Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài chính Việt Nam pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.99 KB, 34 trang )

z














Những giải pháp cơ
bản về cơ chế giám
sát thị trường tài
chính Việt Nam
























































Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám
sát thị trường tài chính Việt Nam nhằm
phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Thị trường tài chính là nơi tụ tập các giao dịch mua bán, trao đổi
các tài sản tài chính hay nguồn lực tài chính. Thông qua thị
trường này, lãi suất và giá cả các loại tài sản tài chính - các
chứng khoán được hình thành.

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính được coi là cơ
chế tạo thuận lợi trong việc chuyển tiền từ những người tiết kiệm
cho những người vay tiền. thị trường tài chính được vận hành
theo quan hệ cung cầu và thông qua hệ thống các định chế tài
chính trung gian của thị trường. Hệ thống các định chế này bao
gôm các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu tư,
công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ,
quỹ đầu tư,

Giám sát thị trường tài chính là việc theo dõi, kiểm tra hoạt động
của cả 3 bộ phận là thị trường tín dụng - ngân hàng; thị trường
chứng khoán và thị trường bảo hiểm thông qua hệ thống thông
tin, báo cáo nhằm xác định thực trạng của nó, từ đó phát hiện
sớm các vấn đề và có hướng xử lý kịp thời.
Hoạt động của thị trường tài chính chịu ảnh hưởng bởi nhiều
nhân tố chủ quan lẫn khách quan, bên trong và bên ngoài; tích
cực lẫn tiêu cực gây biến động, làm mất an ninh của thị trường
náy. Từ đó có thể tác động xấu đến cả hệ thống và nền kinh tế
quốc dân. Để phát triển thị trường tài chính có hiệu quả cần phải
có cơ chế và biện pháp giám sát các hoạt động của thị trường
nhằm phòng ngừa hạn chế rủi ro.
Thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam
Cúng với cải cách kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có
những bước phát triển nhất định. Sau hơn mư
ời năm cải thiện hệ
thống tài chính, các bộ phận cơ bản của thị trường tài chính đã
được hình thành tương đối đầy đủ, mặc dù m
ức độ phát triển của
từng thị trường cấu thành là không giống nhau. Hệ thống các
định chế về tài chính được phát triển cả về số lượng và chất
lượng, từng bước hoàn thi
ện khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển
của thị trường tài chính cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Về
quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính được thể chế hóa
tường bước. Các cơ quan quản lý Nhà nư
ớc về hoạt động của thị
trường tài chính ngày càng được phối hợp một cách tốt hơn.
Sau hơn 2 năm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ
chức WTO không chỉ khiến số lượng các định chế tài chính tăng

lên, mà các loại hình dịch vụ tài chính cũng phát triển mạnh cả về
lượng và chất. Tính đến 31/7/2008, Việt Nam có 4 NHTMNN,
ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng phát triển Việt Nam, 6
ngân hàng liên doanh, 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 44 chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, 14 công ty tài chính, 13 công ty
cho thuê tài chính và 998 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Việc mở
rộng các chức năng hoạt động ngân hàng cho các tổ chức tài
chính phi ngân hàng, các quỹ tín dụng, các hội, các đoàn thể và
một số Bộ, ngành và một số tổ chức thực hiện dự án có nguồn
vốn hỗ trợ từ nước ngoài hay các tổ chức phi Chính phủ Điều
này đã tạo cho thị trường tài chính Việt Nam hoạt động mở rộng
về quy mô và đa dạng hóa các loại hình.
Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua còn kém
phát triển, chủ yếu vào ngân hàng hay do ngân hàng chi phối. Đọ
sâu tài chính được đo bằng tỉ lệ của tổng phương tiện thanh toán
(M2)/GPD và tổng tín dụng trong nước/GDP. Nếu so với các
nước trong khu vực, những chỉ số này chỉ tương đương vào
những năm đầu của thập niên 1990.
Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ, theo Luật ngân hàng Nhà nư
ớc Việt
Nam, là thị trường vốn ngắn hạn, là nới mua bán các
giấy tờ có giá ngắn hạn dưới một năm. Thị trường tiền tệ bao
gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng (được thành lập và đi vào
hoạt động năm 1993); thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính
thức đi vào hoạt động từ 10/1994; thị trường đấu thầu tín phiếu
kho bạc bắt đầu vận hành năm 1995 và nghiệp vụ thị trường mở
chính thức vận hành vào tháng 7/2002. Chức năng của thị trư
ờng
tiền tệ là tài trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, đảm bảo vốn

khả dụng cho các tổ chức tín dụng và là nơi để NHNN Việt Nam
thực thi các công cụ chính sách tiền tệ.
Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ
thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất
trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn. Tham gia thị
trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay là hệ thống các tổ chức tín
dụng, gồm có: các NHTM, các công ty tài chính, các công ty cho
thuê tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân.
Nhìn lại hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng của
Việt Nam trong những năm qua, vẫn là khu vực cung cấp phần
lớn các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam. Điều này thể
hiện về quy mô vốn luân chuyển qua các lĩnh vực ngân hàng,
các
tổ chức tín dụng không ngừng tăng và mở rộng.
Bên cạnh những kết quả đã dặt được trong lĩnh vực thị trường
dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam như đã nêu trên, còn một số tồn
tại, cần được khắc phục trong thời gian tới, đó là:
- Nhiều loại hình dịch vụ cung cấp của các tổ chức tín dụng còn
hạn chế, hầu hết các dịch vụ ngân hàng cung cấp chỉ mới ở mức
tiếp cận với các dịch vụ truyền thống như của các nước. Chất
lượng dịch vụ còn thấp, chưa có tác dụng trong việc hỗ trợ cho
việc phát triển lành mạnh của thị trường tài chính và hoạt động
sản xuất kinh doanh, trong cơ c
ấu doanh thu từ cho vay chiếm tới
hơn 70%, còn thu từ các dịch vụ ngân hàng chỉ chiếm dưới 30%.
- Hiện nay các NHTM Nhà nước Việt Nam hiện chiếm trên 70%
thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân
hàng Việt Nam. Còn đối tượng khách hàng ch
ủ yếu của NHTM cổ
phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khách hàng của các NH

liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu là các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- về mặt rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng cho thấy tỷ lệ
nợ xấu vẫn còn tồn tại. Theo công bố của hệ thống NHTM về tủ
lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ tuy đã giảm chỉ còn trên 3% n
ăm
2007 so với 14.6% năm 1997.
- Trên thực tế tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ng
ắn
hạn vẫn chiếm khoảng trên dưới 3/4, do vậy sự sai lệch về cơ
cấu thời hạn bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là tương
đói lớn Mặc dầu trong vài năm gần đây sự sai lệch về cơ cấu
đồng tiền tuy có giảm, nhưng vẫn còn ở mức độ rất lớn trong đi
ều
kiện lạm phát tương đối cao trong những năm gần đây, đặc biệt
là năm 2008 và trong môi trường đô la hóa cao như ở Việt Nam
hiện nay.
- Hoạt động của các NHTM chủ yếu dựa trên nguồn thu chênh
lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay, điều đó sẽ làm
cho hoạt động của các NHTM có rủi ro lớn, tuy răng trong vài
năm gần đây các NHTM đã có thêm nhiều dịch vụ mới. Hiện nay
phần lớn các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản, trong
khi thị trường bất động sản đang nguội lạnh và có những biến
động không bình thường. Còn các khoản vay được thế chấp
chứng khoán tuy tỷ trọng còn nhỏ, song cũng đáng cảnh báo và
lo ngại về năng lực của các nhà đầu tư các nhân còn thấp và thị
trường trứng khoán Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều yếu tố biến động
về giá.
Nhìn lại sau hơn hai năm gia nhập WTO dòng vốn chu chuyển
qua ngân hàng tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và vư

ợt xa
dự báo từ đầu năm của các nhà quản lý và quản trị ngân hàng

Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn
thử biểu” của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của các
doanh nghiệp. Chức năng cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế
của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thể hiện rõ. Vốn
dài hạn vẫn chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tiền tệ.
Đó là điểm bất cập không phù hợp với sự phát triển của thị
trường tài chính.
Nhìn lại thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 8 năm hoạt
động, còn nhiều tồn tại đó là:
- Về quy mô so với các nước trong khu vực còn nhỏ, tuy vốn hóa
thị trường tăng nhanh đạt 45%GDP. Giá chứng khoán (chỉ số giá
cổ phiếu VN-index) tăng giảm thấp thường, thị trường chứng
khoán trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự bền vững lành
mạnh.
- Về hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường
còn nhiều bất cập về tài chính. M
ặc dầu các công ty chứng khoán
đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt
đ
ộng hoặc vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với các công ty
trứng khoán trực thuộc ngân hàng thương mại), nhưng nhìn
chung vốn điều lệ vẫn còn thấp, điều đó đã làm ảnh hưởng đến
khả năng tham gia thị trường của các công ty chỉ đóng vai trò đ
ầu
tư dẫn dắt thị trường hoặc rủi ro do mức vốn khả dụng thấp.
- Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và hạ tầng công nghệ thông tin còn

hạn chế. Đội ngũ về nhân sự hành nghề có chuyên môn có giấy
phép hành nghề, đặc biệt về chất lượng vè nhân sự lãnh đạo
công ty còn thiếu và yếu chủ yếu về nghiệp vụ chuyên môn kinh
doanh chứng khoán cũng như tư vấn pháp luật về chuyển đổi
doanh nghiệp.
Trên thực tế hiện nay số lượng công ty chứng khoán ở nước ta
vượt quá quy mô thị trường, nếu so sánh với các nước trong khu
vực (Trung Quốc 107 công ty, Malaysia 37 công ty, Thái Lan 41
công ty, Singgapor 27 công ty và Hàn Quốc trên 50 công ty).
- Tuy số lượng tài khoản đầu tư tăng nhanh, nhưng chủ yếu là tài
khoản các nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị tác động chi
phối bởi các nhà đầu tư lớn trên thị trường. Những nhà đầu tư
này lại thiếu kỹ năng phân tích đầu tư, phân tích thị trường, do
vậy ảnh hưởng tới sự ổn định của thị trường. Những nhà đầu tư
chuyên nghiệp chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn, một số nhà đầu tư
lớn nước ngoài mở tài khoản nhưng chưa tham gia đầu tư. Các
quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua
các tài khoản ủy thác cá nhân và đầu tư trung lập vào cổ phiếu
các doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư trên Sàn
giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội.
- Tuy Luật Chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định
144/2003/NĐ-CP, ngày 28/11/2003 của Chính phủ về Chứng
khoán và Thị trường chứng khoán, song hệ thống pháp luật về
thị trường chứng khoán còn bất cập và chưa được hoàn thi
ện. So
với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của sự phát triển thị trường tài
chính và các định chế tài chính trong nề kinh tế thị trường với
năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà
nước còn hạn chế.

Cơ quan quản lý Nhà nước, SGDK và TTGDCK, các công ty
chứng khoán, công ty niêm yết trong công tác quản lý, điều hành
hoạt động của thị trường chứng khoán còn thiếu kinh nghiệm
thực tiễn và nhiều bất cập.
Thị trường bảo hiểm
Trước đây, thị trường bảo hiểm duy nhất chỉ có 1 doanh nghiệp.
Kể từ năm 1933, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP,
đặc biệt là khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời, hoạt động kinh
doanh bảo hiểm đã đạt được những kết quả quan trọng sau:
- Quy mô và phạm vi hoạt động của thị trường bảo hiểm đã phát
triển mạnh mẽ, với tốc độ cao, bên cạnh việc đảm bảo ổn định,
chống lại các nguy cơ rủi ro, thị trường bảo hiểm còn đóng vai trò
quan trọng trong việc huy động các nguồn lực tài chính đầu t
ư dài
hạn của nên kinh tế.
Các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo lập nguồn vốn lớn và dài hạn
cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Bảo hiểm đã góp phần tích
cực đến ổn định và phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân
dân.
- Các loại sản phẩm bảo hiểm được phát triển đa dạng, phong
phú với gần 70 sản phẩm bảo hiểm nhận thọ và phi nhân thọ
thuộc cả lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo
hiểm trách nhiệm. Cơ cấu bảo hiểm đã chuyển dần từ ngắn hạn
sang dài hạn.
- Xét trên phương diện pháp lý, thị trường bảo hiểm Việt Nam
được vận hành trong khuôn khổ pháp lý tương đối đồng bộ, chặt
chẽ và áp dụng nguyên tắc phù hợp với thông lệ và chuẩn mực
quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thị trường bảo hiểm còn một
số tồn tại:

- Quy mô thị trường còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và
thấp hơn so với các nước trong khu vực.
- Thị trường bảo hiểm phát triển chưa cân đối, các loại hình sản
phẩm chưa đa dạng; năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế và
biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn tồn tại; hoạt động
môi giới bảo hiểm còn chậm phát triển; một số cơ chế chính sách
hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường
bảo hiểm; công tác quản lý giám sát còn nhiều bất cập,
Nhìn lại thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt lá
từ sau những năm đổi mới kinh tế và sau hơn 2 năm gia nhập
WTO của Việt Nam, đã có những thành công. Bên cạnh những
kết quả dật được, cũng còn nhiều hạn chế và tồn tại, đó là:
- Hạn chế trong việc huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư
phát triển, thể hiện: thị trường tài chính có quy mô nhỏ, các thể
chế trên thị trường chưa hoàn chỉnh, nhiều định chế tài chính
trung gian cần tiếp tục hoàn thiện; sản phẩm hoàng hóa của thị
trường chưa nhiều, phạm vi cung cấp dịch vụ chủ yếu mới tập
trung tại khu vực thành thị; sự phối hợp giữa các kênh huy động
vốn còn chưa đồng bộ; khung pháp lý mới được xây dựng và
hình thành, các nguyên tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính
minh bạch, công khai tuy đã được áo dụng, song còn nhiều vấn
đề cần được hoàn thiện; năng lực cung ứng dịch vụ tài chính còn
hạn chế
- Vấn đề quản lý, điều hành của Nhà nước còn những mặt hạn
chế, chưa có sự phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối
với thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; còn có tình trạng cơ
quan quản lý Nhà nước can thiệp vào các hoạt động của chủ thể,
trong khi đó lại buông lỏng giám sát thị trường, sự phối hợp quản
lý và điều hành giữa các kênh huy động, giữa các loại thị trường
(thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường bất động sản ) còn

thiếu đồng bộ; năng lực cán bộ quản lý Nhà nước chưa được
nâng cao phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; công tác quản lý giám
sát để giảm thiểu rủi ro còn nhiều bất cập.
Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài
chính Việt Nam nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Để phát triển thị trường tài chính Việt Nam hoạt động an toàn và
hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; có cơ chế kiểm tra
giám sát các luồng vốn; mở cửa khu vực tài chính theo các cam
kết quốc tế, cần có những giải pháp cơ bản cơ chế và giám sát
thị trường tài chính nhằm phòng ngừa hạn chế và rủi ro:
Một là, hoàn thiện và bổ sung các quy định về luật pháp, tạo
môi trường pháp lý động bộ thông thoáng về hoạt động tài
chính tiền tệ cho hoạt động của thị trường tài chính
Với quan điểm Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào thị
trường, nhưng sẽ giám sát chặt chẽ thị trường tài chính thông
qua khuôn khổ luật pháp và tạo môi trường pháp lý đồng bộ
thông thoáng về hoạt động tài chính, tiền tệ. Đồng thời cải thiện
tính minh bạch và phát triển tính đa dạng của thị trường.
- Cần rà soát lại nội dung của Luật các tổ chức tín dụng; phân
định rõ ranh giới, phạm vi hoạt động của thị trường vốn, thị
trường tiền tệ; đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp giữa các thị
trường, đảm bảo huy động tối đa nguồn lực tài chính và giảm
thiểu rủi ro của thị trường. Tách bạch hoạt động tín dụng chính
sách với tín dụng thương mại, ngân hàng chính sách xã hội để
chuyên thực hiện tín dụng chính sách theo quy định ưu tiên của
Chính phủ.
Đối với hoạt động của ngân hàng cần nâng cao tính độc lập của
NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Cũng

như các định chế tài chính, thị trường tiền tệ là định chế quan
trọng trong cơ chế chuyền dẫn của chính sách tiền tệ. Một thị
trường tiền tệ kém phát triển khó có thể chuyền dẫn chính xác
các quyết định của NHTW và ngược lại NHTW khó có thể nhận
được các tín hiệu của thị trường để đưa ra các quyết định chính
xác nhằm đạt được mục tiêu. Tạo điều kiện thực hiện các công
cụ mới của chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp
như nghiệp vụ thị trường mở, hoàn thiện thị trường liên ngân
hàng nội tệ và ngoại tệ.
Các tổ chức tín dụng hoàn toàn tự xác định lãi suất trên cơ sở lãi
suất cơ bản. khi lãi suất được tự do hoàn toàn thì đó là tín hiệu
phản ánh đúng đắn quan hệ cung cầu. Xây dựng một số NHTW
khu vực mới chức năng thực hiện cơ bản toàn bộ nghiệp vụ
NHTW, đồng thời đảm bảo cung ứng đầy đủ các dịch vụ t
ài chính
cần có trên địa bàn. NHNN cần tăng cường phối hợp với các
NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế để ngăn ngừa rủi ro, qua
đó hạn chế biến động của các thị trường tài chính trong nước và
đảm bảo an toàn cho hệ thống NH Việt Nam, hệ thống NHTM và
thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả tọa điều kiện
thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách
tiền tệ.
Đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao cho thị trư
ờng
tài chính. Đối với các dịch vụ ngân hàng truyền thống, hiện cần
có cải tiến cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn; tăng cường
trang thiết bị chương trình phần mềm để mở rộng phạm vi hệ
thống thanh toán; mở rộng mạng lưới giao dịch; cần cải tiến
nghiệp vụ sử dụng vốn; mở rộng các dịch vụ hiện có, đồng thời
triển khai các dịch vụ mới như: dịch vụ về huy động vốn, phát

triển dịch vụ chiết khấu thương phiếu, cho vay thấu chi,
Tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM. Đối với NHTM
Nhà nước cần giải quyết căn bản vấn đề vốn bằng 2 giải pháp c
ơ
bản sau: Một là, cổ phần hóa các NHTM Nhà nước, Nhà nước
chỉ nắm giữ cổ phần chi phối. Hai là, hình thành và phát triển tập
đoàn tài chính ngân hàng trên cơ sở sắp xếp và cơ cấu lại hoạt
động của các NHTM Nhà nước hiện hành. Đối với NHTM cổ
phần cần có cơ chế khuyến khích tăng vốn điều lệ. Mặc dù trong
thực tế vừa qua, các NHTM cổ phần đã chủ động trong việc tăng
vốn điều lệ với tốc độ khá cao.
- Luật chứng khoán đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9
thông qua. Luật chứng khoán ra đời đã tạo kênh huy động vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Chính phủ cần có lộ trình cho việc phát hành chứng khoán lần
đầu (IPO) thuật hợp lý đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa và
các doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu.
Về địa vị của UBCKNN, hiện nay vẫn còn là cơ quan trong Bộ T
ài
chính có chức năng và thẩm quyền, đảm bảo tính độc lập cần
thiết và thực hiện trong việc xử lý các vấn đề nghiệp vụ chứng
khoán. Về lâu dài, theo chúng tôi khi thị trường chứng khoán đã

×