Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.84 KB, 15 trang )

Chuẩn mực lập báo cáo tài chính
quốc tế (IFRS)
Giữa những năm 1973 và năm 2000, chuẩn mực quốc tế phát
hành. Trong thời kỳ này các nguyên tắc kế toán được biểu hiện là
chuẩn mực kế
toán quốc tế (IAS). Từ năm 2001, Hội đồng chuẩn mực kế toán
quốc tế mô tả các
nguyên tắc kế toán với tên gọi mới là Chuẩn mực lập BCTC quốc
tế, mặc dù các
chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn tiếp tục được thừa nhận.


Năm 2005, đánh dấu sự bắt đầu của kỷ nguyên mới về cách
quản lý kinh doanh toàn
cầu và hoàn thành sự nỗ lực trong 30 năm bằng việc ban hành
các nguyên tắc lập
BCTC cho thị trường vốn trên thế giới. Cũng trong năm này, rất
nhiều quốc
gia đã chính thức áp dụng hệ thống chuẩn mực lập BCTC được
xây dựng phù hợp với
quốc gia mình và bắt đầu áp dụng từ
1/1/2005, như Úc, Hồng Kông, các nước Châu
Âu…


Hầu hết các nguyên tắc kế toán được chấp nhận phổ biến
(GAAP) của các quốc gia
đã bị giảm tầm quan trọng hoặc đang dần dần được thay thế bởi
IFRS. Cụ thể,
Canada thông báo GAAP (mà tương tự như
GAAP của Mỹ) sẽ thay thế bằng IFRS vào năm 2011. Ngoại trừ


GAAP của Mỹ được coi
như là sức ép cạnh tranh trong chuẩn mực kế toán và trong
tương lai cần thiết
có sự hợp nhất giữa GAAP của Mỹ và IFRS.


IFRS do Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) và Hội đồng
giải thích lập
BCTC quốc tế (IFRIC) biên soạn theo định hướng thị trường vốn
và hệ thống lập
BCTC. Phương thức lập BCTC được mô tả là tập trung vào mối
quan hệ giữa doanh
nghiệp với nhà đầu tư và tập trung vào luồng thông tin đến thị
trường vốn. Cơ
quan nhà nước vẫn sử dụng BCTC như là hoạt động kinh tế, tuy
nhiên BCTC này
được lập cho mục đích của nhà đầu tư.


IFRS được áp dụng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư. Cụ thể,
BCTC cung cấp thông tin toàn diện, đúng đắn, kịp thời và do đó
nhà đầu tư có
nhiều thông tin về thị trường vốn giảm được rủi ro trong việc đưa
ra quyết định
kinh tế. BCTC được định dạng theo biểu mẫu thống nhất và loại
trừ sự khác biệt
trong chuẩn mực kế toán, các thông tin trên BCTC có tính so
sánh qua đó sẽ giúp
cho các nhà đầu tư giảm chi phí trong việc xử lý thông tin kế toán,

giảm sự
khác biệt khác biệt quốc tế trong chuẩn mực kế toán. Ngoài ra,
chất lượng thông
tin cao hơn, tính minh bạch rõ ràng sẽ làm giảm rủi ro cho các
nhà đầu tư.


Đặc điểm cơ bản của IFRS thông qua các chuẩn mực đó là
nguyên tắc giá trị
hợp lý được đề cập nhiều hơn. Đáng chú ý đó là việc áp dụng giá
trị hợp lý
trong các chuẩn mực IAS 16, 36, 38, 39, 40, IFRS 2, IFRS 3.
Danh sách các chuẩn
mực sử dụng giá trị hợp lý sẽ nhiều thêm qua thời gian. Chuẩn
mực lập BCTC hiện
tại (IAS và IFRS) bao gồm:
IAS 1: Trình bày BTCT
IAS 2: Hàng tồn kho
IAS 7: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
IAS 8: Chính sách kế toán, sự thay đổi trong ước
tính kế toán và sai sót
IAS 10: Các sự kiện phát sinh sau ngày thành lập
Bảng cân đối kế toán
IAS 11: Hợp đồng Xây dựng
IAS 12: Thuế Thu nhập doanh nghiệp
IAS 14: Báo cáo thông tin tài chính theo bộ phận
IAS 16: Tài sản, nhà cửa và thiết bị
IAS 17: Kế toán về thuê tài sản
IAS 18: Doanh thu
IAS 19: Lợi ích người lao động

IAS 20: Kế toán đối với nguồn tài trợ và trình
bày sự hỗ trợ của chính phủ
IAS 21: Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối
đoái
IAS 23: Chi phí đi vay
IAS 24: Trình bày các bên liên quan
IAS 26: Kế toán và báo cáo lợi ích hưu trí
IAS 27: BCTC hợp nhất và riêng biệt
IAS 29: Lập BCTC trong nền kinh tế siêu lạm phát
IAS 31: Lập BCTC về lợi ích của liên doanh
IAS 32: Công cụ tài chính: Trình bày
IAS 33: Lãi trên cổ phiếu
IAS 34: Lập BCTC tạm thời
IAS 36: Giảm giá trị tài sản
IAS 37: Dự phòng, công nợ và tài sản ngẫu nhiên
IAS 38: Tài sản cố định vô hình
IAS 39: Công cụ tài chính: ghi nhận và đo lường
IAS 40: Tài sản đầu tư
IAS 41: Nông nghiệp
IFRS 1: Áp dụng lần đầu IFRS
IFRS 2: Thông tin dựa trên cổ phiếu
IFRS 3: Hợp nhất kinh doanh
IFRS 4: Hợp đồng bảo hiểm
IFRS 5: Tài sản dài hạn chờ để bán và hoạt động
gián đoạn
IFRS 6: Thăm dò và đánh giá tài sản nguyên khoáng
sản
IFRS 7: Công cụ tài chính: Trình bày
IFRS 8: Bộ phận kinh doanh
Theo kế hoạch của IASB, trong thời gian tới IASB sẽ tập

trung vào những vấn đề liên quan đến IFRS. Vấn đề lập báo cáo
(hiện được đổi
tên là trình bày BCTC) là công việc ưu tiên phải làm. Đầu tiên là
giải quyết
những gì những gì được trình bày trên BCTC, dẫn đến việc sửa
đổi dự án ghi nhận
doanh thu thông qua việc phân tích tài sản, nợ phải trả thay vì
phương pháp
hiện nay tập trung vào các nghiệp vụ đã hoàn thành và doanh thu
đã thu được
tiền. Phương pháp này có ảnh hưởng lớn về thời gian ghi nhận
lợi nhuận, do đó
dẫn đến việc ghi nhận doanh thu theo các giai đoạn thông qua
chu trình nghiệp
vụ. IASB cũng tiếp tục xem xét lại chuẩn mực hợp nhất kinh
doanh, cũng như nỗ
lực hợp nhất giữa IFRS và GAAP của Mỹ…


Có thể nói rằng việc áp dụng IFRS đã mở ra một thời kỳ mới làm
thay đổi cách
thức ghi nhận, đo lường và trình bày các chỉ tiêu và khoản mục
trên BCTC. IFRS
được chấp nhận như chuẩn mực chuẩn mực lập BCTC cho các
công ty tìm kiếm sự
thừa nhận trên thị trường chứng khoán thế giới. Việc áp dụng
IFRS sẽ tăng khả
năng so sánh của các thông tin tài chính và tăng chất lượng
thông tin cung cấp
cho các nhà đầu tư, giảm sự bất định trong đầu tư, giảm rủi ro

đầu tư, tăng
hiệu quả của thị trường và giảm thiểu chi phí vốn. Hơn nữa,
thông qua việc áp
dụng IFRS sẽ giảm ngăn cách buôn bán chứng khoán bằng việc
đảm bảo BCTC minh
bạch hơn. BCTC được lập theo IFRS dễ hiểu và có thể so sánh
sẽ cải thiện và tạo
lập mối quan hệ với người sử dụng BCTC.


Tuy nhiên, việc áp dụng IFRS cũng không hoàn toàn dễ dàng đối
với các doanh
nghiệp. Một trong những thách thức đó là phải có đội ngũ nhân
viên kế toán và
tài chính có năng lực. Điều này không phải là vấn đề đơn giản vì
IFRS được coi
là rất phức tạp ngay cả đối với các nước phát triển. Theo đó,
phương pháp hạch
toán các giao dịch theo IFRS dựa trên bản chất các giao dịch và
dựa trên
nhiều xét đoán và đánh giá phân tích của các nhà quản lý, những
người sẽ tư vấn
cho kế toán viên lập BCTC. Hơn nữa, để áp dụng IFRS đơn vị
phải bỏ ra chi phí
ban đầu lớn, xây dựng lại hệ thống thu thập, xử lý và trình bày
các thông tin
tài chính.



×