong văn cảnh này từ
bận là từ dành cho con người được sử dụng cho những đối tượng không phải là
con người như sông Hồng, chiếc xe đó chính là biện pháp nhân hoá mà tác giả sử
dụng nhằm nói mọi sự việc hướng tới con người, vì con người.
Hay trong bài “Chú chuồn chuồn nước” : “Ôi chao! Chú chuồn chuồn
nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lơng chú lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng như
giấy bóng, Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thuỷ tinh.Thân chú nhỏ và
thon dài như màu vàng của nắng mùa thu.”
Tác giả đã mở đầu bài văn bằng một tiếng reo thích thú, một lời trầm trồ ca
ngợi: “Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao!”. Tình cảm chứa đựng
trong câu mở đầu đã chi phối nội dung cả đoạn, những câu sau với những tính từ
miêu tả, những hình ảnh so sánh gợi lên cái đẹp trong sáng, hấp dẫn của chú chuồn
chuồn nước. Nó khiến cho người đọc những dòng chữ ấy phải thốt lên tiếng reo,
lời thán phục như tác giả đã viết.
- Với luyện từ và câu, học tốt phân môn này sẽ giúp các em có vốn
từ ngữ phong phú, biết viết đúng các kiểu câu và biết sử dụng các biện pháp tu từ
khi viết văn, học tốt luyện từ và câu sẽ gúp các em tránh được những lỗi về cấu tạo
ngữ pháp, lỗi về nghĩa và lỗi về dấu câu.
Ví dụ : Khi học về câu kể Ai là gì? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu
câu này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì ?
để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một người, một vật:
Chích bông là con chim rất đáng yêu.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.

Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
- Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không
một phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ
viết. Vì vậy muốn có bài làm văn hấp dẫn thì giáo viên cần chú ý rèn kỹ năng viết
cho học sinh trong các giờ chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh,
viết đẹp và trình bày rõ ràng, sạch sẽ.
13

- Nếu như tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng
viết cho học sinh thì phân môn kể chuyện rèn kỹ năng nói, hay nói cách khác là kỹ
năng sản sinh văn bản dưới dạng nói cho học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình
cảm, giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh
học tập cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Ví dụ: Khi học sinh học bài kể chuyện Con vịt xấu xí, các em sẽ học được
cách miêu tả của An- đéc- xen khi miêu tả hình dáng và tâm trạng của thiên nga
qua các từ ngữ: xấu xí, nhỏ xíu, quá nhỏ, yếu ớt, buồn lắm, dài ngoẵng, gầy guộc,
vụng về, vô cùng sung sướng, Qua câu chyện học sinh cũng có được lời khuyên:
Ai cũng có những cái đẹp riêng, ta phải biết nhận ra cái đẹp của người khác, phải
luôn yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Từ đó học sinh biết yêu thương, giúp đỡ bạn
bè và mọi người xung quanh.
Nói tóm lại, các phân môn của tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung
riêng, phương pháp riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau mà luôn
bổ sung cho nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân
môn khác. Với phân môn tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những
phân môn khác, muốn học tốt tập làm văn học sinh cần học tốt các phân môn còn
lại.
5. Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài:
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường
thu hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề
mà người viết trình bày, Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng đoạn

văn mở bài và kết bài là rất cần thiết.
- Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở
bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài
theo cách nào mà để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và
phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn
đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng những câu
14

thơ, những câu hát, nhưng phải bám sát vào yêu cầu của đề, không lan man, xa
đề, không rườm rà. Giáo viên có thể cho học sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân
tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn khác nhận xét. Chẳng hạn với
bài tả con mèo, một học sinh mở bài: “Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ mua được một
con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em, nay đã được bốn
tháng.”
Giáo viên nêu câu hỏi: đây là cách vào bài nào? ( trực tiếp) – Giáo viên
nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn: “Nhà em từ lâu đã
không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính gác cừ khôi, đó
chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền dịu nhưng cũng
thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em.”
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như
sau:
“Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ có dễ phải hàng trăm năm tuổi. Cả
làng gọi đó là cây đa ông Đài, vì ông Đài là người trồng ra nó, nhưng ông Đài là
ai, sống và chết từ bao giờ thì cả làng không ai nhớ cả.”
Học sinh khác lại viết: “Từ bến đò phía xa em đã nhìn thấy làng em.
Phải qua một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em đã
nhìn thấy làng quê yêu dấu: cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi
lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa làng quê đang giơ tay vẫy chào, đón
đợi.” Từ các cách mở bài khác nhau cho các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay
để mở bài một cách hợp lý nhất.

- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng
lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người
viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc
của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em
thường làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay,
chưa hấp dẫn người đọc.Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết
cách làm phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên
15

thông qua những câu hỏi gợi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc
để có được những kết bài hay.
Ví dụ:
+ “Mới ngày nào vào học lớp Một, nghe tiếng trống trường ngày khai
giảng mà hồi hộp. Thế mà nay em đã là cậu học sinh lớp Bốn rồi. Càng thấy yêu,
càng thấy nhớ cái âm thanh rộn ràng ấy mỗi buổi mai khi hừng đông rực đỏ.”
+ “Trống trường quả là người bạn thân thiết của tuổi học trò. Mai đây lớn
lên, chúng em dù có đi bất cứ nơi đâu cũng không thể quên tiếng trống trường.
Tùng! Tùng! Tùng! Trống gọi em về với những bài giảng của thầy cô, với những
nụ cười, ánh mắt của bạn bè.”
+ “Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng của
dòng đời. Cô giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bến đò, hoặc đi xa về, ngắm
nhìn ba cây gạo, em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn quê, là tình quê
vơi đầy.”
Văn chương không phải là sự đúng, sai, với làm văn đúng thôi chưa đủ mà
phải phải thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm không phải là thứ gò
ép bắt buộc, tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các
em. Bài văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ
bộc lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo
viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách
thường xuyên liên tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập

xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.
6. Chuẩn bị kỹ càng phần củng cố bài trong các tiết tập làm văn:

Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học nhưng lại
là lúc giáo viên tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra hướng kiến
thức mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý để phần củng cố bài hấp dẫn, thu hút
được sự chú ý của các em.
16

Chẳng hạn, trong tiết luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật, phần
củng cố bài, giáo viên có thể đọc cho các em nghe một vài đoạn như sau:
“Tô-ny lớn nhanh như thổi. Giờ đây, nó đã là một chú chó trưởng thành
với hình dáng cân đối và đẹp đẽ. Toàn thân nó phủ một lớp lông dày màu vàng
nâu. Hai tai luôn dỏng lên nghe ngóng động tĩnh. Đôi mắt to, sáng. Lỗ mũi đen,
ướt, đánh hơi rất thính. Cái lưỡi màu hồng thè dài và hàm răng trắng bóng với bốn
răng nanh cong và nhọn. Tô-ny có dáng như chó săn. Cái ức nở đầy đặn, bụng
thon, bốn chân cao gân guốc và vững chãi. Cái đuôi xù cuốn tròn thành chữ “O”
trên lưng”.
“ Con Rô sạch sẽ lắm. Mỗi lần mẹ gọi: “Rô đi tắm” là nó vẫy đuôi chạy
theo, ngoan ngoãn như một đứa bé được nuông chiều. Thân hình nó không hề có
một con bọ, con rận nào cả. Không biết mẹ dạy con rô từ bao giờ mà nó biết đi vệ
sinh vào một chỗ phía sau nhà. Nó rất ý tứ. Mỗi khi có khách đến chơi nhà nó nằm
im trên tấm đệm, đôi tai vểnh lên nghe bố mẹ và khách nói chuyện. Khách đứng
dậy ra về, con Rô cũng theo bố mẹ em đi ra cửa như để tiễn chân khách”.
- Các đoạn văn mẫu đọc cho học sinh nghe cũng cần lựa chọn kỹ càng, có
nội dung phù hợp, cùng chung một chủ đề, lời văn phải trong sáng, dễ hiểu, cụ thể,
gần gũi với các em. Có thể lấy những đoạn văn của những nhà văn lớn, cũng có
thể lựa chọn những đoạn văn hay của giáo viên, học sinh hoặc là những đoạn văn
của các bài tập đọc mà các em được học trong chương trình. Chẳng han, khi dạy
về văn miêu tả con vật có thể chọn những đoạn văn trong bài “Con chuồn chuồn

nước”, “Con sẻ”, Các đoạn văn đưa ra cũng không nên quá dài hay quá ngắn vì
nếu dài quá học sinh sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo nội dung. Đặc
biệt đoạn văn cần phải được diễn đạt mạch lạc, đúng cấu trúc ngữ pháp, lời văn
giản dị, câu văn giàu hình ảnh và phải mang tính mẫu mực cả về nội dung và hình
thức.
- Khi đưa ra các đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh giá để học sinh
thấy được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung
miêu tả, sự khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành văn.
17

Ví dụ: Đọc cho học sinh nghe đoạn văn “ Những cánh bướm bên bờ
sông” : “ Ngoài giờ học, chúng tôi tha thẩn ở bờ sông bắt bướm. Chao ôi, những
con bướm đủ màu sắc, đủ hình dáng. Con xanh biếc pha đen như nhung, bay
nhanh loang loáng.Con vàng sẫm nhiều hình mặt nguyệt, ven cánh có răng cưa,
lượn lờ đờ như trôi trong nắng. Con bướm quạ to bằng hai bàn tay người lớn, màu
nâu xỉn, có hình đôi mắt tròn, vẻ dữ tợn. Bướm trắng bay theo đàn líu ríu như hoa
nắng. Loại bướm nhỏ đen kịt, là là theo chiều gió hệt như tàn than của những đám
đốt hương ”
Phân tích: Đoạn văn ngắn gọn nhưng đã miêu tả khá sinh động vô số loài
bướm. HÌnh ảnh những chú bướm hiện lên qua con mắt của mấy cậu học trò vốn
say mê với thiên nhiên. Một từ tha thẩn miêu tả cảnh các cậu ra bờ sông bắt bướm,
một từ chao ôi diễn tả cảm xúc mạnh mẽ trong lòng các cậu đến bật thành tiếng
kêu chứng tỏ sự kinh ngạc và lòng say mê của các cậu học trò đến tột độ, tạo nền
cho bài miêu tả, tạo nền cho hình ảnh những cánh bướm xuất hiện. Liên tiếp sau
đó, mỗi câu văn được tác giả dùng để nói tới một con bướm. Mỗi con bướm lại
được tả bằng các tính từ, các hình ảnh so sánh gợi vẻ đẹp đầy hấp dẫn: đen như
nhung, loang loáng, vàng sẫm, lượn lờ đờ như trôi trong nắng, líu ríu như hoa
nắng, Tác giả đã khéo chọn những hình ảnh mới mẻ, độc đáo để so sánh làm nổi
bật dáng bay của từng loại bướm. Nó làm nên vẻ đẹp hấp dẫn riêng của đoạn văn
miêu tả này.

Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng như vậy sẽ giúp
học sinh hình dung ra đối tượng miêu tả một cách cụ thể, sinh động hơn, giúp học
sinh vận dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình.
7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài:

Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến
việc nghiên cứu khoa học nghiêm túc đều phải thực hiện theo một chu trình nhất
định, bắt đầu từ việc lập kế hoạch đến viếc triển khai thực hiện kế hoạch đó và
cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đề ra.
18

Để làm việc có hiệu quả, mang lại sự thành công thì không thể bỏ qua bất cứ khâu
nào trong các khâu trên, nhất là với khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá
thì mới có thể biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã thực hiện, để
điều chỉnh cho những việc tiếp theo.
Muốn có được tiết trả bài có hiệu quả cao thì việc chấm bài là rất quan
trọng. Giáo viên cần chấm bài thật kỹ càng, chữa từng lỗi nhỏ trong bài viết cho
học sinh. Khi chấm bài phát hiện ra lỗi của học sinh giáo viên cần ghi lại cẩn thận
các lỗi của học sinh theo từng loại: lỗi về cách dùng từ, lỗi câu, lỗi diễn đạt, lỗi
chính tả, và cũng cần ghi lại các từ, câu hay đoạn văn hay. Sau khi chấm bài giáo
viên cần thống kê điểm số, đưa ra được nhận xét chung nhất về ưu, nhược điểm
trong bài viết của học sinh, thống kê được các lỗi mà học sinh thường mắc và
những câu văn, đoạn văn hay.
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài
soạn đã hướng dẫn, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ
nhàm chán. Sau phần giáo viên nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học
sinh theo từng loại lỗi đã thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay
đã chuẩn bị trước.Sau đó, giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo
luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho
nhau nghe các câu văn hay hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh

sẽ thấy rõ được ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa
chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy
cũng sẽ giúp học sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực hành viết
văn và trong cả giao tiếp hàng ngày.
8. Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học góp phần làm nên 50% sự
thành công trong dạy học:
Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn
bị cũng chính là lập kế hoạch cho công việc mình định làm, đó là việc làm đầu
tiên, tất yếu của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người
19

giáo viên. Bài soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế
hoạch bài học.
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng
thiết thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả năng
lực, phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu
học sinh, năng lực ngôn ngữ, lòng yêu nghề, niềm tin, sự nhiệt tình và lòng đam
mê nghề nghiệp. Giáo án có chất lượng phải chuyển hoá được những kiến thức
của sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên tức là giáo án được
hiện thực hoá qua bài giảng trên lớp chứ không thể là tờ giấy vô tri vô giác chỉ để
giám hiệu ký duyệt cho “đủ thủ tục”.
Mỗi người giáo viên cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc chuẩn
bị kế hoạch bài học trước khi lên lớp, kế hoạch ấy có thể được ghi chép lại cẩn
thận trong giáo án, cũng có thể là sự suy nghĩ sắp xếp trong trí óc miễn là nó phải
được thực hiện một cách nghiêm túc và hết sức tự giác. Có kế hoạch bài giảng chu
đáo tức là giáo viên đã chuẩn bị tốt mọi nội dung thực hiện trên lớp, từ tiết lý
thuyết đến các tiết thực hành xây dựng đoạn văn và tiết trả bài, từ phần kiểm tra
bài cũ đến phần củng cố bài học. Như vậy giáo viên có thể thực hiện được bảy
biện pháp trên một cách dễ dàng và chất lượng dạy học chắc chắn sẽ được nâng
cao.

Qua nghiên cứu thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra các giai đoạn của việc
soạn giáo án một bài cụ thể như sau:
- Giai đoạn 1: Xác định mục tiêu bài học
- Giai đoạn 2: Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học.
- Giai đoạn 3: Lựa chọn phương pháp dạy học.
- Giai đoạn 4: Thiết kế các hoạt động dạy học.
Muốn có đầy đủ thông tin và kiến thức cho một bài giảng, thực hiện được
tốt các giai đoạn trên, người giáo viên cần không ngừng học tập nâng cao trình độ,
tham gia đủ các lớp học chuyên môn, các buổi hội thảo do nhà trường và các cấp
quản lý triển khai, chịu khó sưu tầm các loại sách vở liên quan đến chuyên môn, tự
lập cho mình tủ sách riêng dể tiện tra cứu khi cần thiết. Đặc biệt trong thời đại mà
20

khoa học công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ, người giáo viên hơn ai hết
phải là người đi đầu trong việc tự học tập để tiếp thu khoa học công nghệ thông tin
hiện đại ấy. Việc tra cứu tìm tư liệu trên mạng cũng rất đơn giản, lại không tốn
kém đáng kể về kinh tế, ngoài giờ lên lớp, mỗ ngày ta có thể dành một giờ để lên
mạng tìm những thông tin cần thiết cho các bài giảng, như vậy vốn kiến thức của
chúng ta sẽ phong phú lên rất nhiều và bài giảng chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn, nhất là
với việc dạy văn miêu tả thì điều này lại càng cần thiết.
Dạy văn miêu tả lớp 4 là một việc làm khó, nhất là nếu chúng ta đơn độc
thực hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ của tập thể, của bạn bè
đồng nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần nghiêm túc trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp
về chuyên môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Mỗi buổi có thể
trao đổi về một chủ đề, về một tiết tập làm văn nào đó, có thể cả tổ xây dựng mỗi
tiết một giáo án mẫu sau đó về nhà mỗi người sẽ tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh
lớp mình mà cụ thể hoá thành kế hoạch của riêng mình. Như vậy sẽ phát huy được
sức mạnh của tập thể và mỗi chúng ta cũng học hỏi được từ đồng nghiệp rất nhiều.
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức
phát triển của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi cả

tâm hồn mình vào trong bài dạy, thày trò phải cùng đắm mình vào đối tượng miêu
tả theo một dòng cảm xúc, cùng hoà chung tình cảm để cùng tìm hiểu và cảm nhận
với niềm say mê, thích thú. Muốn vậy người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng trước khi lên lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội dung, phương pháp,
đồ dùng, phương tiện dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ của
học sinh. Phải tìm tòi, nghiên cứu để có được những câu hỏi gợi mở phù hợp với
trình độ học sinh, chuẩn bị cả những từ, những câu văn thích hợp để sửa sai hoặc
để làm mẫu cho học sinh.Nó đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong suốt quá
trình dạy học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo mới cho giáo viên có được những giờ
dạy văn miêu tả mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu không có những sáng tạo mới trong
dạy tập làm văn nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu tả chỉ là sự liệt kê các chi
tiết của đối tượng miêu tả, giờ học sẽ gượng ép, gò bó, thiếu tâm hồn văn học.

21

B. THC NGHIM DY HC và kết quả đạt đợc
Vi cỏc bin phỏp nh trờn tụi ó xin phộp ban giỏm hiu Trng Tiu
hc Xuân Châu, ngh giỏo viờn chủ nhiệm lp 4A v 4B ( do tôi chủ nhiệm)
tin hnh thc nghim trong 2 thỏng vi 10 tit tp lm vn miờu t. Lp 4A do cô
giáo Đinh Thị Thêu ch nhiờm, lp 4B do tôi chủ nhiệm. Hai lp cú tng s hc
sinh gần bng nhau, trỡnh hc lc cng ngang nhau.Lp 4B của tôi ó thc hin
cỏc bin phỏp trờn trong dy vn miờu t, cũn cô Đinh Thị Thêu vn dy bỡnh
thng. Sau khi tin hnh ging dy 10 tit tp lm vn miờu t theo ỳng chng
trỡnh, tụi ó cho hc sinh c 2 lp lm bi kim tra vit vi 2 bi :
1: Hóy miờu t mt cõy cho búng mỏt sõn trng em m em
thớch nht. Chỳ ý m bi theo cỏch giỏn tip.
2: Hóy miờu t mt cõy hoa m em thớch. Chỳ ý kt bi theo li m
rng.
Kt qu c th thu c nh sau:
Lp

S
HS

im gii im khỏ im TB im yu
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
4A 28
1 7 25,0 8 28,6 8 28,6 5 17,9
2 6 21,4 9 32,1 7 25,0 6 21,4
4B 25
1 13 52,0 7 28,0 3 12,0 2 8,0
2 12 48,0 8 32,0 3 12,0 5 22,8

Rừ rng khi i chiu kt qu bi lm ca 2 lp vi bi nh nhau, tụi
thy cht lng ca lp 4B hn hn. Bi lm ca nhiu em lp 4B ó cú tin b rừ
rt, cỏc em c bit vit vn miờu t giu hỡnh nh, giu cm xỳc, c bit nhiu em
ó bit cỏch s dng cỏc bin phỏp ngh thut nh: nhõn hoỏ, so sỏnh, dựng ip
t, ip ng , bi lm sinh ng, cm xỳc chõn tht. Tuy vn cũn mt s ớt bi vit
khụ cng, lit kờ cỏc chi tit ca i tng miờu t nhng khụng cú hin tng sao
chộp vn mu, cng khụng cú nhng bi lm na nỏ nh nhau. Mc dự mi l s
chuyn bin ớt i nhng trong ging dy nht l dy tp lm vn thỡ kt qu nh
vy cng l iu ỏng quý. Mt khỏc cỏc phng phỏp ny mi ch c ỏp dng
22

trong 10 tiết tập làm văn- một thời gian quá ngắn, nếu có thể thực hiện từ khi dạy
tập làm văn ở lớp 2,3 thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ còn
khả quan hơn rất nhiều.
KẾT LUẬN VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
1. KẾT LUẬN:
Từ thực tế Trường Tiểu học Xu©n Ch©u, tôi thấy để nâng cao chất lượng
dạy tập làm văn người giáo viên cần tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, hiểu đặc điểm

tâm lý của các em, hiểu và nắm chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần
giúp các em hiểu rõ các đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
Vì tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn thuộc
môn tiếng Việt nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng cần thiết phải dạy tốt các
phân môn còn lại, cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, để khi thực hiện kế hạch
bài học trên lớp giáo viên cần đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có sử
dụng các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em những đoạn văn mẫu, giúp
các em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập vận dụng vào bài
làm của mình. Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các quá trình
hoạt động, đó chính là khâu kiểm tra, đánh giá nhằm điều chỉnh cho những hoạt
động tiếp theo. Trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho
học sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết
sau sẽ hoàn thiện hơn, hấp dẫn hơn.
Không phải ai sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn
chương mà khả năng ấy phải được bồi đắp dần qua năm tháng, qua trang sách và
những bài giảng hàng ngày của thầy cô. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học
sinh thì chính mỗi người giáo viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương
pháp học tập như những cây non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc,
vun xới thì nó sẽ trở lên tươi tốt. Với học sinh lớp 4, các em không thể vừa bắt tay
vào viết văn đã có được những dònh văn hay mà văn hay là là kết quả của một quá
23

trình rèn luyện liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Văn hay không thể có được ở những học
trò lơi là đèn sách . Với tinh thần đó, việc rèn kỹ năng làm văn vừa để nhằm mục
đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao ý thức tự rèn luyện của học
sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành bài tập nghiên cứu khoa học
này.
2.Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
Để kết quả của đề tài có thể được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả , tôi xin
có một số ý kiến đề xuất sau đây

* Đối với Phòng GD&ĐT:
- Hàng năm cần tổ chức các phong trào thi đua viết thơ văn, sáng tác nhỏ
của tuổi thơ để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.
- Thường xuyên mở các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên đề với các
chuyên giavề dạy và học tập làm văn để giáo viên được tiếp xúc, học hỏi kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy.
- Trong các kỳ hội giảng, hội thi nên khuyến khích giáo viên dạy tập làm
văn để trao đổi tìm ra phương pháp hay.
- Có chế độ thi đua khen thưởng rõ ràng khuyến khích giáo viên có thành
tích cao trong giảng dạy.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường: Trang bị những
phương tiện thông tin hiện đại, phục vụ cho bài dạy.
* Đối với Ban giám hiệu nhà trường:
- Tăng cường đầu sách trong thư viện để giáo viên có đủ tư liệu tham khảo
phục vụ cho giảng dạy nhất là các tạp chí: Giáo dục tiểu học, Thế giới trong ta,
- Nâng cao hiệu quả các giờ chuyên môn, khuyến khích giáo viên đầu tư
trao đổi kế hoạch bài học, cùng thống nhất soạn giáo án tập thể để phát huy sở
trường của từng cá nhân và sức mạnh của cả tập thể.
- Hàng năm thường xuyên tổ chức cho giáo viên và học sinh đi thăm quan
du lịch để nâng cao hiểu biết về cảnh vật, đất nước và con người Việt Nam.
24

Xu©n Ch©u, ngµy 20 th¸ng 04 n¨m 2010.

Ngêi viÕt

NguyÔn Huy Hoµng

25

×