HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BÀI THẢO LUẬN
Đề tài:
TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG
TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Môn : Hoạt động HTTC ở Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Thanh Phương
Nhóm : Nhóm 075 - 1
Lớp : 07
Nhóm thực hiện
1. Nguyễn Thị Bích Ngọc (nhóm trưởng)
2. Nguyễn Hoài Ninh
3. Nguyễn Thị Huyền
4. Hoàng Thị Thủy
5. Bùi Thị Thùy
Năm học 2013-2014
MỤC LỤC
Mở đầu 1
Phần một: Lý luận chung về hệ thống tài chính và giám sát hệ thống tài chính 1
I. Hệ thống tài chính 1
1. Quan điểm về hệ thống tài chính 1
2. Vai trò của hệ thống tài chính 2
2.1. Phân bổ nguồn tài chính 2
2.2. Sàng lọc chuyển giao và phân tán rủi ro 3
2.3. Giám sát quá trình phân bổ nguồn tài chính 3
2.4. Vận hành hệ thống thanh toán 4
II.Giám sát tài chính 4
1. Khái niệm về giám sát tài chính 4
2. Mục tiêu của giám sát tài chính 4
3. Môi hình giám sát tài chính 6
3.1. Mô hình giám sát hợp nhất 6
3.2. Mô hình giám sát lưỡng đỉnh 8
3.3. Mô hình giám sát theo đặc điểm thể chế 11
3.4. Mô hình giám sát theo chức năng 14
Phần hai: Thực trạng hoạt động giám sát hệ thống tài chính ở Việt Nam 17
I. Tổng quan về thị trường tài chính Việt Nam 17
II.Mô hình giám sát hệ thống tài chính của Việt Nam 18
1. Giám sát an toàn vĩ mô 19
2. Giám sát lĩnh vực ngân hàng 19
3. Giám sát lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm 22
3.1. Giám sát trên thị trường chứng khoán 22
3.2. Giám sát lĩnh vực bảo hiểm 24
III. Thực trạng hiệu lực của HTGSTC Việt Nam 25
1. Hiệu lực hệ thống GSTC Việt Nam trong phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm và lạm dụng thị trường 26
2. Hiệu lực HTGSTC Việt Nam từ góc độ ngăn ngừa và phòng tránh các
hành vi vi phạm và lạm dụng thị trường 31
3. Hiệu lực hệ thống GSTC Việt Nam từ góc độ phát hiện và phòng tránh
những rủi ro tiềm năng của HTTC 32
IV. Nguyên nhân của những hạn chế 34
1. Mô hình giám sát phân tán truyền thống và những hạn chế trong phối hợp giữa
các chủ thể giám sát và các kênh giám sát 34
2. Những nhược điểm của hệ thống pháp lý cho giám sát tài chính 35
3. Những bất cập trong năng lực giám sát chuyên ngành 35
4. Những bất cập về thông tin giám sát và công bố thông tin tài chính 37
Phần ba: Một số đề xuất nhằm tăng cường giám sát HTTC 37
I. Định hướng phát triển HTGSTC đến năm 2020 37
II.Đề xuất kiến nghị nhằm tăng cường giám sát HTTC 39
1. Đề xuất chuyển đổi mô hình giám sát phân tán sang mô hình hợp nhất 39
1.1. Cơ sở lựa chọn mô hình giám sát hợp nhất của Việt Nam 39
1.2. Lộ trình xây dựng mô hình giám sát tài chính hợp nhất cho Việt Nam 40
2. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với mô hình giám sát hợp nhất của
Việt Nam 43
3. Tăng cường năng lực giám sát chuyên ngành 43
3.1. Yêu cầu về nguồn nhân sự giám sát tài chính 43
3.2. Yêu cầu về hạ tầng công nghệ thông tin 43
4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính 44
5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong giám sát tài chính 47
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
MỞ ĐẦU
Trong vài thập niên gần đây, thế giới đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng tài chính
với phạm vi ngày càng lớn, mức độ tác động và tần suất ngày càng gia tăng. Một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các bất ổn đó là hoạt động giám sát tài chính còn yếu kém,
không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của các định chế tài chính và các công cụ tài chính.
Trong bối cảnh đó, thị trường tài chính Việt Nam sau hơn hai thập kỷ cải cách
tuy đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn tại nhiều rủi ro không thể xem
thường trong khi công tác giám sát vĩ mô TTTC hiện còn không ít bất cập. Trên thực tế,
việc giám sát chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ, các công cụ phục vụ cho giám sát an
toàn vĩ mô TTTC chưa hoàn thiện, nhất là giám sát dựa trên rủi ro. Giám sát rủi ro chéo
với các thị trường tài sản như bất động sản, chứng khoán còn lỏng lẻo do thiếu sự phối
hợp, liên thông trong giám sát toàn bộ TTTC giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành.
Do đó, việc củng cố và hoàn thiện HTGSTC hợp nhất ở nước ta là một yêu cầu cấp thiết,
trong đó nhiệm vụ đầu tiên là cần xây dựng một bộ chỉ tiêu phục vụ cho việc giám sát
hợp nhất TTTC dựa trên các tiêu chí giám sát tài chính hiện đại đang được nhiều nước
trên thế giới áp dụng.
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH (HTTC) VÀ
GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Tài chính là cách thức tạo lập, phân bổ và sử dụng nguồn tài chính của từng
chủ thể trong xã hội nhằm đạt được các mục tiêu của từng chủ thể đó. Thực chất tài chính
phản ánh các quan hệ phân phối nguồn tài chính thông qua quá trình tạo lập và sử dụng
quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các mục tiêu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
I. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH (HTTC):
1. Quan điểm về HTTC:
Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, các điều kiện của thị trường liên tục
thay đổi vì vậy HTTC cũng thay đổi phù hợp với sự phát triển của xã hội. Mỗi giai đoạn
phát triển của xã hội, HTTC được nhìn nhận ở một góc độ khác nhau, quản lý và khai thác
một cách khác nhau phù hợp với hiện trạng của giai đoạn đó. Nhưng nhìn chung HTTC
ngày càng phát triển và mở rộng không ngừng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
xã hội đặc biệt là nhu cầu kích thích tăng trưởng kinh tế, tìm kiếm lợi nhuận. Nhìn chung
có ba quan điểm chính về HTTC:
Quan điểm thứ nhất, HTTC chia thành hai mô hình: HTTC được kiểm soát
và HTTC tự do. Đặc điểm HTTC được kiểm soát là lãi suất ngân hàng được ấn định,
kiểm soát chặt chẽ, gần như cố định, trong hệ thống ngân hàng độc quyền bởi nhà nước
không tồn tại yếu tố cạnh tranh. Kiểu mô hình này tồn tại khi nhà nước can thiệp, kiểm
soát thông qua hệ thống ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước và phù hợp với nước đang
phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi. Với mô hình HTTC tự do, các định chế giữ vai
trò quan trọng trong phân bổ nguồn lực tài chính, đối mặt với sức ép cạnh tranh giữa các
TTTC trong quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Lãi suất ngân
4
hàng chịu sự tác động hoàn toàn của thị trường. Theo quan điểm này, HTTC nhấn mạnh
đến vai trò kiểm soát của nhà nước đặc biệt kiểm soát lãi suất.
Quan điểm thứ hai, HTTC là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá
trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ
thể kinh tế - xã hội.
Việc xây dựng HTTC xuất phát từ các chủ thể trong nền kinh tế. Mỗi chủ thể được xác
định là chủ thể phân phối tài chính được coi là “mắt xích tài chính” hay còn gọi là một
“khâu” trong HTTC. HTTC bao gồm ngân sách nhà nước, tài chinh doanh nghiệp, tín
dụng, bảo hiểm, tài chính hộ gia đình. TTTC chỉ là “môi trường”cho các khâu hoạt động.
Quan điểm thứ ba, HTTC được xem xét theo cách cung ứng vốn cho nền kinh tế.
HTTC là một tổng thể bao gồm các TTTC, các định chế tài chính trung gian, cơ sở hạ
tầng pháp lý- kỹ thuật và các tổ chức quản lý giám sát và điều hành HTTC để tổ chức
phân bổ nguồn lực tài chính nhằm đạt được mục tiêu của các chủ thể trong nền kinh tế.
Quan điểm này đã phản ánh một cách tổng hợp về HTTC bao gồm cả vai trò của chủ thể
kinh tế và vai trò của nhà nước trong tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ.
2. Vai trò của HTTC:
2.1. Phân bổ nguồn tài chính:
HTTC với sự có mặt của các trung gian tài chính và TTTC giúp nguồn tài
chính phân bổ hiệu quả từ những người có nguồn tài chính sang những người có nhu cầu
về nguồn tài chính để đầu tư.
5
Các trung gian tài chính với hoạt động chuyên nghiệp có khả năng huy động
các nguồn vốn nhỏ, lẻ từ tất cả các chủ thể trong nền kinh tế tập trung thành nguồn vốn
lớn để đáp ứng nhu cầu vốn của các nhà đầu tư
TTTC trực tiếp nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng nguồn tài
chính làm cầu nối giữa người cần vốn và người có vốn. Với khả năng linh hoạt, nhạy bén
của thị trường làm cho nguồn vốn của những người thích lợi nhuận cao và ưa mạo hiểm
“vận động” trực tiếp đến người đầu tư.
2.2. Sàng lọc chuyển giao và phân tán rủi ro:
Sự luân chuyển vốn từ người có vốn sang người cần vốn tạo ra lợi nhuận nhưng
cũng mang lại rủi ro nhất định cho người có vốn. Tủy theo sự luân chuyển vốn trực tiếp hay
gián tiếp, thời gian luân chuyển vốn hay cách thức luân chuyển vốn sẽ mang lại rủi ro cao
hay thấp. Dòng vốn luân chuyển càng dễ dàng, lợi nhuận cao nhưng rủi ro càng lớn. Sự phân
bổ tài chính giúp các chủ thể có cơ hội sang lọc kênh dẫn vốn và phân tán rủi ro.
Ngoài ra, HTTC với các tổ chức quản lý, giám sát, điều hành HTTC cùng với
cơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật giúp cho nhà đầu tư lựa chọn kênh đầu tư an toàn, hạn chế
hình thức đầu tư rủi ro cao. Đối với nguồn vốn được đầu tư tiềm ẩn rủi ro lớn, có thể
phân tán rủi ro qua công cụ của HTTC: công cụ tài chính phái sinh, bảo hiểm kì hạn,…
2.3. Giám sát quá trình phân bổ nguồn tài chính:
HTTC qua phân bổ nguồn tài chính giám sát hoạt động tạo lập và sử dụng vốn
của các chủ thể. HTTC với khả năng cung cấp thông tin kịp thời sẽ giúp cho người có vốn
giám sát được hoạt động của doanh nghiệp từ đó buộc doanh nghiệp tuân thủ cam kết họ đưa
ra trong khi huy động vốn, giảm bớt sự bất cân xứng về thông tin, nâng cao năng lực quản trị
doanh nghiệp. Việc này giúp cho doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững.
Bên cạnh giám sát quá trình sử dụng vốn, các chủ thể có thể giám sát quá trình
tạo lập vốn thông qua trả lời các câu hỏi: tạo lập vốn từ đâu, lượng vốn bao nhiêu, thời gian
và chi phí huy động vốn,…?
6
2.4. Vận hành hệ thống thanh toán:
Các dòng tài chính vận động nhờ hệ thống thanh toán phát triển. Hiện nay có hai
hình thức thanh toán: dùng tiền mặt và không dùng tiền mặt. Nền kinh tế càng phát triển thì
đòi hỏi hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt càng hoàn thiện hơn. Do tính chất của các
dòng tài chính: có những tài sản tài chính tính lỏng cao nhưng có những tài sản tài chính
thanh khoản rất thấp, muốn phân bổ nguồn tài chính này cần tăng chi phí giao dịch. Để thực
hiện tốt chức năng của HTTC đòi hỏi hệ thống thanh toán đặc biệt là hệ thống thanh toán
không dùng tiền mặt phải hoàn thiện.
II. GIÁM SÁT TÀI CHÍNH:
1. Khái niệm về giám sát tài chính:
Trong quá trình hoạt động, các định chế tài chính phải đối mặt với rất nhiều
rủi ro như rủi ro giá cả, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức
hay rủi ro lựa chọn đối nghịch… Ngoài ra, rủi ro của các định chế tài chính còn mang
tính hệ thống, có khả năng lan truyền dẫn đến sự bất ổn của cả HTTC. Vì vậy, nhu cầu
giám sát tài chính là tất yếu khách quan nhằm đảm bảo sự an toàn cho cả HTTC, đảm bảo
lợi ích từ nhiều phía, từ phía nhà nước, từ phía các định chế tài chính trong hệ thống cũng
nhu từ phía các chủ thể tham gia TTTC.
Giám sát tài chính là hoạt động theo dõi kiểm tra thường xuyên tình hình tài
chính -tiền tệ nhằm mục đích ngăn chặn sự đổ vỡ của HTTC thông qua phát hiện và ngăn
chặn những vấn đề khó khăn về tài chính trước khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát.
2. Mục tiêu của giám sát tài chính:
7
Thứ nhất, duy trì sự ổn định của HTTC. Ổn định HTTC là khả năng của
HTTC vận hành tốt các chức năng dẫn vốn, phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn lực
cũng như tạo cơ sở hạ tầng tài chính hiệu quả. Mục tiêu duy trì sự ổn định của HTTC dựa
trên quan điểm cho rằng sự đổ vỡ trên TTTC có thể thông qua những tác động dây
chuyền từ hoạt động của các định chế riêng biệt trong hệ thống. Tính hệ thống trong hoạt
động tài chính nói lên rằng các vấn đề của một tổ chức có thể lây lan rất nhanh sang một
tổ chức khác thông qua sự di chuyển vốn, di chuyển hệ thống khách hàng, đột biến về giá
sản phẩm tài chính và làm suy yếu tình trạng cân đối và tài chính của phần lớn các định
chế tài chính cũng như hệ thống. Sự bất ổn còn đến từ các nguyên nhân bên ngoài HTTC
như các bất ổn vĩ mô, tình trạng sử dụng vốn không hiệu quả do vấn đề thể chế hoặc
chính sách đầu tư, những bất ổn do ảnh hưởng từ HTTC toàn cầu mà không một chủ thể
nào trong hệ thống có thể chống đỡ. Thông thường rủi ro hệ thống xảy ra do cộng hưởng
của cả những tác nhân bên ngoài và bên trong HTTC.
Thứ hai, bảo đảm sự lành mạnh của các định chế tài chính. Mục tiêu của hệ
thống giám sát tài chính (HTGSTC) không phải nhằm duy trì 100% các định chế tài chính an
toàn mà nhằm đảm bảo các định chế đó tuân thủ các chuẩn mực an toàn do các chủ thể giám sát
đặt ra. Bằng cách đó hệ thống định chế tài chính có đủ sức chống đỡ các cú sốc chính sách và
những tác động từ thị trường trong và ngoài nước. Điều này cũng có nghĩa là đảm bảo cho các
định chế tài chính đủ sức tham gia thị trường cạnh tranh một cách bình đẳng và loại bỏ các tổ
chức không đủ điều kiện tham gia thị trường và cạnh tranh cung ứng dịch vụ tài chính.
Hiện nay, yêu cầu giám sát đang thay đổi từ giám sát tuân thủ sang giám sát trên cơ sở rủi ro
và tận dụng hệ thống kênh giám sát đa dạng: giám sát từ các chủ thể giám sát (NHTW, Bộ
tài chính và Ủy ban chứng khoán); giám sát từ thị trường và tự giám sát. Trong đó hai kênh
giám sát của thị trường và tự giám sát là hiệu quả và quan trọng nhất. Việc giám sát các định
chế tài chính và quá trình cung ứng dịch vụ tài chính bởi các chủ thể giám sát chuyên ngành
và độc lập hiện đang gặp phải những khó khăn khi ranh giới giữa các loại hình định chế tài
chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) đang ngày càng lu mờ. Xu hướng hình thành nên
các tập đoàn tài chính đa năng và sự xuất hiện các sản phẩm tài chính mới có đặc điểm tích
hợp giữa ba loại hình kinh doanh đang đặt ra yêu cầu mới cho giám sát tài chính.
Thứ ba, bảo vệ người tiêu dùng. Nguyên tắc cơ bản của việc bảo vệ người
tiêu dùng đối với các sản phẩm tài chính bán lẻ là điều chỉnh những sự không hoàn hảo
của thị trường do tình trạng thông tin bất cân xứng gây ra và do đó cho phép người tiêu
dùng có thể tiếp cận với các sản phẩm tài chính với mức giá tương xứng với chất lượng
sản phẩm, đo lường bởi tương quan giữa mức sinh lời và rủi ro. Lợi ích của người tiêu
dùng có thể bị các tổ chức tài chính xâm hại bởi năng lực tư vấn khách hàng của các định
chế tài chính, thông tin sai lệch hoặc bởi các tổ chức tài chính chỉ vận hành và xử lý tranh
chấp từ quan điểm lợi ích cục bộ của các định chế tài chính mà phương hại tới quyền lợi
của người tiêu dùng. Một thị trường có tính cạnh tranh với các thông tin minh bạch được
đảm bảo bởi các quy định cạnh tranh lành mạnh sẽ không chỉ nâng cao hiệu quả và bảo
8
vệ người tiêu dùng mà còn làm gia tăng niềm tin của công chúng đối với các tổ chức và
góp phần quan trọng vào việc tạo ra sự ổn định của hệ thống.
Thứ tư, đảm bảo hiệu quả của HTTC. Hiệu quả vận hành của HTTC bao
gồm cả hiệu quả nội bộ hệ thống và hiệu quả xã hội mà hệ thống đem lại. Là lĩnh vực tài
chính kinh doanh, hiệu quả của HTTC cũng được đo lường bằng các tiêu chí phán ánh
tương quan giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được nhằm đảm bảo cho các cá nhân tham
gia HTTC duy trì hoạt động và phát triển. Điều này không thể mâu thuẫn với hiệu quả và
lợi ích mà HTTC mang lại cho xã hội. Sự thống nhất sẽ thể hiện ở chỗ giá vốn đầu tư cho
toàn xã hội giảm xuống, khả năng tiếp cận vốn của các chủ thể kinh tế trở nên thuận tiện
và điều quan trọng là tình trạng bất cân xứng thông tin sẽ giảm thiểu do khả năng khai
thác thông tin và minh bạch thông tin của một HTTC hiệu quả sẽ là tối đa. Đến lượt nó,
những đặc điểm này sẽ giúp duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô. Rõ ràng nền tảng để bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, ổn định hệ thống chính là sự vận hành hiệu quả của hệ thống
đó. Để đảm bảo tính hiệu quả, một trong những yêu cầu của giám sát tài chính là đảm bảo
sự cạnh tranh lành mạnh giữa những người cung cấp sản phẩm và dịch vụ tài chính trên
thị trường, giám sát yêu cầu minh bạch thông tin và tạo cơ chế khai thác và công bố
thông tin, giám sát tiêu chí gia nhập thị trường, hạn chế tình trạng độc quyền và sự chi
phối của các chủ thể có nguy cơ làm suy giảm mức độ cạnh tranh của HTTC.
3. Các mô hình giám sát tài chính:
3.1. Mô hình giám sát tài chính hợp nhất:
a. Đặc điểm:
Mô hình giám sát hợp nhất chỉ bao gồm một cơ quan giám sát duy nhất chịu trách
nhiệm giám sát toàn bộ các trung gian và thị trường thuộc lĩnh vực ngân hàng, tài chính và bảo hiểm.
Mô hình giám sát hợp nhất bao gồm hai loại: hợp nhất hoàn toàn (full
integration) và hợp nhất một phần (partial integration). Mô hình giám sát hợp nhất hoàn
toàn chỉ bao gồm một cơ quan duy nhất thực hiện việc giám sát toàn bộ ngành dịch vụ tài
chính (ngân hàng, bảo hiểm) và thị trường vốn. Trong mô hình giám sát hợp nhất từng
phần, cơ quan giám sát tài chính thực hiện giám sát 2 trên 3 lĩnh vực (two-pillar system)
ví dụ như giám sát hai lĩnh vực ngân hàng và bảo hiểm; hoặc NHTW thực hiện giám sát
các ngân hàng, và một tổ chức độc lập khác thì thực hiện giám sát các tổ chức tài chính
phi ngân hàng và thị trường vốn.
9
b. Lợi thế:
Thứ nhất, mô hình giám sát hợp nhất sẽ giúp ngăn ngừa những mâu thuẫn và
khoảng cách trong việc giám sát các ngành thuộc lĩnh vực tài chính. Việc thành lập cơ
quan giám sát hợp nhất nhằm phản ứng trước xu hướng hội tụ các ngành kinh doanh
trong lĩnh vực tài chính. Các tiến bộ trong công nghệ thông tin và kiến thức tài chính đã
giúp cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính tạo ra được những sản phẩm thay thế các sản
phẩm có lợi nhuận cao từng là độc quyền thuộc ngành khác. Ranh giới mong manh giữa
các ngành giờ chỉ được duy trì bằng việc áp đặt các quy định.
Thứ hai, cơ quan giám sát hợp nhất sẽ tạo ra một “sân chơi” thống nhất cho
các ngành thuộc lĩnh vực tài chính. Sự nhất quán trong các quy định và trong giám sát sẽ
đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác nhau cũng như
ngăn chặn việc tận dụng các lợi thế về chính sách để kiếm lợi nhuận.
Thứ ba, thành lập cơ quan giám sát tài chính theo mô hình hợp nhất sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát. Sự không trùng lắp trong giám sát và
những lợi thế thu được nhờ quy mô và phạm vi trong cung cấp, truyền tải và xử lý thông
tin sẽ giảm chi phí trong hoạt động giám sát mà vẫn đạt được hiệu quả tối đa.
Thứ tư, việc tách bạch chức năng giám sát ra khỏi đơn vị tổ chức quản lý kinh
doanh cũng như việc tách rời mục tiêu giám sát an toàn toàn hệ thống ra khỏi mục tiêu
giám sát an toàn từng tổ chức và giám sát hoạt động kinh doanh sẽ nâng cao tính khả thi
và hiệu quả của các mục tiêu này.
10
c. Hạn chế:
Thứ nhất, đó là tính khả thi của mô hình giám sát hợp nhất. Sẽ là không khả thi
nếu thực hiện giám sát 50 tổ chức lớn nhất với cùng một phương pháp mà không cần quan
tâm đến những khác biệt ngành nghề của các tổ chức này. Sự khác biệt giữa các ngành thuộc
lĩnh vực tài chính liên quan đến chuẩn mực kế toán trong hạch toán kinh doanh của NHTM,
ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm, chỉ có một số rất ít các tập đoàn tài chính tiến hành
hợp nhất hoàn toàn hoạt động kinh doanh bảo hiểm với hoạt động ngân hàng.
Thứ hai, liệu mô hình này có ảnh hưởng đến sự cân bằng hợp lý giữa các mục
tiêu của hoạt động giám sát hay không? Trên thực tế, mục tiêu giám sát hoạt động kinh
doanh (conduct of business) dường như chỉ quan tâm đến việc mở rộng hình ảnh trong mắt
người tiêu dùng và vấn đề chính trị hơn là các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ người tiêu
dùng.
Thứ ba, là những mâu thuẫn về quan niệm, về văn hóa trong mô hình giám sát
hợp nhất. Trong mô hình này, nếu như các luật sư thường có xu hướng quan tâm nhiều
hơn đến các quy định liên quan đến việc giám sát hoạt động kinh doanh của các tổ chức
tài chính, trong khi đó các nhà kinh tế thường coi giám sát an toàn toàn hệ thống là mục
tiêu quan trọng hàng đầu.
Thứ tư, với vai trò là cơ quan giám sát duy nhất trong lĩnh vực tài chính, một
vấn đề đặt ra là liệu cơ quan này có thể ngày càng trở nên độc quyền và thiếu linh hoạt.
11
d. Mô hình giám sát tài chính của Singapore:
Singapore có cấu trúc quản lý tài chính hợp nhất, cơ quan quản lý tiền tệ có
quyền điều hành lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Cơ quan quản lý tiền tệ của
Singapore (MAS) như là ngân hàng trung ương Singapore được ủy quyền hoạt động như
một ngân hàng và cơ quan đại diện tài chính của Chính phủ. Nó có trách nhiệm thúc đẩy
ổn định tiền tệ, tín dụng và chính sách tỷ giá mà có lợi cho sự phát triển kinh tế.
Là cơ quan giám sát thống nhất tất cả lĩnh vực dịch vụ tài chính, MAS chỉ đạo
giám sát dựa trên rủi ro của các định chế tài chính. Điều này bao gồm việc cấp phép cho các
định chế tài chính cung cấp dịch vụ, thiết lập các quy định và chuẩn mực, hành động chống
lại các định chế và cá nhân vi phạm quy định. MAS cũng giám sát HTTC để phát hiện xu
hướng mới nổi và dễ bị thương tiềm năng để hướng dẫn, hỗ trợ các hoạt động quản lý.
MAS có quyền cho vay đến bất kỳ định chế tài chính nào theo Luật quản lý
tiền tệ Singapore nếu như cơ quan này cho rằng hành động trên là cần thiết để đảm bảo
tính an toàn và lành mạnh của HTTC hoặc niềm tin công chúng vào HTTC.
3.2. Mô hình giám sát tài chính lưỡng đỉnh:
a. Đặc điểm:
Đây là mô hình dựa trên nguyên tắc giám sát theo mục tiêu với sự phân chia
chức năng của hai cơ quan: cơ quan giám sát an toàn (thận trọng) và cơ quan giám sát
hoạt động kinh doanh. Hai cơ quan này tham gia giám sát trên cả 4 hoạt động: ngân hàng,
chứng khoán, bảo hiểm, hưu trí và chịu sự chỉ đạo chung của cơ quan tư vấn cấp 1. Mỗi
cơ quan này có thể thành lập các cơ quan tư vấn cấp 2 cho riêng mình.
12
Mô hình giám sát này hiện được áp dụng thành công ở 7 nước gồm: Hà Lan,
Úc, Thổ Nhĩ Kỳ, Domicica, Latvia, Liechtenstein và Anh.
b. Cơ chế vận hành:
Cơ quan giám sát thận trọng đảm bảo sự an toàn của HTTC bằng việc đưa ra các
thủ tục hành chính và các chuẩn mực riêng. Cơ quan còn lại thực hiện giám sát các hoạt
động cụ thể của các tổ chức tài chính, đảm bảo việc tiếp cận thị trường, công bằng thị trường
và đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Hai cơ quan độc lập này có sự hợp tác chặt chẽ với
nhau về chia sẻ thông tin, hợp tác, phối hợp thông qua các hiệp ước, biên bản ghi nhớ
Ở mô hình giám sát lưỡng đỉnh, hệ thống luật giám sát được phân chia theo
mục tiêu giám sát thận trọng và giám sát hoạt động kinh doanh. Các quốc gia áp dụng mô
hình giám sát này luôn cố gắng xây dựng hoàn thiện hệ thống luật pháp có tính thống
nhất cao, giúp nâng cao hiệu quả giám sát và thúc đẩy khu vực tài chính phát triển.
c. Lợi thế và hạn chế:
Ở mô hình này, mâu thuẫn nảy sinh khi cơ quan giám sát an toàn phải lựa
chọn giữa sự an toàn hệ thống và bảo vệ người tiêu dùng. Thông thường mục tiêu an toàn
hệ thống được ưu tiên hơn và người tiêu dùng có thể bị thiệt hại khi một định chế tài
chính nào đó phá sản. Tuy nhiên, mô hình giám sát lưỡng đỉnh được coi là phương pháp
tối ưu trong việc đảm bảo sự minh bạch, toàn vẹn thị trường. Cơ quan giám sát thận trọng
có thể thuê các chuyên gia về kinh tế và kinh doanh, trong khi cơ quan giám sát hoạt
động tập trung vào thuê bộ máy vào việc thực thi hoạt động.
d. Mô hình giám sát tài chính của Úc:
Mô hình giám sát tài chính hiện hành của Úc là mô hình giám sát lưỡng đỉnh
(Twin – peak) sau một loạt cải tổ đặc biệt vào cuối những năm 1990. Năm 1997. Ủy ban
Wallis được phân công nhiệm vụ theo dõi các kết quả của việc bãi bỏ quy định vào đầu
13
những năm 1980, tập trung vào tập hợp lại và sắp xếp lại các điều lệ nhằm khiến thị
trường hoạt động có hiệu quả hơn.
Cơ cấu giám sát tài chính hiện hành của Úc phù hợp với mô hình lưỡng đỉnh, với
APRA chịu trách nhiệm giám sát thận trọng còn ASIC chịu trách nhiệm giám sát hoạt động
của thị trường. Ngân hàng dự trữ Úc (RBA): chịu trách nhiệm đảm bảo sự ổn định của
HTTC nói chung và là người cho vay cuối cùng đối với các ADIs.
Cơ quan giám sát thận trọng Úc (APRA): là cơ quan giám sát thận trọng đối
với ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi, các công ty bảo hiểm nhân thọ và công ty
bảo hiểm nói chung, hầu hết lĩnh vực phụ cấp hưu trí. APRA có đủ hai vai trò của một cơ
quan giám sát về khu vực tài chính, và đưa ra các thủ tục hành chính được áp dụng khi
thực thi chức năng giám sát của mình, bao gồm cả việc đưa ra các chuẩn mực thận trọng.
Hiệu quả hoạt động của các điều khoản “bảo vệ người gửi tiền” được giám sát bởi APRA
cung cấp cho việc can thiệp sớm vào các tổ chức gặp khó khăn về tài chính và làm rõ là
cơ quan giám sát có thể đóng cửa một thực thể mất khả năng thanh toán. APRA cũng
được nâng cao quyền lực để hành động trong trường hợp các khó khăn tài chính xảy ra tại
các công ty bảo hiểm nói chung cũng như quỹ phụ cấp hưu trí. Trong trường hợp ADIs
phá sản, người gửi tiền được bảo vệ bởi yêu cầu ưu tiên đầu tiên đối với các tài sản của
ADIs.
Ủy ban chứng khoán và đầu tư Úc (ASIC): chịu trách nhiệm đảm bảo sự
thống nhất thị trường và bảo vệ người tiêu dùng trong HTTC. ASIC giám sát TTTC, công
ty dịch vụ tài chính, các chuyên gia tư vấn đầu tư, phụ cấp hưu trí, bảo hiểm, việc nhận
tiền gửi và tín dụng. ASIC giám sát quỹ đầu tư mạo hiểm và các công ty tài sản tư nhân,
mặc dù cơ quan này giám sát một vài phương diện về hoạt động của các công ty trên thị
trường tiền tệ (ví dụ như sự phù hợp với việc gây quỹ và điều khoản cấp phép chứng
khoán của Luật doanh nghiệp). ASIC không tham gia giám sát thận trọng.
14
Ngân hàng dự trữ Úc (RBA): tiếp tục chịu trách nhiệm đối với sự ổn định tài
chính, chính sách tiền tệ và hệ thống thanh toán. Hai cơ quan khác tác động đến người
cung cấp dịch vụ tài chính: Ủy ban cạnh tranh và người tiêu dùng Úc (ACCC) chịu
trách nhiệm quản lý đối với các tổ chức phi tài chính và bảo vệ người tiêu dùng nói
chung và chống độc quyền và “bắt bệnh” đối với hầu hết các cuộc sáp nhập tiềm năng
trong lĩnh vực tài chính. Trung tâm chuyển giao báo cáo và phân tích Úc
(AUSTRAC) phụ trách việc chống rửa tiền và tài trợ khủng bố của các tổ chức tài chính
và phi tài chính.
Hội đồng giám sát tài chính (CFR): là một cơ quan phối hợp của các cơ
quan giám sát tài chính chủ chốt của Úc. Các thành viên của Hội đồng gồm RBA đóng
vai trò là chủ tịch, APRA, ASIC và Kho bạc. Hội đồng đóng góp vào tính hiệu quả của
việc giám sát tài chính thông qua việc cung cấp một diễn đàn ở cấp cao cho việc điều
phối và phối hợp giữa các thành viên. Hội đồng hoạt động như một cơ quan không chính
thức, trong đó các thành viên có thể chia sẻ thông tin và các quan điểm, thảo luận về cải
cách giám sát hoặc các vấn đề mà trách nhiệm bị chồng chéo nếu cần thiết, sự hợp tác
nhằm đối phó với những hiểm họa tiềm năng đối với ổn định tài chính. Trong trường hợp
khủng hoảng xảy ra, CFR có thể được coi là một cơ quan phối hợp chủ chốt trong việc
đưa ra phản ứng chính thức.
3.3. Mô hình giám sát theo đặc điểm thể chế:
a. Đặc điểm:
Cấu trúc giám sát được phân chia theo mảng thị trường, các cơ quan giám sát
thực hiện chức năng giám sát 3 lĩnh vực kinh tế lớn: ngân hàng, chứng khoán và bảo
hiểm. Mô hình này còn gọi là “ba đỉnh”, mỗi đỉnh tượng trưng cho một cơ quan giám sát
một lĩnh vực kinh tế. Việc giám sát được tiến hành trên tất cả các mặt: ổn định hệ thống,
giám sát thận trọng, đạo đức thị trường và bảo vệ khách hàng.
Theo mô hình thể chế, các quốc gia đều xây dựng những bộ luật riêng, điều
chỉnh hoạt động kinh tế trong từng khu vực tài chính (Luật Ngân hàng, Luật Chứng
Khoán, Luật Bảo hiểm) và luật giám sát điều chỉnh hoạt động cơ quan giám sát trong
từng lĩnh vực (Luật giám sát ngân hàng, Luật giám sát chứng khoán, Luật giám sát bảo
hiểm). Mỗi bộ luật giám sát đều quy định rõ ràng quyền và trách nhiệm của các cơ quan
giám sát, mối quan hệ, tính tương hỗ và độc lập giữa các cơ quan để tránh sự chồng chéo
nhiệm vụ và lãng phí nguồn lực.
Phần lớn các quốc gia áp dụng mô hình giám sát theo thể chế là các quốc gia
mới nổi, TTTC mới trong giai đoạn đầu phát triển. Điển hình là mô hình giám sát tài
chính của Trung Quốc và Philipin.
15
b. Cơ chế vận hành
Cơ chế vận hành của mô hình giám sát theo thể chế rất đa dạng, tùy thuộc vào
đặc điểm cấu trúc của TTTC từng quốc gia, cũng như vấn đề lịch sử, văn hóa, chính trị.
Tuy nhiên, có một vài điểm chung là luôn tồn tại 3 cơ quan chuyên biệt giám sát 3 mảng
của thị trường. Mỗi cơ quan này có kĩ thuật, nghiệp vụ riêng và hoạt động dưới quy định,
nguyên tắc, chuẩn mực khác nhau nhưng luôn có tính nhất quán trong hoạt động phối
hợp, chia sẻ thông tin. Điều này được quy định cụ thể và được đảm bảo bằng các văn bản
pháp luật.
Dưới đây là một số hình thức phân phối giữa các chủ thể giám sát chuyên
ngành cơ bản: thành lập nhóm giúp việc chuyên trách mảng TTTC của người đứng đầu
đất nước; giữa các cơ quan ký kết các bản ghi nhớ song phương về chia sẻ thông tin và
phối hợp hành động theo nguyên tắc tự nguyện; thiết lập ủy ban ổn định tài chính với vai
trò một chủ thể điều tiết hoạt động phối hợp giữa các thành viên là các cơ quan giám sát
khác nhau; cơ cấu nhân sự chéo trong đó mỗi cơ quan giám sát sẽ cử đại diện của mình
tham gia ban điều hành của các cơ quan giám sát còn lại.
c. Lợi thế
Nhờ sự chuyên môn hóa nên các cơ quan giám sát có thể nắm bắt được một
cách sâu sắc nhất các đặc điểm về hoạt động của đối tượng giám sát. Điều này đảm bảo
cho giám sát các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm một cách chuyên nghiệp và hiệu
quả hơn là một cơ quan giám sát hai hay nhiều lĩnh vực trên TTTC.
Việc giám sát sẽ diễn ra thường xuyên hơn bởi hoạt động giám sát gắn liền với
việc tổ chức hoạt động kinh doanh và được thực hiện cùng một bộ phận chủ quản nên yêu
cầu giám sát thường xuyên gắn liền với hoạt động nghiệp vụ của từng lĩnh vực nhằm đảm
bảo an toàn cho từng định chế và hệ thống.
16
Cơ sở hạ tầng, cơ sở dữ liệu, khung pháp lý cho hoạt động giám sát được tổ
chức và quản lý nhất quán trong phạm vi chuyên ngành. Yêu cầu phối hợp và tiếp cận
thông tin trong nội bộ rất thuận tiện cho yêu cầu giám sát.
d. Hạn chế:
Mô hình giám sát thể chế cho phép cơ quan quản lý chuyên ngành vừa thực
hiện chức năng quản lý hoạt động kinh doanh lại vừa quản lý hoạt động giám sát an toàn
chuyên ngành nên làm giảm tính hiệu quả của hoạt động giám sát khi tạo được cơ chế
độc lập cho hoạt động giám sát
Mô hình thể chế ở tất cả các nước hiện nay đang chịu nhiều sức ép do xu
hướng ra đời các tập đoàn tài chính đa năng hoạt động trong nhiều lĩnh vực của thị trường
cùng với sự ra đời các sản phẩm và công cụ tài chính phức tạp tích hợp nhiều tiện ích.
Trong điều kiện các ranh giới phân định các định chế tài chính trở nên không rõ ràng khi
TTTC phát triển, sẽ rất khó khăn khi xác định một định chế tài chính là ngân hàng, phi
ngân hàng hay công ty bảo hiểm. Đối với các định chế tài chính cung cấp dịch vụ trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, HTGSTC thể chế sẽ không ngăn chặn được việc các định chế
này lợi dụng những kẽ hở của pháp luật, những lỗ hổng trong quy định giám sát, trách
nhiệm giải trình không rõ ràng của các cơ quan giám sát,…để “lách luật” và “né tránh”
cơ quan giám sát trong hoạt động của mình. Chính vì vậy, một nước sẽ phải đối mặt với
rủi ro rất cao khi áp dụng HTGSTC thể chế, đặc biệt khi thị trường có càng nhiều định
chế tài chính phức tạp được thành lập.
Mô hình gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý về yêu cầu giám sát các sản
phẩm tài chính mới theo hướng tích hợp các đặc điểm sản phẩm tài chính của các loại
hình kinh doanh khác nhau. Xu hướng hiện nay trên TTTC là sự đan xen giữa nhiều sản
phẩm tài chính để ra đời những sản phẩm tài chính mới làm cho việc xác định cơ quan
giám sát nào chịu trách nhiệm giám sát là điều hết sức khó khăn.
Hạn chế trong việc chia sẻ thông tin và sự phối hợp giữa các cơ quan trong
việc giám sát thị tường.
HTGSTC không tận dụng được hiệu quả theo quy mô trong việc giám sát thị
trường do thiếu cách thức tiếp cận thống nhất đối việc đưa ra các mức chuẩn, ủy quyền,
giám sát, hiệu lực,…Thêm vào đó, việc phân tán nguồn lực và giám sát có thể làm giảm
hiệu quả thông qua việc quản lý trực tiếp đối với các định chế tài chính.
e. Mô hình giám sát tài chính của Trung Quốc:
Từ năm 2003, Trung Quốc đã hình thành nên HTGSTC độc lập, bao gồm ba
cơ quan giám sát là Uỷ ban Chứng khoán, Uỷ ban điều tiết Bảo hiểm và Uỷ ban điều tiết
Ngân hàng. Ba cơ quan này trực thuộc trực tiếp Hội đồng nhà nước Trung Hoa.
17
HTGSTC của
Trung Quốc đảm nhiệm chức
năng phát triển TTTC và nền
kinh tế bao gồm NHTW Trung
Quốc và 3 cơ quan song song
giám sát định chế bao gồm
Ủy ban quản lý chứng
khoán Trung Quốc
(CSRC), Ủy ban quản lý ngân
hàng Trung Quốc (CBRC), Ủy
ban quản lý bảo hiểm Trung
Quốc (CIRC). Một số cơ
quan giám sát gồm:
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC): PBC có chức năng tạo lập và thực
thi chính sách tiền tệ, giảm nhẹ rủi ro tài chính, và bảo vệ sự ổn định tài chính. Nhiệm vụ và
chức năng của PBC bao gồm việc ban hành và thực thi các quy định, xây dựng và triển khai
chính sách tiền tệ, phát hành đồng nhân dân tệ, quản lý việc lưu hành đồng nhân dân tệ, quy
định cho vay liên ngân hàng và thị trường trái phiếu liên ngân hàng. Kể từ khi cải cách hệ
thống giám sát và thành lập Ngân hàng trung ương Trung Quốc, PBC không còn vai trò trực
tiếp giám sát tài chính nhưng nó vẫn còn ảnh hưởng đáng kể lên hoạch định chính sách. PBC
tiếp tục là cơ quan giám sát chính chống rửa tiền.
Ủy ban quản lý ngân hàng trung quốc (CBRC): chịu trách nhiệm giám sát sự
hoạt động và các định chế tài chính trên toàn lãnh thổ. Nhiệm vụ và trách nhiệm của CBRC
bao gồm cấp phép ngân hàng mới, xây dựng quy định và quy tắc thận trọng, hàng loạt các
quy định quyền hạn về giám sát tại chỗ và giám sát từ xa. Ủy ban này cũng chịu trách nhiệm
cho việc phát hiện rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng và thành lập hệ thống cảnh báo.
Bộ tài chính (MOF): Bộ tài chính như là một thành viên của Hội đồng Nhà
nước chịu trách nhiệm giám sát tài chính và phối hợp giữa các cơ quan.
Ủy ban quản lý chứng khoán Trung Quốc (CSRC): chịu trách nhiệm thi
hành việc giám sát và điều tiết TTCK và thị trường giao dịch tương lai ở Trung Quốc.
Chức năng chính của cơ quan này bao gồm: Ban hành chính sách, luật và quy chế về
TTCK và giao dịch tương lai; giám sát việc phát hành, giao dịch, lưu ký và thanh toán
của cổ phiếu, trái phiếu và quỹ đầu tư; giám sát việc niêm yết, giao dịch và thanh toán
của hợp đồng tương lai, sở giao dịch tương lai; các công ty chứng khoán và giao dịch
tương lai.
Ủy ban quản lý bảo hiểm Trung Quốc (CIRC): Ban hành chính sách để phát
triển thị trường bảo hiểm thông qua việc ban hành các đạo luật, quy định, quy chế giám sát
thị trường; nghiên cứu và phê chuẩn hoạt động của công ty bảo hiểm, công ty con, công ty
mẹ; kiểm tra và phê chuẩn chất lượng những người quản lý của công ty bảo hiểm; quản lý
giá và các sản phẩm; giám sát về mặt tài chính đảm bảo khả năng thanh toán, giám sát tiền
gửi tiết kiệm và vốn đảm bảo của công ty này; giám sát cạnh tranh công bằng giữa các công
18
ty; giám sát công ty với những hoạt động hướng ra nước ngoài; tạo ra chuẩn mực về thông
tin, rủi ro, dự báo, khả năng sinh lời và báo cáo của các công ty.
3.4. Mô hình giám sát theo chức năng:
a. Đặc điểm:
Đây là mô hình giám sát các tổ chức tài chính được xác định dựa trên hoạt
động kinh doanh mà không quan tâm tới hình thức pháp lý của tổ chức tài chính đó. Như
vậy, nếu một tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ trên nhiều lĩnh vực thì nó sẽ chịu sự
giám sát từ nhiều cơ quan khác nhau.
Ở mô hình này, tồn tại ít nhất một cơ quan giám sát đối với từng hoạt động
ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, hưu trí. Những cơ quan này độc lập với nhau, thực
hiện đồng thời nhiệm vụ giám sát và đảm bảo an toàn trong lĩnh vực phụ trách. Giữa các
cơ quan này có mối liên hệ hợp tác với nhau và chịu sự chỉ đạo chung của cơ quan tư vấn
quốc gia.
Về cơ bản, cấu trúc hệ thống luật giám sát trong mô hình giám sát thể chế và
mô hình giám sát theo chức năng không khác nhau. Sự khác nhau chủ yếu là một định
chế có thể chịu sự giám sát của các chủ thể giám sát với các bộ luật khác nhau.
b. Cơ chế vận hành:
Cơ chế vận hành của HTGSTC theo chức năng của mỗi quốc gia rất đa dạng,
tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế cũng như văn hóa, chính trị đặc trưng của nó. Có sự phân
định rõ ràng trách nhiệm trong việc giám sát của các cơ quan tham gia giám sát đối với
các hoạt động cụ thể như: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Do việc giám sát tài chính
được phân công cho các cơ quan khác nhau nên ở các nước này có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan giám sát nhằm đảm bảo cho việc giám sát được hiệu quả. Một cơ quan
riêng biệt với nhiệm vụ nâng cao việc chia sẻ thông tin và phối hợp giữa các cơ quan chịu
trách nhiệm giám sát các hoạt động thuộc từng lĩnh vực. Các cơ quan giám sát có toàn
quyền trong việc thực thi giám sát trong lĩnh vực của mình, từ việc cấp phép đến các hoạt
động kỷ luật.
19
c. Lợi thế:
Một cơ quan giám sát đơn lẻ, có kỹ thuật chuyên môn giám sát sẽ áp dụng các
quy tắc thống nhất đối với cùng một loại hoạt động kinh doanh mà không cần biết đó là
hoạt động của thực thể nào. Các khe hở giám sát có thể được loại trừ do tránh được tình
trạng nhiều cơ quan giám sát giải thích và thực hiện cùng một quy định theo những
hướng khác nhau, hoặc thậm chí là mâu thuẫn.
Mô hình này cho phép xác định và giám sát một cách đầy đủ các tổ chức chỉ
cung cấp một số lượng hạn chế các dịch vụ tài chính hoặc các tổ chức quá nhỏ để có thể
giám sát thận trọng và không nhất thiết phải chịu sự giám sát theo cách truyền thống
(giám sát theo mô hình thể chế- institutional approach).
d. Hạn chế:
Đôi khi rất khó phân biệt một hoạt động kinh doanh thuộc về cơ quan giám sát
nào quản lý. Vì các cơ quan giám sát mở rộng phạm vi hoạt động cho phép của các thực
thể nằm trong sự giám sát của họ, cho nên họ cảm thấy bất đắc dĩ khi phải nhượng quyền
cho một cơ quan khác giám sát những hoạt động mới được cho phép này.
Mô hình này bắt buộc các tổ chức tài chính phải chịu sự giám sát của nhiều cơ
quan, điều này thường làm mất thời gian hơn cho các tổ chức tài chính. Các cơ quan giám
sát khác nhau phải dành rất nhiều thời gian để hợp tác và trao đổi lẫn nhau.
Mô hình giám sát này cũng có thêm một vài thách thức như: không có cơ quan
giám sát nào có đủ các thông tin liên quan đến tất cả hoạt động của bất kỳ một thực thể nào
để có thể giám sát rủi ro hệ thống. Việc đưa ra rủi ro hệ thống cũng có thể cần phải có một
cơ quan giám sát riêng biệt để ủy thác các hoạt động xuyên suốt của toàn bộ HTTC.
e. Mô hình giám sát tài chính của Pháp:
20
Hệ thống giám sát của Pháp được thực hiện theo kiểu chức năng (functional
approach) với một vài khía cạnh gần với kiểu lưỡng đỉnh. NHTW Pháp (BDF) đóng vai
trò quan trọng trong việc giám sát cũng như đưa ra các quy định giám sát kể từ khi cơ
quan này ban hành Luật Ngân hàng của Pháp vào năm 1941. Khuôn khổ của việc giám
sát tài chính được cải tổ lại vào năm 2003 nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý
tài chính. Hệ thống mới này vẫn duy trì sự phân biệt giữa cá cơ quan giám sát và cơ quan
cấp phép. Các hoạt động bảo hiểm được giám sát bởi một cơ quan độc lập có tên là Cơ
quan giám sát bảo hiểm và tương hỗ xã hội (ACAM). Bộ Kinh tế, Tài chính và Công
nghiệp (MINEFI) giữ vai trò là cơ quan cấp phép cho các công ty bảo hiểm. Ủy ban Công
ty bảo hiểm (CEA) được thành lập năm 2003 với mục đích công nhận quyền cá nhân
hoặc miễn trừ đối với các công ty bảo hiểm và các công ty tái bảo hiểm.
NHTW Pháp (BDF): chịu trách nhiệm giám sát thận trọng đối với các TCTD và
các công ty đầu tư. NHTW phát hành tiền và điều hành chính sách tiền tệ với tư cách là một
thành viên của Hệ thống NHTW châu Âu. NHTW có trách nhiệm giám sát thông qua các mối
liên hệ và lãnh đạo của mình trong ban lãnh đạo của các cơ quan giám sát khác.
Ủy ban Ngân hàng (CB): giám sát hệ thống ngân hàng và tài chính nhằm đảm
bảo sự an toàn và ổn định tài chính. Cụ thể là CB chịu trách nhiệm về giám sát thận trọng đối
với các TCTD, nhà cung cấp dịch vụ đầu tư, và những người được ủy quyền thực hiện lưu ký
hoặc quản lý các công cụ tài chính. CB kiểm tra các hoạt động của TCTD và tình trạng tài
chính của các tổ chức này.
Ủy ban các TCTD và ngân hàng đầu tư (CECEI): cấp phép cho các TCTD và
nhà cung cấp dịch vụ đầu tư và chia sẻ kinh nghiệm liên quan đến những tổ chức được chấp
thuận và nhà cung cấp dịch vụ cho AMF cũng như các cơ quan của EU.
Cơ quan TTTC (AMF): giám sát sự bảo hộ của các khoản tiết kiệm công cộng
được đầu tư vào các công cụ tài chính và các khoản đầu tư khác được chào bán công khai, sự
công khai của các thông tin tài chính đối với các nhà đầu tư, và sự hoạt động phù hợp của TTTC.
Cơ quan Giám sát bảo hiểm và xã hội tương hỗ (ACAM): là một cơ quan công
chúng độc lập và là người giám sát thận trọng trong lĩnh vực bảo hiểm. Cơ quan này giám sát
các công ty bảo hiểm, các công ty bảo lãnh tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm tương hỗ, hiệp hội,
và liên đoàn là đối tượng điều chỉnh của Luật Bảo hiểm xã hội, các tổ chức hưu trí.
Ủy ban công ty bảo hiểm (CEA): cấp phép cho các công ty bảo hiểm, các công ty
bảo hiểm tương hỗ, tổ chức tiết kiệm và các công ty bão lãnh tái bảo hiểm, nhưng không bảo
lãnh bảo hiểm trực tiếp. Bên cạnh chức năng cấp phép, CEA có thể đưa ra các vấn đề liên quan
đến cạnh tranh và vấn đề đáng lo ngại (trực tiếp hoặc gián tiếp) đối với một công ty bảo hiểm
hoặc công ty bảo lãnh tái bảo hiểm nhưng không bảo lãnh bảo hiểm trực tiếp.
Ủy ban tư vấn về luật pháp và quy định tài chính (CCLRF): là một ủy ban tư
vấn chịu trách nhiệm đối với các vấn đề chính sách liên quan đến TCTD, công ty đầu tư,
và công ty bảo hiểm và khách hàng.
PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT HTTC Ở VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM:
21
Đến nay, sau hơn hai thập niên hình thành và phát triển, TTTC Việt Nam đã
đạt được một số kết quả nhất định. Về cơ bản, Việt Nam đã có phần lớn các thị trường bộ
phận, định chế tài chính và các công cụ tài chính.
Số lượng và loại hình các định chế tài chính đã tăng tương đối nhanh. Theo
báo cáo của NHNN, đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm 1 ngân hàng phát
triển, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 5 ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước và
NHTM có cổ phần chi phối của Nhà nước, 35 NHTM cổ phần, 50 chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 18 công ty tài
chính, 12 công ty cho thuê tài chính, 1 Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương, hơn 1.000
quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và 1 tổ chức tài chính vi mô.
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và bắt đầu đi vào hoạt động chính
thức từ tháng 7 năm 2000. Giai đoạn 2006-2008 là giai đoạn phát triển cực mạnh TTCK
Việt Nam nhờ những tăng trưởng từ nền kinh tế. Theo báo cáo của Ủy ban Chứng khoán
nhà nước, số lượng công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ tăng mạnh. Tính đến năm
2014, có 696 công ty được niêm yết trên hai sàn giao dịch (trong đó có 4 quỹ đầu tư niêm
yết 4 chứng chỉ quỹ) và 132 công ty đăng ký giao dịch trên UPCoM. Toàn thị trường có
105 công ty chứng khoán (CTCK), 47 công ty quản lý quỹ trong nước, 8 ngân hàng lưu
ký, 38 công ty kiểm toán được chấp thuận. Tuy nhiên, tổng tài sản các công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ, các quỹ đầu tư vẫn rất khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 3% so
với tổng tài sản của toàn bộ các tổ chức tài chính ở Việt Nam.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, theo báo cáo của Cục quản lý và giám sát bảo hiểm, thị
trường bảo hiểm Việt Nam có 58 công ty bảo hiểm, gồm 29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ, 15 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 12 doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm. Nhìn chung, số lượng các công ty bảo hiểm tăng không đáng kể trong ba năm
trở lại đây. Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ có 17 công ty trong nước, 9 công ty 100%
vốn nước ngoài, 3 công ty liên doanh. Ngược lại, đối với bảo hiểm nhân thọ, các công ty 100%
vốn nước ngoài chiếm đa số 12/14 công ty; còn lại chỉ có một công ty trong nước và 1 công ty
liên doanh. Dù vậy, thị phần trong cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ
vẫn tập trung chủ yếu ở một số ít các công ty hàng đầu.
Nhìn chung, quy mô thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé và cơ hội phát triển thị trường còn
rất lớn. Tổng doanh thu phí bảo hiểm so với GDP năm 2011 chỉ ở mức 1,48%. Tỷ lệ này
còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
(Malaysia: 3,47%; Philippines: 1,89%; Thái Lan: 2,19%; Singapore: 5,52%). Tỷ lệ tổng
tài sản các công ty bảo hiểm/tổng tài sản toàn bộ các tổ chức tài chính còn rất khiêm tốn,
mới chỉ chiếm khoảng hơn 2% tổng tài sản của toàn bộ các tổ chức tài chính. Bối cảnh
kinh tế có nhiều khó khăn trong giai đoạn từ năm 2011 trở lại đây cũng ảnh hưởng đến sự
tăng trưởng cũng như chất lượng tài sản của các công ty bảo hiểm.
II. MÔ HÌNH GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM:
Trong quá trình cải cách, phát triển của TTTC, HTGSTC ở Việt Nam cũng
từng bước hình thành và phát triển. Hiện nay, HTGSTC ở Việt Nam về bản chất là mô
hình giám sát theo định chế hay theo chức năng (mô hình giám sát phân tán). Theo đó,
chức năng giám sát được phân nhiệm cho nhiều cơ quan khác nhau, bao gồm NHNNVN
22
(giám sát các hoạt động ngân hàng - tiền tệ), Bộ Tài chính (Vụ Bảo hiểm giám sát thị
trường bảo hiểm), Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) (giám sát TTCK), Thanh
tra Bộ Tài chính (giám sát các hoạt động của các cơ quan, doanh nghiệp thuộc Bộ Tài
chính). Bên cạnh đó, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG) có chức năng
tư vấn, giúp Thủ tướng Chính phủ trong điều hành giám sát HTTC.
1. Giám sát an toàn vĩ mô:
Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (UBGSTCQG) được thành lập theo Quyết
định số 34/2008/QĐ-TTg ngày 3/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ
Chức năng giám sát TTTC: Tham mưu tư vấn choThủ tướng Chính phủ trong
điều phối, giám sát TTTC quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm). UBGSTCQG sẽ là
đầu mối điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành, giám sát chung TTTC và việc chấp
hành các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động giám sát của các cơ quan thanh tra giám
sát chuyên ngành trên cả ba lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng. Ủy ban cũng tiến
hành phân tích dự báo, cảnh báo mức độ an toàn HTTC ngân hàng và nguy cơ rủi ro với
TTTC quốc gia, thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và cung cấp thông tin về TTTC quốc
gia báo cáo Chính phủ.
Đơn vị thực hiện nhiệm vụ giám sát: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia có
Chủ tịch và hai phó Chủ tịch. Bộ máy giúp việc gồm có Văn phòng và các ban tác nghiệp.
2. Giám sát lĩnh vực ngân hàng:
II.1. Bộ máy giám sát:
a. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN):
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan trực tiếp giám sát lĩnh vực ngân hàng. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, Ngân hàng
Trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của Ngân
hàng Trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và cung ứng dịch vụ tiền tệ
cho Chính phủ; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của NHNN.
23
Chức năng giám sát trên TTTC: Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng,
kiểm soát tín dụng. Kiểm tra, thanh tra giải quyết khiếu nại tố cáo, chống tham nhũng tiêu
cực, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng theo thẩm quyền.
Đơn vị thực hiện nhiệm vụ giám sát: Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng trực
thuộc NHNNVN thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát
chuyên ngành về ngân hàng trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNNVN.
b. Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng:
c. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV):
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) là tổ chức tài chính Nhà nước được thành
lập theo Quyết định số 1394/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 08 năm 2013 của Thủ tướng Chính
phủ (trước đây là Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ
tướng Chính phủ) và Quyết định 1395/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2013. Hoạt động
của BHTG không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát
triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Chức năng giám sát trên TTTC:Bảo sự tuân thủ chính sách công BHTG của
tổ chức tham gia BHTG. Xác định những rủi ro thực tế và rủi ro tiềm ẩn của tổ chức tham
gia BHTG, trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp cánh báo, chấn chỉnh, xử lý kịp thời;
Đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống các TCTD. Quy trình giám sát của tổ chức
BHTG được thực hiện từ khâu tiếp nhận báo cáo từ tổ chức nhận tiền gửi, tính toán các
chỉ tiêu giám sát, phân tích đánh giá tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG
và xử lý sau giám sát.
Đơn vị thực hiện nhiệm vụ giám sát: BHTG có trụ sở chính tại Hà Nội và 6 chi
nhánh tại các khu vực kinh tế trọng điểm nhất của đất nước. Gồm 4 đơn vị trực tiếp thực hiện
chức năng giám sát an toàn tài chính: Phòng kiểm tra hệ thống Ngân hàng, phòng kiểm tra
các TCTD, phòng giám sát hệ thống ngân hàng, phòng giám sát các TCTD khác.
24
II.2. Khuôn khổ pháp lý:
Hệ thống khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động giám sát ngân hàng đến
nay được hình thành trên cơ sở:
Luật và pháp lệnh: Luật Thanh tra; Luật Ngân hàng Nhà nước; Luật các tổ
chức tín dụng; Luật Bảo hiểm tiền gửi; Pháp lệnh ngoại hối.
Nghị định của Chính phủ: Nghị định số 91/1999NĐ-CP ngày 04/09/1999
của Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng. Nghị định số
96/2008/NĐ-CP ngày 26/08/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghị định số 202/2004/NĐ-
CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng. Và các nghị định khác liên quan đến tổ chức và hoạt
động của các loại hình TCTD, quản lý tài chính của các TCTD.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg
ngày 27/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của CQTTGSNH.
Thông tư hướng dẫn và các Quyết định của NHNN, các bộ ngành liên quan:
gồm khoảng trên 1.000 văn bản do khu vực ngân hàng đã có bề dày lịch sử hơn 60 năm và là
khu vực phát triển sớm nhất trên TTTC Việt Nam. Các văn bản này điều chỉnh, hướng dẫn
cụ thể các hoạt động về tiền tệ và hoạt động ngân hàng (tín dụng, ngoại hối, thanh toán, ),
đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD cũng như là cơ sở cho các hoạt động giám
sát khu vực ngân hàng của CQTTGSNH và một số Vụ chức năng liên quan.
25