Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tại sao phải tăng cường giám sát thị trường tài chính doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.87 KB, 22 trang )

Tại sao phải tăng cường giám sát thị
trường tài chính trong giai đoạn hiện nay
V
ề thị tr
ư
ờng t
ài chính:

Theo Mishkim (1995)thì: “thị trường trong đó vốn được chuyển
dịch từ người có vốn dư thừa với những người thiếu vốn”
Cơ cấu thị trường tài chính theo quan điểm của nước Anh, Mỹ
Theo chúng tôi quan niệm về thị trường tài chính như trên cần
phải làm rõ hoặc bổ sung thêm ba loại thị trường nữa đó là:
+ Thị trưởng vàng bạc
+ Thị trường tài chính phát sinh
+ Thị trường bảo hiểm và các quỹ hưu trí
Bởi vì có thể nói đồng tiền cuối cùng, tiền của các loại tiền chính
là vàng.Vàng tiền là hai thước đo thực sự của mọi hàng hóa. Nó
có vai trò giống như ngân hàng của các ngân hàng vậy. Do đó,
khi bàn đến thị trường tài chính phải có thị trường vàng.
Thị trường tài chính phát sinh trong thời đại hiện nay có vai trò r
ất
to lớn, đa dạng và phong phú. Ví dụ, bên cạnh thị trường này có
các thị trường tài chính phát sinh về vàng; bên cạnh thị trư
ờng cổ
phiếu có có thị trường tài chính c
ổ phiếu phát sinh, trái phiếu phát
sinh: Hợp đồng giao hàng chậm; Hợp đồng viễn kỳ điều kiện;
Hợp đồng viễn kỳ biên lượng; Đối xứng delta và các hợp đồng
quyền kỳ hạn khác v.v…
Năm 2006, tổng quy mô trên thị trường tài chính phát sinh đạt


370.000 tỷ USD tương đương với 8 lần GDP của toàn thế giới
(1). Do vậy, bàn đến giám sát thị trường tài chính mà không nói
tới thị trường tài chính phát sinh là một khiếm khuyết lớn.
Vì sao phải giám sát thị trường tài chính: Bắt nguồn từ sự hình
thành thị trường tài chính:
- Do kinh tế hàng loạt phát triển đến một độ nhất định thì ti
ền tệ ra
đời, trước hết là tiền vàng, tiền giấy có bản vị vàng.
- Khi trao đổi hàng hóa phát sinh mua bán chịu làm nảy sinh các
kỳ phiếu thương mại rồi tiền tín dụng thương mại đi đế, tiền tín
dụng chung, do Ngân hàng được Nhà nước bảo trợ phát hành
làm cho thực chất tiền tín dụng là tờ “ phiếu nợ” tờ phiếu nợ dần
thay thế tiền vàng.
- Kết quả chế độ tín dụng gắn với nghề kinh doanh tiền tệ làm
xuất hiện thị trường tài chính.
- Hệ thống tiền tệ và hệ thống tín dụng chủ yếu dựa vào yếu tố
tâm lý và lòng tin, giống như các con chiên tin vào Chúa. Mác nói
rằng: Hệ thống tiền tệ và thực chất là hệ thống của hệ thống của
đạo Thiên Chúa, còn hệ thống tín dụng về thực chất là hệ thống
lãnh đạo của Tin Lành” mà cơ sở của đạo Tin Lành là đạo Thiên
Chúa.
Do vây, cả hệ thống tín dụng hiện nay là nguồn gốc sinh ra thị
trường tài chính, có tính hai mặt rõ rệt: mặt tích cực, mặt tiêu c
ực:
- Mặt tích cưc của thị trường tín dụng là ở chỗ làm cho lực lượng
sản xuất phát triển nhanh, mạnh, thực hiện xã hội hóa, quốc tế
hóa v.v…
- Nhưng mặt tiêu cực: nó là đòn bẩy mạnh nhất gây ra tình trạng
sản xuất thừa và đầu cơ quá mức phá vỡ các xiềng xích giới hạn
nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa gây ra những

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như hiện nay.
Đó cũng là tính hai mặt của thị trường tài chính ngày nay. Do
vây, giám sát thị trường tài chính đặt ra nhằm mục đích hạn chế
bớt tiêu cực của thị trường tài chính phục vụ tăng trưởng bền
vững nền kinh tế thế giới.
Bắt nguồn từ thực tiễn:
- Thực tiễn thế giới tư bản đang có cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu rất nặng nề, mà nguyên nhân chính là sự giám sát thị
trường tài chính lỏng lẻo.
- Thực trạng Việt Nam: có nhiều Ngân hàng thương mại, kinh
doanh đã để mất hàng chục triệu USD, lấy cắp tiền Ngân hàng,
hàng trăm tỷ đồng mà phát hiện rất chậm còn có thể có nhiều vụ
chưa phát hiện được, thực tế đó đòi hỏi phải xây dựng cơ chế
giám sát thị trường tài chính tốt hơn.
- Một hiện tượng thứ 2: Các ngân hàng thương mại có dấu hiệu
mất khả năng thanh toán một thời gian. Chứng cớ là họ phải huy
động vốn qua đêm, qua ngày, qua tuần và tháng với lãi suất rất
cao.
- Ngân hàng thương mại đang hoạt động ngược lại với quy luật
như:
+ Lấy vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn trong khi lãi suất ngăn hạn
càng ngày càng cao hơn lãi suất dài hạn nhiều lần.
+ Lãi suất thấp hơn mức lạm phát nhiều lần: ước tính lạm phát
2008 không dưới 2 con số 24% trong khi lãi suất huy động của
Ngân hàng không quá 18-20%. Đó là lãi su
ất thực âm. Vậy không
thể bảo đảm lợi ích của khách hàng (nhà gửi tiền được vv…).
+ Lạm phát như hiện nay có phần bắt nguồn từ việc giám sát thị
trường tài chính, không có hiệu quả.
- Hiện nay giám sát thị trường tài chính đang chủ yếu dựa vào

giám sát nội bộ của từng ngành, từng bộ. Chứ chưa có tổ chức
đủ mạnh giữa giám sát thị trường tài chính.
- Vấn đề quốc tế thị trường tài chính tự do hóa thị trường tài
chính, đặt ra phải có sự giám sát toàn diện chặt chẽ đủ mạnh để
vừa có thể giữ được tính độc lập tự chủ của thị trường tài chính
vừa hòa nhập tự do hóa tài chính theo hội nhập quốc tế.
Trước hết phải hiểu Viện Fes,IMF, WB, vv… là nh
ững tổ chức
tài chính đang chi phối toàn thế giới. Viện Fes: Đó là m
ột ngân
hàng cổ phần tư nhân mà đứng đầu là 7 tài phi
ệt ở phố Wall Mỹ
(đứng đầu là Morgan, Rochefeller, William)
Viện Fes kết hợp với ngân hàng TW Anh cũng là một ngân
hàng tư nhân và bán tư nhân làm thành trục tài chính quốc tế chi
phối cả thế giới mà trước đây ta đã nghe nói đến đó là bọn đầu
sỏ tài chính.
Thế lực Fes đè nặng lên đầu Tổng thống Mỹ và các chính phủ
trên thế giới thế nào?
Nhóm tài phiệt Mỹ đã tạo ra một cơ chế kiểm soát nguồn cung
ứng tiền xuyên quốc gia. Có chế độ, thực hiện chính sách bơm
tiền vào các nền kinh tế. Sau đó chính nổ quả bong bóng kinh tế
đó thu lợi như đã làm ở Ý, ở Thái Lan trong cuối thể kỷ 20 vừa
qua (1990 và 1997)
Drogchin nói: chỉ cần khống chế được quyền phát hành về tiền
của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc vào bất cứ thứ pháp
luật nào do ai đặt ra”
Xem ra dựa vào pháp luật để giám sát thị trường t
ài chính chưa
chắc đã thắng được mọi thế lực đen tối.

Hai là: Viện Fes có tổ chức Hội đồng tư vấn liên bang bao gồm
các bang nằm trong ngân hàng chư chốt trong đó số 1 là Ngân
hàng Newwork
Ba là: Họ có lý thuyết vòng cung khủng hoảng đó bảo vệ sức
mạnh tài chính nhằm hạn chế đồng Ero của Châu Âu nhậm vào
OPEC, để OPEC cung ứng dầu và gửi tiền bán dầu vào Ngân
hàng Châu Âu. Đó là một trong ý đồ chiến tranh Irac, Trung Đông
của Mỹ và Anh.
Bốn là: vai trò Fes được các tổng thống và các Thủ tư
ớng đánh
giá như sau: NapoLeong vay tiền của Ngân hàng,
các Ngân hàng
nắm cục diện của Chính phủ. Bởi vì kẻ trao tiền bao giờ cũng có
thể hơn kẻ nhận tiền (vay tiền)
- Từ đây ta thấy vấn đề nợ IFM, WB hay một nhóm tài phiệt nào
đó nhất định có ngày họ ăn thịt. Do vậy vấn đề giám sát thị
trường tài chính trong đó có sự giám sát về các khoản nợ là rất
quan trọng.
Tổng thống Mỹ Lincon nói: Tôi có hai kẻ thù, trong đó kẻ thù
sau lưng là cơ cấu tiền tệ là kẻ thù nguy hi
ểm nhất. Tính đến năm
2006 tổng nợ của Chính phủ Mỹ là 860000 USD. Bình quân một
gia đình 4 người Mỹ nợ 112000 tỷ USD. Tốc độ tăng nợ của mỗi
quý là 20000 USD. Khoảng chi trả nợ đến năm 2006 đã là 400 tỷ
USD và nước Mỹ sẽ không bao giờ trả hết nợ
Nước Mỹ giàu nhất thế giới mà còn như thế, thử hỏi nư
ớc ta sẽ
ra sao? Khi các khoản nợ ngày càng một lớn lên.
Tổng thống Mỹ thứ 28 nói: Ngân hàng tư hữu là thứ quyền lực
vô hình được tổ chức một cách tĩnh lặng, bao phủ khắp n

ơi, khóa
chặt lẫn nhau triệt để và toàn diện.
Vậy ta dùng cơ chế, tổ chức và công cụ gì để có thể giám sát
được một đối thủ “nặng cân” như vậy
- Thủ tướng Thạt Xỉn (Thái Lan) nói: “Vĩnh viễn không trở lại
làm con mồi bị thương cho tư bản quốc tế, quyết không bao giờ
xin viện trợ của quỹ tiền tệ quốc tế nữa. Bởi vì trước đó chỉ trong
vòng 06 tháng tập đoàn tài chính quốc tế đã đánh sụp toàn bộ hệ
thống tài chính Đông Nam Á và một phần Hàn Quốc lúc đó họ
cho nợ của Thái Lan chủ yếu bằng USD tăng giá. Thủ thuật
“bơm” tiền và hút tiền của họ sẽ làm cho dự trữ ngoại tệ của họ
giảm xuống khoảng 10 tỷ USD
Liên hệ với số ngoại tệ dự trữ của chúng ta nếu bị đánh sụp
như thế thì còn gì để trả nợ.
Cơ cấu tài chính quốc tế đang tràn vào nước ta ngày m
ột mạnh
mẽ:
- Về hệ thống tiền tệ thế giới
Lúc đầu là tiền vàng; tiền giấy có bản vị vàng có thể đổi ra vàng
bằng bất kì lúc nào và theo một tỷ giá cố định hợp lý.
Nhưng sau đó tiền tín dụng ra đời như đồng USD thực chất là
“1 tờ phiếu nợ” giữa chính phủ Mỹ và viện Fes mà thôi.
Lúc đầu nhân loại dùng tiền vàng, bản vị vàng đó là lúc đó có
tiền thật, thước đo được trọng lượng mọi vật bởi vì chính bản
thân nó cũng có trọng lượng.
Nhưng sau đó nhân loại đã dùng thước đo ảo dùng các “tờ
phiếu nợ” để đo lường giá trị các hàng hóa là một thước đo
không xác định, không thật, vì sao nhân loại làm như vậy: trước
hết là vì lợi ích của các nàh tài phiệt, lợi ích đó được biến thành
học thuyết tiền tệ của Key Nes từ 1936 với chủ đích (1)

Có tiền giấy thì mới có lạm phát tiền tệ.
Chính phủ có thể tận thu toàn bộ của cải của người dân một
cách bí mật mà khó có thể phát giác…
Tiền tệ: Tín dụng, gắn với quan hệ vay mượn, người ta tăng
trưởng kinh tế dựa vào vay mượn, ổn định kinh tế dựa vào vay
mượn khủng hoảng tài chính, lạm phát tiền tệ cũng chủ yếu do
vay mượn tiền tệ bởi vì cho vay càng tăng, lãi suất càng tăng số
tiền in thêm càng lớn đến mức vượt quá sự phát triển của nền
kinh tế và dẫn đến sụp đổ toàn bộ hệ thống. Tiền tệ hóa của dịch
vụ vay mượn, cộng với sự tăng trưởng của các công cụ tín dụng,
các sản phẩm tài chính phát sinh là một trong những nhân tố gặp
bất ổn nghiệm trọng nhất cho nền kinh tế hiện đại. Vì nó thông
qua dự chi tương lai để thỏa mãn nhu cầu hiện đại.
Giám sát thị trường tài chính trước hết là giám sát những dòng
tiền vay mượn dịch chuyển thông qua thị trường tài chính để th
ực
hiện thông qua thị trường tài chính để thực hiện các ý đồ của
mình. Hiện nay, trên thế giới có hai sự bảo hộ thông qua thị
trường tài chính:
Viện Fes và các Chính phủ phương tây đang bơm tiền cho các
Ngân hàng thương mại để cứu nguy sự phá sản, sự mất khả
năng thanh toán các Ngân hàng.
Chính phủ Achentina: quốc hữu hóa quỹ hưu trí để bảo vệ
người về hưu.
Như vậy, sự giống nhau là ở chỗ khẩu súng tiền tệ là giống
nhau nhưng bắn ai? Bảo vệ ai thì khác nhau.
Tóm lại cả Keynes, Fridmim, Samuelson đều chủ trương dùng
tiền giấy, tiền tín dụng, các phiếu nợ thay thế cho tiền vàng. Do
đó khủng hoảng tài chính,lạm phát tiền tệ mất thước đo thật là
vấn đề không tránh khỏi công cụ chính của Ngân hàng quốc tế: l

à
dùng quan hệ vay mượn tiền tín dụng để lũng đoạn các thị
trường tài chính của các quốc gia. Do vậu sự giám sát thị trường
tài chính Việt Nam không thể không có sự giám sát, dịch chuyển
vòng tiền có tính quốc tế được. Vấn đề là hàng trăm triệu tiền
đồng đó đang chạy đi đâu, nhằm mục đích gì? Có lợi cho ai. Đó
là nội dung giám sát rất quan trọng.
Kiểu kinh tế dựa trên trục vay mượn tiền, “bơm” tiền và hút ti
ền
trên thị trường tài chính của các Ngân hàng quốc tế, các nhà tài
phiệt đòi hỏi sự giám sát thị trường tài chính.
Đã có một khách hàng kiện các Ngân hàng thương mại khi
Ngân hàng này đem tiền bạc, vàng của khách ra kinh doanh có
thể gây mạo hiểm, nhiều ý đồ đen tối mà khách hàng không hề
biết gì và phải chịu thua thiệt.vv…
Tòa án nước Anh đã phán quyết:
Khi gửi vào ngân hàng thì tiền không còn thuộc về khách hàng
nữa.
Ngân hàng có toàn quyết sử dụng số tiền đó mà không có
nghĩa vụ phải trả lời khách hàng ngay về việc số tiền này có nguy
hiểm không? Có bị dùng vào việc đầu cơ gây hại không?vv…
Ngân hàng chỉ có nghĩa cụ trả tiền cho khách hàng theo hợp
đồng. Vậy ai là giám sát hoạt động Ngân hàng, để tài sản công
dân không bị xâm phạm, sử dụng đúng mục đích. Chắc chắn để
thanh tra ngân hàng là không ổn, không đủ quyền lực phán quyết
người nuôi mình được.
Một thực tế là công ty tài chính, Ngân hàng mà vốn tự có của
họ chỉ bằng 3,5% doanh số của các khoản nợ thì hỏi làm thế nào
để họ có thể đảm bảo được rủi ro cho khách hàng, khi vốn huy
động lên đến hàng ngàn lần vốn tự có.

Nhờ vào các sản phẩm tài chính phát sinh, lại được Chính phủ
bảo vệ, phát hành công trái ngắn hạn để hỗ trợ vốn cho khaonr
vay bất động sản có lãi suất cố định hơn 30 năm. Họ lấy vốn
ngắn hạn đầu tư dài hạn, kiếm chênh lệch lãi suất, thử hỏi khi
cách hoạt động tài chính đó xâm nhập vào Việt Nam thì chúng ta
phải giám sát bằng cách nào? Và ai là người giám sát.
Vậy nội dung giám sát: Do vay mượn tạo ra, do nhập khẩu tạo
ra, do mất cân đối cán cân thương mại; do kinh doanh thua lỗ tạo
ra.vv…
Các hoạt động Ngân hàng, các quỹ đầu tư một mặt là công cụ
kiểm soát của nền kinh tế, mặt khác Ngân hàng là một xí nghiệp
kinh doanh. Do vậy Ngân hàng đi kiểm soát người khác và phải
có người khác kiểm soát lại Ngân hàng.
Cơ cấu giám sát: Theo chúng tôi phải giám sát nhiều tầng, các
ngành, bộ, Ủy ban, Tập đoàn có cơ cấu tự giám sát nội bộ. Phải
có cấp giám sát vĩ mô toàn diện và có tính chiến lược.
Tổ chức giám sát này có thể trực thuộc Quốc hội. Giám sát cả
Ngân hàng Nhà nước, quỹ tiền tệ Chính phủ kiểm soát sự phát
triển có tính định hướng chiến lược và kiểm soát có tính nghiệp
vụ kỹ thuật để giúp kiểm soát định hướng đúng.vv…
Chẳng hạn kiểm soát sự dịch chuyển các vòng vốn để phục vụ
cho tăng trưởng bền vững thì phải không được bơm tiền vào lưu
thông gây lạm phát, gây nhập siêu, mất khả năng thanh toán gây
thất nghiệp, mất cân bằng vĩ mô, gây ô nhiễm môi trường vv…
Trái lại, phải sử dụng việc bơm tiền vào, hút tiền vay, tiền mà
hạn chế tăng trưởng nóng, kiểu tăng nợ tăng nhập siêu vv…
Trọng tâm chính của sự giám sát thị trường tài chính là giám
sát tính tự phát, tính đầu cơ lừa đảo, tính tạo ra những nhu cầu
ảo, những cơn lũ về tiền tệ thông qua thị trường để rồi sau đó lại
tạo ra những cơn hạn hán tiền tệ, qua đó mà gây ra sự đổ vỡ, sự

khủng hoảng tài chính và kinh tế. Bản chất của sự vay mượn vốn
là để tạo ra các khoản nợ, những núi nợ, thông qua các sản
phẩm tài chính phát sinh để chi phối con nợ và tạo ra sự sụp đổ
toàn cầu như hiện nay.
Trình tự các bước sụp đổ về thị trường tài chính là: từ lạm phát
đi đến tăng nợ, mất khả năng thanh toán, mất lòng tin, tăng sự
hỗn loạn về tâm lý đi đến sự sụp đổ dây chuyền. Mà dù cho Fes
hoặc ai đó có đổ ra hàng nghìn USD, hàng tấn vàng, hàng ngàn
tấn dầu đầu cơ bấy lâu được gắn lại ở một nơi nào đó vv… thì
cũng khó cứu vãn được tình thế. Bởi vì trong lòng thị trường tài
chính đã chứa đựng những sự vô ảo, sự ảo tưởng những món
nợ quá lớn, không gì vô lý bằng làm cho các món nợ cũng trở
thành hàng hóa, nợ và các giấy tờ mua bán có doanh số lớn hơn
của cải thực hàng trăm hàng nghìn lần. Thị trường tài chính sớm
muộn cũng xảy ra đổ vỡ, khủng hoảng không tránh khỏi “Kinh
nghiệm của chúng tôi cho biết trong tương lai nhất định sẽ có kẻ
phải trả những món nợ này tôi e rằng lòng tham vô đáy của con
người sẽ kéo nhân loại đi theo vết xe đổ” .

×