TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TPHCM
BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH MÔN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC LÊ – NIN
Đề tài 10
VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
ABC XYZ
Thành viên nhóm
* Nguyễn Lê Anh Thiện 91203580
Bùi Thị Hồng Phúc 61202773
Dương Vinh Quang 91202917
Nguyễn Hoàng Ga 61200860
Nguyễn Mạnh Quý 61203054
Nguyễn Nguyên Hoàng 21008061
1. Khái niệm về văn hóa và nền văn hóa
1.1. Khái niệm về văn hóa
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và
hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình ; biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời
kỳ lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển, C. Mác và Anghen đã khái quát hoạt động xã hội
thành hai loại hình cơ bản là “sản xuất vật chất” và sản xuất tinh thần”. Do đó văn hóa bao gồm cả văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật
chất.
Văn hóa tinh thần là tổng thế các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh
thần và hoạt động tinh thần của con người.
Như vậy, nói tới văn hóa là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực thuộc bản
chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con
người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và sin hoạt tinh thần của xã hội.
Tuy nhiên, sự phát triển văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính trị của
mỗi chế độ xã hội nhất định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế và chính trị ấy sẽ không thể hiểu được nội dung,
bản chất của văn hóa. Do đó, văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Nói đến văn hóa là nói đến khía cạnh ý thức xã hội của văn hóa, tính giai cấp của văn hóa và trên
cơ sở vận động của văn hóa trong xã hội có giai cấp. người ta quan niệm rằng : nền văn hóa là biểu hiện
cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa đuọc hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của
mỗi thời kì lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết
định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa.
Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa, thì chính trị là yếu tố quy định huynh hướng phát
triển của một nền văn hóa, tạo nội dung ý thức của văn hóa.
1.2. Khái niệm về nền văn hóa
1.2.1. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Chế độ mới xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan trong là tiền đề chính trị và tiền đề
kinh tế. từ hai tiền đề đó, tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát triển trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó có sự hình thành và phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Những đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định
phương hướng phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dâ tộc sâu
sắc.
2
Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác,
đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức Đảng Cộng Sản có sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
2. Văn hóa Việt Nam
2.1. Những quan niệm về văn hóa
Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác nhau :
Quan niệm thứ nhất : đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn hóa của người Việt, trình bày
lịch sử văn hóa Việt Nam chỉ như là lịch sử văn minh của người Việt.
Quan niệm thứ hai : Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân tộc Việt Nam cư trú trên mảnh
đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không có văn hóa dân tộc/quốc gia.
Quan niệm thứ ba : Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân tộc/quốc gia, đây là nền văn hóa
dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc người. Khái niệm dân tộc/quốc gia chỉ một
quốc gia có chủ quyền, trong đó phần lớn công dân gắn bó với nhau bởi những yếu tố tạo nên một dân
tộc. Quan niệm thứ ba này hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà nghiên cứu, các nhà
quản lý trong lĩnh vực văn hóa Việt Nam, vì vậy nội dung về văn hóa Việt Nam sẽ được trình bày theo
quan niệm thứ ba, văn hóa Việt Nam theo hướng văn hóa dân tộc.
2.2. Đặc trưng cơ bản
Văn hóa Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa sắc thái văn hóa
tộc người được thể hiện ở ba đặc trưng chính:
Đặc trưng thứ nhất : Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía
cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ
hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong
tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ
truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật.
Đặc trưng thứ hai : Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo
ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam. Từ cái nôi của văn hóa Việt Nam
ở đổng bằng sông Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến
những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây bắc và Đông bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt
Nam thời dựng nước ở Bắc Trung Bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm pa của người chăm ở Nam Trung
Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người Hoa, người Khơme đến sự
đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên.
Đặc trưng thứ ba : Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với những hội tụ
về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng bàng đến những ảnh
hưởng từ bên ngoài trong trong hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung
Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn
3
cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía
cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
Một số yếu tố thường được coi là đặc trưng của văn hóa Việt Nam khi nhìn nhận từ bên ngoài bao
gồm tôn kính tổ tiên, tôn trọng các giá trị cộng đồng và gia đình, thủ công mỹ nghệ, lao động cần cù và
hiếu học. Phương Tây cũng cho rằng những biểu tượng quan trọng trong văn hóa Việt Nam bao
gồm rồng, rùa, hoa sen và tre.
2.3. Tổ chức xã hội
Từ ngàn năm nay, hai đơn vị xã hội quan trọng nhất trong văn hóa là Làng (thôn) và Nước (quốc
gia). Tục ngữ Việt Nam có câu "Làng đi đôi với nước". Các đơn vị tổ chức trung gian là Huyện và Tỉnh.
Quan hệ họ hàng đóng một vai trò quan trọng ở Việt Nam. Không giống như sự nhấn mạnh cá
nhân của văn hóa phương Tây, văn hóa Phương Đông đánh giá cao vai trò của gia đình và tinh chất gia
tộc. Trong văn hóa phương Đông (đặc biệt là vòng Văn hóa chữ Hán), văn hóa Trung Quốc coi trọng giá
trị gia đình hơn gia tộc, trong khi ở văn hóa Việt Nam đặt gia tộc cao hơn gia đình. Gia tộc luôn có một
tộc trưởng, bàn thờ gia tộc (nhà thờ họ), và đám tang người Việt luôn có sự tham gia của cả gia tộc.
Trước đây hầu hết các cư dân ở một địa phương có quan hệ huyết thống. Điều đó thực tế vẫn còn
thấy trong tên làng như Đặng Xá (nơi có người họ Đặng là chủ yếu), Châu Xá, Lê Xá Ở vùng Tây
Nguyên truyền thống nhiều gia đình trong một gia tộc cư trú trong một nhà dài vẫn còn phổ biến. Ở nông
thôn Việt Nam ngày nay, ta vẫn có thể thấy ba hay bốn thế hệ sống dưới một mái nhà.
Bởi vì mối quan hệ họ hàng có vai trò quan trọng trong xã hội, nên tồn tại một hệ thống phân cấp
phức tạp các mối quan hệ. Trong xã hội Việt Nam, có chín thế hệ khác nhau. Người trẻ tuổi có thể có một
vị trí cao hơn trong hệ thống phân cấp của gia đình hơn và vẫn phải được tôn trọng như một người lớn
tuổi. Ví dụ, nếu cha mẹ, của một đứa trẻ lớn tuổi, có một người anh/chị lớn tuổi có con trẻ hơn so với con
mình, thì con họ sẽ ở vị trí thấp hơn trong gia đình. Nói cách khác, bạn phải đối xử với người anh em họ
của bạn trẻ tuổi như một người lớn tuổi, nếu cha của bạn là em trai của bố người anh em họ đó.
Hệ thống phức tạp của các mối quan hệ, là kết quả của cả Nho giáo và các chuẩn mực xã hội
được chuyển tải thông qua việc sử dụng rộng rãi của các đại từ khác nhau trong tiếng Việt, trong đó có
một mảng rộng lớn của sự kính trọng để biểu thị trạng thái của người nói liên quan đến những người mà
họ đang nói chuyện đến. Xưng hô trong tiếng Việt đã trở thành đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
2.4. Văn hóa Việt Nam theo quan điểm dân tộc học
2.4.1. Tín ngưỡng
Như mọi nơi trên thế giới, từ thuở xa xưa các dân tộc trên đất Việt Nam đã thờ rất nhiều thần linh.
Các dân tộc thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã
hội chưa thể giải thích được vào thời đó. Ngày nay nhờ những nghiên cứu, những lễ hội, những phong tục
hiện hữu chúng ta biết nhiều hơn về cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của các dân tộc Việt Nam cổ
nói chung và tín ngưỡng của họ nói riêng.
4
Người xưa cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thờ rất nhiều thần, nguyên thủy
họ thờ thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa, những vị
thần gắn với những ước mơ thiết thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Đi sâu vào cuộc sống hằng
ngày họ thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô với hy vọng lúc nào ngô lúa
cũng đầy đủ. Không chỉ các vị thần gắn với đời sống vật chất, các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời
sống tinh thần của họ. người Việt thờ các thần Thành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc, các vị thần
trong đạo mẫu. Họ là các vị thần có công lớn với đất nước, với làng xã, dân chúng thờ phụng các vị thần
này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Cũng như người Việt, người Hoa thờ các vị
thần Quan Công, Thần Tài. Người Chăm thờ các vị thần như Po Nagar, Po Rome,
Thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và một số dân tộc
khác. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy nên
gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày
giỗ, tết thì các ngày mùng một, ngày rằm họ thắp hương như một hình thức thông báo với tổ tiên ông bà.
Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đều biết tới một ngày giỗ tổ chung cho cho người Việt đó là
ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch)
2.4.2. Tôn giáo
Trên danh nghĩa, các tôn giáo ở Việt Nam gồm : Phật giáo đại thừa, Khổng giáo và Đạo
giáo (được gọi là "Tam giáo"). Có một số tôn giáo khác như Công giáo Rôma, Cao đài và Hòa hảo.
Những nhóm tôn giáo có ít tín đồ hơn khác gồm Phật giáo tiểu thừa, Tin lành và Hồi giáo.
Phần đông đa số người dân Việt Nam xem họ là nhưng người không có tín ngưỡng, mặc dù họ
cũng có đi đến các địa điểm tôn giáo vài lần trong một năm. Người Việt Nam được cho là ít có tinh thần
tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung ở mặt thờ cúng, mặt giáo lý ít được quan tâm.
Với sự biến động của lịch sử các dân tộc tại Việt Nam, trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, đời sống
tinh thần nói chung của người dân Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá Trung Hoa. Với ba hệ tư
tưởng Tam giáo đã thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như vào tôn giáo của người Việt Nam là Đạo
giáo, Nho giáo và Phật giáo. Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc và thâm nhập vào Việt
Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa.
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và có hai phái đã du nhập vào Việt Nam bằng hai ngả khác
nhau: phái Đại thừa vào Việt Nam qua Trung Quốc cùng với Đạo giáo và Nho giáo. Còn phái Tiểu
thừa qua các nước Đông Nam Á láng giềng vào Việt Nam thịnh hành ở cộng đồng người Khmer ở Đồng
bằng sông cửu long.
Tam giáo có những thời kỳ phát triển rất mạnh và cũng có lúc mờ nhạt tại Việt Nam, nhưng nhìn
chung ảnh hưởng của Tam giáo rất sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng, nhất là Phật giáo. Và đến lượt
mình, các tầng lớp dân chúng tại Việt Nam đã tiếp thu các tôn giáo mới một cách có chọn lọc và sáng tạo,
5
hay nói cách khác các tôn giáo mới du nhập đã được bản địa hoá để phù hợp với phong tục tập quán và tín
ngưỡng của người dân địa phương.
Công giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16, tuy việc truyền đạo lúc bấy giờ gặp nhiều
khó khăn nhưng ở Việt Nam từ lúc đầu cũng đã có một số lượng người theo Công giáo, từ cuối thế kỷ 19
khi thực dân pháp đã xâm lược hoàn toàn Việt Nam thì việc truyền đạo mới được tự do dễ dàng. Hiện nay
Việt Nam có khoảng 8% dân số là tín đồ Công giáo, đứng hàng thứ 2 ở Đông Nam Á sau Philippins.
Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo cơ đốc là tin lành cũng xâm nhập vào Việt Nam từ
đầu thế kỷ 20, đạo Tin Lành được phổ biến tới các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, ước tính
hiện nay có khoảng hơn 1 triệu người theo đạo.
Đạo hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15
tại vương quốc Chăm pa ở miền trung Việt Nam, sau đó theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới
vùng An giang, Tây ninh vào thế kỷ 19.
Ngoài các tôn giáo du nhập từ bên ngoài trên, tại miền Nam Việt Nam có các tôn giáo Hòa
hảo và Cao đài. Đây là hai tôn giáo bản địa Việt Nam, đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và đạo
Cao Đài được sáng lập từ năm 1926. Hiện nay hai tôn giáo bản địa này phát triển mạnh khắp Nam Bộ và
ra cả một số tỉnh ở miền trung và Tây nguyên và miền Bắc.
2.4.3. Ngôn ngữ
Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam thành 8 nhóm ngôn ngữ
của họ :
Nhóm Việt-Mường: gồm người Việt, người Mường, người Chứt, người Thổ
Nhóm Tày-Thái: gồm người Tày, Thái, Nùng, Bố Y, Sán Chay, Lào,
Nhóm Dao-Hmông: gồm người Hmông, Dao, Pà Thẻn,
Nhóm Tạng-Miến: gồm người Hà Nhì, Lô Lô, Si La, La Hủ,
Nhóm Hán: gồm người Hoa, Sán Dìu, Ngái,
Nhóm Môn-Khmer: gồm người Khmer, Kháng, Hrê, Xơ Đăng, Ba Na, Khơ Mú, Cơ Ho,
Mạ, Xinh Mun,
Nhóm Mã Lai-Đa đảo: gồm người Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru,
Nhóm hỗn hợp Nam Á: gồm la Chí, La Ha, Pu Chéo, Cơ Lao,
Tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam,
là tiếng mẹ đẻ của người Việt và đồng thời là ngôn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất
nước Việt Nam, tiếng Việt được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngôn ngữ chung của người Việt
nhưng nó có sự khác biệt về mặt ngữ âm và từ vựng ở các vùng miền dẫn tới phương ngữ tiếng Việt được
phân chia làm nhiều vùng phương ngữ khác nhau từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Về nguồn gốc, tiếng Việt được xem là có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt từ vựng kết hợp
với ngôn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu. Trong qúa trình phát triển Tiếng Việt đã tiếp thu và đồng hoá
6
nhiều từ Hán và được gọi là từ Hán-Việt, ngoài ra tiếng Việt còn tiếp thu một số lượng khá lớn các từ
khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ 20 đến nay.
Về chữ viết, theo một số nghiên cứu khảo cổ, từ thời Hùng Vương người Việt đã có chữ viết riêng
gọi là chữ khoa đẩu mà người Trung Quốc miêu tả là giống đàn nòng nọc đang bơi. Tới thời Bắc
thuộc, chữ Hán là chữ viết chính thức ở Việt Nam. Sau khi dành độc lập từ thế kỷ 10, với ý thức dân tộc
cũng như các từ vựng không có trong chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm dùng song hành với
chữ Hán. chữ Nôm được hoàn chỉnh vào thế kỷ 12 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 18. Tuy nhiên chữ Nôm
chỉ được dùng trong lĩnh vực văn chương, còn trong hành chính thì vẫn dùng chữ Hán.
Từ thế kỷ 17, khi các nhà truyền giáo phương Tây vào Việt Nam truyền đạo Công giáo đã dựa
trên ký tự Latinh để chuyển âm tiếng Việt sang chữ Lalinh và đây là cơ sở cho sự ra đời của chữ quốc
ngữ hiện nay của Việt Nam. Mặc dù chữ quốc ngữ đã có từ thế kỷ 17 nhưng phải tới đầu thế kỷ 20 khi
người Pháp đô hộ hoàn toàn Việt Nam thì họ mới cho phổ biến chữ Quốc ngữ làm thành một công cụ giao
tiếp thuận lợi trong xã hội Việt Nam.
Ngoài chữ Quốc ngữ là chữ viết chung của người Việt và của Việt Nam, một số dân tộc khác
cũng sữ dụng song hành chữ viết của dân tộc mình như chữ Khmer của người Khmer ở Nam Bộ, chữ
Akhar Thrah của người Chăm,chữ Thái của người Thái ở vùng Tây bắc, chữ Mnông của người Mnông ở
Tây Nguyên, nhằm gìn giữ văn hoá của dân tộc mình cũng như tiếp nhận các tri thức mới từ chữ quốc
ngữ dịch sang. Theo thống kê hiện nay có 26 dân tộc thiểu số tại Việt Nam có chữ viết riêng của mình
ngoài chữ Quốc ngữ.
2.5. Tính truyền thống qua phong tục tập quán
2.5.1. Phong tục
Theo nghĩa Hán-Việt, Phong là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và Tục là thói quen lâu đời. Phong
tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn năm nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt
trong người dân có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Theo sự thăng trầm của lịch sử của dân tộc, phong
tục của người Việt Nam cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội. Tuy nhiên có
những phong tục mất đi những cũng có nhưng phong tục khẳng định được tính đúng đắn, cái hay, cái đẹp
của nó qua việc những phong tục đó còn hiện hữu trong cuộc sống ngày nay của người Việt Nam.
Sớm nhất được nhắc đến trong lịch sử là tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương trải qua hàng nghìn
năm người Việt cùng một số dân tộc khác vẫn giữ được tập tục này trong cuộc sống ngày nay, tục ăn trầu
bắt nguồn từ truyện sự tích Trầu Cau để rồi thành biểu tượng cho tình anh em, vợ chồng của người Việt,
theo thời gian ý nghĩa của tục ăn trầu được mở rộng sang việc giao hiếu, kết thân của người Việt Nam.
Cùng ra đời từ xa xưa với tục ăn trầu là phong tục đón năm mới hay còn gọi là Tết, Tết vừa là
một phong tục đồng thời cũng là một tín ngưỡng và cũng là một lễ hội của người Việt cùng một số dân
tộc khác. Một số dân tộc khác đón năm mới trong thời gian khác và tên gọi đặc trưng của mình như Chol
7
Chnam Thmay (khoảng tháng 4) của người Khmer, Katê (khoảng tháng 10) của người
Chăm Bàlamôm, Từ Tết Nguyên Đán đón năm mới, theo thời gian với những ảnh hưởng từ Trung Quốc,
người Việt Nam bổ sung thêm vào những phong tục Tết khác như Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ, Tết
Trung thu, Tết Thanh minh.
Không thấy nhắc đến sớm trong sử sách nhưng các phong tục hôn nhân, sinh đẻ, tang lễ, cũng đã
song hành với người Việt Nam từ xa xưa và đến ngày nay vẫn là những phong tục gắn liền với đời sống
người Việt Nam.
2.5.2. Ẩm thực
Ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy
trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung
Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối
trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức
rất thú vị dù không thực sự bổ béo.
Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam là sự trung
dung trong cách pha trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ (gia vị)
để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm, gia vị thực vật, quả hoặc lá
non; các gia vị lên men và các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử
dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau và thường thuận theo nguyên lý "âm dương phối triển".
Số lượng món ăn và cách thức kết hợp thực phẩm trong món ăn Việt Nam là vô cùng đa dạng do
có sự kết hợp Đông Tây, ẩm thực Trung Hoa và ẩm thực các nước Đông Nam Á, đặc biệt là sự sáng tạo
của người Việt để bản địa hóa và tìm ra những phương thức thích hợp nhất. Có những món ăn không hề
thay đổi trong hàng nghìn năm qua.
2.5.3. Trang phục
Trang phục Việt Nam rất đa dạng. Ở thời phong kiến, người ta có những quy định rất khắt khe về
cách ăn mặc. Dân thường không được phép mặc đồ nhuộm bất kì màu nào khác ngoài những
màu đen, nâu hay trắng. Quần áo của người dân hầu hết là tầm thường và đơn sơ, để hợp với thân phận
của mình trong xã hội (ngoài những dịp lễ quan trọng hoặc lễ cúng tế, đám cưới ).
Một trong những y phục cổ xưa nhất được người phụ nữ bình dân mặc cho đến đầu thế kỉ XX là
bộ "Áo tứ thân". Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là "Áo tứ thân" có thể đã ra đời từ thế kỷ 12.Trong
đời sống thường nhật ngày nay, trang phục đã theo phong cách phương tây. Những bộ quần áo truyền
thống chỉ được mặc trong những dịp đặc biệt.
Ngoài ra, áo dài cho cả nam lẫn nữ được coi như quốc phục của Việt Nam.
2.5.4. Lễ hội
8
Cũng giống như nhiều nước khác, Việt Nam là một nước có nhiều lễ hội dân gian là hình thức
sinh hoạt của cộng đồng. Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể lệ và hình
thức sinh hoạt của một cộng đồng đã được tái hiện một cách rất sinh động. Lễ hội được tổ chức vào
những thời điểm khác nhau trong một năm, tuỳ thuộc vào phong tục tập quán của từng dân tộc, nhưng lễ
hội vẫn tập trung nhiều nhất vào mùa Xuân.
Việt Nam có nhiều loại lễ hội lớn và long trọng như lễ tế các thần linh, các lễ hội nhằm tưởng nhớ
tới công ơn tổ tiên, nòi giống như hội Đền Hùng, có những lễ hội tưởng nhớ tới các anh hùng như hội
Đền Mẫu Đợi, hội Gióng, hội Đền Kiếp Bạc, hội Đống Đa, có những lễ hội tưởng nhớ người có công mở
mang bờ cõi, các ông tổ các ngành nghề, của người Việt. Bên cạnh các lễ hội lớn của người Việt, các dân
tộc khác cũng có những lễ hội lớn như lễ hội Katê của người Chăm, lễ cúng Trăng của người Khmer, lễ
hội xuống Đồng của người Tày, người Nùng, Lễ hội hoa ban của người Thái, Hội đua voi củangười
Mnông.
Ngoài các lễ hội lớn và long trọng tại Việt Nam từ bắc đến nam còn có hàng nghìn lễ hội lớn nhỏ
khác nhau của các dân tộc Việt Nam. Các lễ hội ở Việt Nam rất đa dạng, những lễ hội về nông nghiệp, hội
văn nghệ vui chơi, thi tài, hội giao duyên, hội lịch sử, Đặc biệt là hội mừng năm mới (Tết Nguyên Đán)
của người Việt và một số dân tộc khác
Cùng với các lễ hội dân gian, các lễ hội của các tôn giáo ban đầu chỉ mang ý nghĩa nội bộ nhưng
theo thời gian các lễ hội đó lan sang các tầng lớp xã hội khác và thành những lễ hội mang tính cộng đồng
như lễ Phật đản của Phật giáo và lễ Noel của Công giáo.
2.5.5. Võ thuật
Võ thuật Việt Nam là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và
phát triển trên đất nước Việt Nam, hoặc do người Việt làm chưởng môn, gây dựng sáng tạo tại ngoại quốc
từ xưa đến nay, có những đặc trưng riêng biệt trong sự đối sánh với các võ phái nước ngoài khác. Võ
thuật Việt Nam có nội hàm khái niệm rộng hơn thuật ngữ võ cổ truyền Việt Nam (thường biết đến với tên
gọi võ Ta phân biệt với võ Tàu) vốn thường dùng để chỉ những võ phái đã phát triển trong khoảng từ giữa
thế kỷ 20 trở về trước trên lãnh thổ Việt Nam, theo đó, võ thuật Việt Nam có thể bao gồm cả những môn
phái mới sinh thành trong thời điểm hiện tại, và bao quát cả những võ phái đã phát triển trong suốt trường
kỳ lịch sử Việt Nam.
Các phái võ Việt Nam, hay còn được gọi với tên "Võ Thuật Cổ Truyền" vẫn thể hiện những đặc điểm
khác biệt rõ rệt với các nền võ học khác trên thế giới nói chung và Trung Hoa nói riêng :
• Sự xuất hiện của lời thiệu bằng thơ, phú ;
• Bộ pháp vận hành theo đồ hình bát quái (lưỡng túc bát quái vi căn), khi đứng thì
vững như đá tảng, khi di chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt như lá bay ;
• Bộ tay áp dụng theo ngũ hành pháp (song thủ ngũ hành vi bản) ;
9
• Kỹ thuật đòn thế được chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách đánh của từng
dạng đối tượng, địa hình, nhất là lối đánh cận chiến một người chống lại nhiều
người ;
• Tận dụng triệt để lối đánh "cộng lực" - dựa vào sức lực đối phương để triệt hạ đối
phương.
2.6. Nghệ Thuật
2.6.1. Văn học
Cũng như nền văn học của các nước khác trên thế giới, văn học Việt Nam bao gồm hai bộ phận
đó là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là văn học truyền miệng của người dân và văn
học viết gồm có văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ.
Kho tàng văn học dân gian của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, để giữ gìn những truyền
thống quý báu của dân tộc, để bảo tồn những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ
người Việt Nam khi đại đa số người dân trong thời phong kiến không có điều kiện biết chữ Hán, một hình
thức văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Việt
Nam. Đó là những câu chuyệnthần thoại như Thần Trụ Trời của người Việt, Đi san mặt Đất của người Lô
Lô, nhữngsử thi như Đam San của người E Đê, Đẻ đất đẻ nước của người Mường, nhữngtruyền
thuyết như Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng của người Việt, những cổ tích nhưThạch Sanh và
các truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, ca dao, Văn học dân gian thường ca ngợi tài năng và lòng
dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù độc ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ
lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái, tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên,
yêu làng xóm, quê hương. Không những thế văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh chống lại
những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối nát trong xã hội. Bằng ngôn ngữ dân
gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào
lòng người một cách tự nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho đời sau.
Trong văn học viết, với chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong một thời gian dài. Các tác phẩm
văn học cổ nhất còn lưu lại được sáng tác vào thế kỷ 11 và chủ yếu liên quan đến đạo Phật khi đó đang
thịnh hành tại Việt Nam. Đó là những bài thơ của các vị sư giải thích về cơ sở căn bản của đạo Phật cũng
như bình luận về các biến cố lịch sử hay các đề tài về ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, từ thế kỷ 13 nhiều công
trình về lịch sử, địa lý và địa chí bằngchữ Hán đã xuất hiện. Khi hệ thống chữ Nôm được hoàn chỉnh vào
thế kỷ 13, nhiều tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm lần lượt xuất hiện, một trong những tác phẩm sớm
nhất bằng chữ Nôm còn để lại đến hôm nay là các bài thơ của Nguyễn Trãi, các tác phẩm đồ sộ của ông
bao gồm một tuyển tập hàng trăm bài thơ Nôm có tên Quốc âm thi tập ở thế kỷ 15, và kế tiếp là Chinh
phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, các bài thơ của Hồ Xuân Hương và đặc biệt là tác phẩm Truyện
Kiều của Nguyễn Du.
Từ đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi, với sự phát triển của công nghệ in ấn
cùng với những tiếp xúc với văn học phương Tây, văn học Việt Nam xuất hiện các thể loại văn học
mới, văn xuôi chiếm vị trí quan trọng trên văn đàn cùng với thơ ngự trị trước đó. Các thay đổi trong đời
10
sống văn học đã xuất hiện với sự ra đời của phong trào Thơ Mới vào những năm 1930, đây là một phong
trào hiện đại nhằm giải phóng thơ Việt Nam ra khỏi những luật lệ gò bó của thơ Trung Quốc cổ. Trong
lĩnh vực văn xuôi, các hoạt động của nhóm Tự Lực Văn Đoàn chịu ảnh hưởng từ phương Tây đã tạo ra
thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Nền văn học Việt Nam từ thời kỳ này xuất hiện nhiều trào lưu, có những tác phẩm chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, có những tác phẩm theo chủ nghĩa hiện thực và cũng có những tác phẩm
gắn liền với chính trị đó là dòng tác phẩm cách mạng.
2.6.2. Kiến trúc
Bắt đầu sớm nhất với kiến trúc dân gian với những hoạ tiết về nhà cửa trên mặt trống đồng Đông
Sơn vào khoảng thế kỷ 7 trước công nguyên, trải qua thời bắc thuộc kiến trúc Việt Nam chịu nhiều ảnh
hưởng của nền kiến trúc Trung Quốc, từ thế kỷ 10 khi dành được độc lập kiến trúc Việt Nam là sự kết hợp
giữa kiến trúc bản địa cùng với những ảnh hưởng từ Trung Quốc. Các công trình của Việt Nam quy mô
thường không lớn, nhưng thường là sự kết hợp hài hoà giữa công trình chính và cảnh quan xung quanh,
đặc biệt là sử dụng hồ, ao, sông ngòi để điều tiết khí hậu và tạo cảnh quan. Từ cuối thế kỷ 19, với việc đô
hộ của thực dân Pháp, kiến trúc Việt Nam bắt đầu áp dụng rộng rãi các khuông mẫu và thủ pháp kiến trúc,
xây dựng của phương Tây, nhiều công trình còn tồn tại đến ngày nay ở các đô thị, đặc biệt là tại Hà
Nội đã để lại một sắc thái kiến trúc đẹp và độc đáo.
2.6.3. Điện ảnh
Điện ảnh là môn nghệ thuật xuất hiện muộn nhất tại Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn. Ban đầu
là những thể loại phim do người Pháp thực hiện từ những năm 1920. Tới thập niên 1930, cùng với sự ra
đời của các môn âm nhạc, mỹ thuật hiện đại, điện ảnh cũng bắt đầu được người Việt Nam thực hiện. Tiếp
đó sau sự chia cắt đất nước, điện ảnh Việt Nam tại hai miền đều có những hướng phát triển riêng cùng với
những ảnh hưởng từ bên ngoài là hai nền điện ảnh miền Bắc và điện ảnh miền Nam. Sau những năm 1975
nền điện ảnh Việt Nam do nhà nước thực hiện. Tới giai đoạn Đổi Mới, từ những năm 1986 sự tham gia
của tư nhân vào lĩnh vực điện ảnh đã tạo ra dòng phim mỳ ăn liền, dòng phim này thịnh hành trong những
năm đầu của thập niêm 1990 và tự kết thúc vai trò của mình từ những năm 1995 nhường chỗ cho
dòng phim đương đại Việt Nam.
2.6.4. Mỹ thuật
Nền Mỹ thuật bắt đầu với điêu khắc cổ được thể hiện trên mặt trống Đồng Đông Sơn của cư dân
Lạc Việt, trải qua các thời kỳ cùng với những ảnh hưởng từ bên ngoài đã tạo ra nền điêu khắc Việt Nam
phát triển rực rỡ vào các thời Lý, Trần, Lê qua các công trình tôn giáo và cung điện các vương triều. Bên
cạnh các công trình kiến trúc và điêu khắc của người Việt thì nền điêu khắc kiến trúc Việt Nam được bổ
sung các kỹ thuật tinh xảo trong việc xây dựng các công trình tôn giáo tín ngưỡng của người
Chăm và người Khmer Nam Bộ. Hội họa xuất hiện muộn hơn với dòng tranh dân gian Việt Nam,
gồm tranh lụa, tranh tết, tranh Đông Hồ. Đề tài tranh dân gian thường giản dị và gần gũi với đời sống dân
dã, mỗi bức tranh đều có ý nghĩa tượng trưng và đều được cách điệu hoá. Cùng với các môn nghệ thuật
hiện đại khác, mỹ thuật hiện đại Việt Nam cũng có những bước tiến dài từ đầu thế kỷ 20 với ảnh hưởng
của nghệ thuật phương Tây thời Pháp thuộc, với các trường phái lãng mạn, hiện thực, ấn tượng, trừu
tượng, siêu thực, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây nhưng khuynh hướng mỹ thuật hiện đại
của Việt Nam vẫn gắn liền với lịch sử đất nước.
2.6.5. Sân khấu
11
Sự ra đời và phát triển của sân khấu dân gian Việt Nam gắn liền với đời sống nông nghiệp, múa
rối nước là nghệ thuật dân gian của của người nông dân làm ruộng nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ,
thường được biểu diễn trong dịp hội hè, những lúc nông nhàn, múa rối nước là một nghệ thuật tổng hoà
giữa các nghệ thuật điêu khắc, sơn mài, âm nhạc, hội hoạ và văn học. Cùng với múa rối nước là các môn
nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương góp phần làm phong phú nền sân khấu cổ truyền Việt Nam. Từ đầu thế
kỷ 20, cùng với những ảnh hưởng của sân khấu phương Tây, nghệ thuật sân khấu hiện đại Việt Nam được
bổ sung thêm các môn nghệ thuật kịch, hài kịch, xiếc, ảo thuật, múa, ballet, opera,
2.6.6. Âm nhạc
Âm nhạc dân gian Việt Nam cũng có truyền thống lâu đời, bắt đầu với chầu văn ,quan họ, ca trù, hát
ví, dân ca, vọng cổ, nhạc cung đình, của người Việt và bên cạnh đó là âm nhạc dân gian của các dân tộc
khác như hát lượn của người Tày, hát Sli của người Nùng, hát Khan của người Ê Đê, hát dù kê của người
Khmer Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, nền âm nhạc hiện đại Việt Nam từ những năm 1930
được hình thành và phát triển đến ngày nay được gọi là tân nhạc Việt Nam với các dòng nhạc tiền
chiến, nhạc đỏ, tình khúc 1954-1975, nhạc vàng, nhạc hải ngoại và nhạc trẻ. Tính đến tháng 12 năm 2013,
6 trong số các hình thức âm nhạc dân gian Việt Nam là dân ca quan họ, ca trù, nhã nhạc cung đình
Huế,hát xoan, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên (bao gồm cả âm nhạc Cồng Chiêng) và đờn
ca tài tử được UNESCO vinh danh là kiệt tác di sản truyền khẩu văn hóa phi vật thể của nhân loại (ở Việt
Nam cũng thường gọi là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới).
3. Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
3.1. Nghị quyết Trung Ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển văn hóa
Nghị quyết Trung Ương 5, khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” là một trong những văn bản quan trọng của Ðảng ta (sau Ðề cương văn hóa Việt
Nam năm 1943), có tính chiến lược lâu dài và tính cương lĩnh hành động trong xây dựng, phát triển nền
văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới, bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Có thể nói, đây là bước ngoặt về tư duy và nhận thức văn hóa, mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt, vừa mang tính định hướng chiến lược lâu dài về
xây dựng và phát triển văn hóa của nước ta. Nghị quyết không những nâng cao nhận thức của xã hội về
văn hóa trong bối cảnh đất nước đang ở giai đoạn đầu thật sự bước vào nền kinh tế thị trường, mà còn tiếp
thêm sinh khí và sự đổi mới trên các mặt của đời sống văn hóa đất nước, thúc đẩy sự nghiệp văn hóa có
bước chuyển mình quan trọng. Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung Ương 5, vai trò văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội ngày
càng được khẳng định. Các chủ trương của Ðảng về văn hóa được lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội,
góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
3.2. Quá trình phát triển văn hóa
3.2.1Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng
Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu
quả; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho
các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ
hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy
mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc
cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ
bạc… Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những
giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây
12
dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá ở các cấp, đồng thời có kế hoạch cải
tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở
các trung tâm kinh tế – chính trị – văn hoá của đất nước. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá, chú trọng
nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa
các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn.
3.2.2 Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá
truyền thống, cách mạng
Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất
nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc
đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Khuyến khích tìm
tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần
lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo
vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt
động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học, nghệ
thuật, từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam.
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát
huy giá trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn
hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch và hoạt động thông tin
đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người
nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết
các dân tộc thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo
nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
3.2.3 Phát triển hệ thống thông tin đại chúng
Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và
phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục
xu hướng thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo,
bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và
có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới. Rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản
trong cả nước theo hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ
sở vật chất – kỹ thuật theo hướng hiện đại.
Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực,
ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không
lành mạnh.
3.2.1. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá
Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người
Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, báo chí, xuất bản. Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước
ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn
học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam. Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về
bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả các sản phẩm văn hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn,
đẩy lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng và nâng cao
sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.
13
Hiện tại, các ban, ngành trung ương, địa phương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã và đang
tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết T.Ư 5, nhằm nhìn nhận và đánh giá lại hiệu quả cùng những tác
động thực tế đối với xã hội của việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ Nghị quyết; đề xuất phương hướng,
nhiệm vụ phát triển văn hóa trong thời gian tới phù hợp nguyện vọng nhân dân cũng như bối cảnh quốc tế
và thực tế đất nước, qua đó ngày càng khẳng định vững chắc vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực và là hệ điều tiết sự phát triển của xã hội. Quá trình tổng kết sẽ
mang lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các nhiệm vụ
xây dựng văn hóa trong thời kỳ mới, đồng thời phát triển các giá trị lý luận, thực tế để tiếp tục thực hiện
Nghị quyết T.Ư 5 trên cơ sở khắc phục những nhược điểm, hạn chế đã và đang bộc lộ ở các mặt đời sống
văn hóa. Ðây cũng là dịp để các tầng lớp xã hội và nhân dân kiến nghị, góp ý kiến với Ðảng, Nhà nước
trong việc ban hành các chủ trương, chính sách về văn hóa một cách phù hợp, thúc đẩy phát triển và mang
lại sức sống, sức lan toả mạnh mẽ của các hệ giá trị văn hóa Việt Nam mang đậm bản sắc, tính nhân văn,
tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại trong quá trình hội nhập quốc tế.
4. Ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài đến văn hóa Việt Nam giai đoạn hiện nay
4.1. Thách thức trong quá trình giao lưu văn hóa
Lịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua 3 lần tiếp biến.
Lần thứ nhất là thời kỳ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc trong thời cổ, trung đại để làm giàu thêm văn hóa bản
địa. Những yếu tố văn hóa nước ngoài thời kỳ này có ảnh hưởng khá sâu sắc, toàn diện theo 2 con đường: cưỡng bức và hòa bình.
Dù theo con đường nào, chúng ta vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hóa ngoại nhập làm giàu
có và phong phú thêm văn hóa dân tộc.
Lần thứ hai là từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945, chủ yếu là ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Đây là cuộc “ép
duyên” văn hóa Đông - Tây, song cũng là một tất yếu lịch sử của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa.
Sau khi cơ bản bình định xong các phong trào yêu nước, chính quyền thực dân Pháp ồ ạt du nhập văn hóa chính quốc
vào thuộc địa với những ý đồ có lợi cho chủ nghĩa thực dân. Sự du nhập này, lập tức bị nền văn hóa bản địa phản kháng mạnh mẽ
như một lẽ tự nhiên.Song, cũng có không ít tinh hoa của văn hóa phương Tây đã được chúng ta tiếp thu.
Lần thứ ba là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Luồng văn hóa từ phương Tây vào Việt Nam góp phần làm
thay đổi diện mạo văn hóa nước nhà. Những năm gần đây, văn hóa nước ngoài đã và đang xâm nhập một cách ồ ạt vào Việt Nam.
Chủ thể đón nhận những làn sóng văn hóa ngoại nhập một cách hồ hởi nhất chủ yếu là tầng lớp trẻ - thế hệ tương lai của đất
nước. Việc tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách thụ động, thiếu chọn lọc, thiếu “gạn đục khơi trong” đang để lại những hậu quả
khó lường. Bản chất của văn hóa là hướng tới chân - thiện - mỹ, ngày càng toàn diện và có tính quốc tế hơn. Song trong quá trình
lịch sử của mình, văn hóa còn có những “bước lùi”, mà một trong những “bước lùi” đó chính là mặt trái của quá trình tiếp nhận
văn hóa nước ngoài, là nhận thức và thái độ chưa đúng của giới trẻ đối với văn hóa truyền thống.
Trên mặt trận tư tưởng, điều tai hại nhất là những thế lực thù địch sử dụng các tác nhân văn hóa, văn nghệ có nội dung
xấu với âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ chế độ, phá hoại cách mạng… thông qua hệ thống in-tơ-nét và các phương tiện truyền thông
đại chúng hiện đại, khiến một số người do thiếu bản lĩnh, thiếu trình độ nên chịu ảnh hưởng không nhỏ của những tư tưởng độc
hại. An ninh chính trị, an ninh văn hóa đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Nhiều quan điểm sai trái, phản động, trong đó có quan
điểm sai trái trong văn học - nghệ thuật, trong đời sống chính trị sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại.
Trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, xu hướng tách văn học nghệ thuật khỏi xã hội, xa rời cuộc sống, xa rời chính trị là
biểu hiện biến thái mới của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” lỗi thời. Xu hướng “tự cởi trói”, tự do trong lựa chọn khuynh
hướng, trường phái sáng tác từ lâu đã trở nên quen thuộc ở phương Tây. Khi vào Việt Nam, một mặt, nó cho phép nhiều năng
khiếu trở thành tài năng, thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng nghệ thuật; mặt khác lại hạ thấp những thành tựu
văn nghệ cách mạng, làm rạn vỡ và thu hẹp đội ngũ công chúng, hình thành một thị hiếu, một lối sống, một hệ tư tưởng chối bỏ
dân tộc, sùng ngoại, chạy theo những giá trị tiêu cực trong văn hóa ngoại lai. Chịu ảnh hưởng của những tư tưởng phản động
nước ngoài, nhiều nhà văn đã nói và viết không đúng sự thật, không đúng bản chất của hiện thực, thậm chí xuyên tạc hình ảnh
của Đảng, bản chất cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta hoặc ngợi ca, đề cao những tác phẩm đi ngược lại với những
chuẩn mực, giá trị văn hóa chân chính của dân tộc
Trong lối sống của nhiều bạn trẻ ngày nay thể hiện rất rõ những vấn đề tiêu cực trong quá trình tiếp thu văn hóa nước
ngoài. Đối với hôn nhân, truyền thống tốt đẹp của dân tộc là đề cao trinh tiết của người phụ nữ, cái tình đi đôi với cái nghĩa, tình
có thể hết nhưng nghĩa thì bền chặt Còn bây giờ, giới trẻ đang dậy lên những trào lưu như “sống thử”, “sống gấp” Bên cạnh
đó, thói quen tiêu xài hoang phí và theo đuổi những lợi ích vật chất, lối sống thực dụng là nét không đặc trưng cho con người Việt
14
Nam cần, kiệm. Nhiều bạn trẻ lười học tập, lười lao động lại muốn mau chóng nổi tiếng nên tự tạo “xì-căng-đan” cho mình. Tiêu
chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ phương Đông truyền thống là “công, dung, ngôn, hạnh” bị biến dạng, nhường chỗ cho sự táo
bạo, phô trương, thậm chí thác loạn Có ý kiến cho rằng, một số thanh, thiếu niên không nhận thức đầy đủ về văn hóa thẩm mỹ
của dân tộc, dẫn đến thị hiếu sai lệch, lệch chuẩn về giá trị đạo đức.
Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ đang bị cuốn hút và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí
vấn đề đã lên đến mức báo động. Sức trẻ cộng với tâm lý thích khám phá những điều mới lạ, bắt kịp các trào lưu đang thịnh hành
trên thế giới, như: manga (truyện tranh Nhật Bản), anime (phim hoạt hình Nhật Bản), thời trang Kawaii (Nhật Bản), thời trang
Hàn Quốc Nhiều bạn trẻ không ngại ngần chạy theo cả những trào lưu độc dị khiến chúng ta không khỏi giật mình, như hát
cùng dao kéo, chụp ảnh quái đản, “hot boy” giả gái, nuôi thú độc…
Trong lĩnh vực thương mại, hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường Việt Nam, từ bánh kẹo, sữa, rượu, thuốc lá, thuốc
tây cho đến hàng gia dụng, điện tử, ô tô, xe máy, lấn át thị trường hàng nội và lại được người dân ưa chuộng với tâm lý sùng
ngoại. Nó góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi bộ mặt văn hóa trong mỗi gia đình Việt trên tất cả các phương diện. Tuy
nhiên, không phải thứ hàng ngoại nào cũng tốt. Nhiều thứ chứa “độc tố” đang xâm hại sức khỏe nhân dân ta theo đúng nghĩa đen,
đồng thời cũng làm tổn hại “sức khỏe tinh thần” của mọi người.
Một thực trạng nữa, đó là sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập, mở cửa giao lưu với
văn hóa nước ngoài. Nét đẹp ru con bằng những câu ca dao đã thưa vắng dần. Ca dao, tục ngữ vốn là kho tàng quý báu của
quần chúng nhân dân, là những bài học về đối nhân xử thế, bài học làm người nuôi dưỡng tâm hồn từ thơ bé, hướng con người
tới chân - thiện - mỹ đã và đang mai một dần trong đời sống tinh thần. Nghề truyền thống dệt thổ cẩm ở một số nơi, một số dân
tộc thiểu số đang mất dần.
Văn hóa trang phục hiện nay ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng bị mai một, nhất là trong giới trẻ. Họ chỉ
thích mặc âu phục, quần bò, áo phông hơn là mặc trang phục truyền thống tự dệt, tự may. Trong âm nhạc cũng vậy, ở Tây
Nguyên, số người biết chơi, biết chỉnh cồng, chiêng chủ yếu là các cụ già. Nhiều dân tộc khác thì những câu hát then, hát xẩm, ca
trù, cải lương, chèo, tuồng, không được ưa chuộng bằng nhạc trẻ.
4.2. Góp phần hạn chế tiêu cực, xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc
Thứ nhất, con người là chủ thể tiếp nhận các giá trị văn hóa. Muốn cho những “luồng gió độc” của văn hóa ngoại lai
không xâm hại đến nền văn hóa dân tộc, chủ thể văn hóa đó phải có một bản lĩnh, một trình độ nhận thức nhất định. Đó là năng
lực tự thân của mỗi cá nhân và quan trọng hơn là nó được vun trồng, nuôi dưỡng từ phía gia đình, nhà trường, xã hội. Muốn bảo
tồn được các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời vẫn tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại thì điều cốt yếu là phải tích cực
tuyên truyền, giáo dục cho chủ thể văn hóa Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, giúp họ hiểu được những giá trị của văn hóa truyền
thống, có niềm tự hào, tự tôn dân tộc và nhận thức được các mặt tốt xấu, tích cực, tiêu cực của các luồng văn hóa ngoại lai.
Thứ hai, phải làm cho văn hóa nội sinh trở thành một “thành trì” vững chắc, trong đó quan trọng là quán triệt sâu sắc tư
tưởng, đường lối văn hóa của Đảng và Nhà nước về văn hóa, tiêu biểu là Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều văn kiện, tài liệu khác. Đề cương văn hóa Việt
Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố năm 1943, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ba nguyên tắc đúng đắn được
đưa ra là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập), Đại chúng
hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng), Khoa học
hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Đề cương cũng chỉ rõ gốc rễ, nguồn cội của nền văn
hóa mới - văn hóa xã hội chủ nghĩa - của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ta chính là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin về văn hóa, là thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử - hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
Thứ ba, tích cực đấu tranh, bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy, đồng thời
hạn chế hoặc gạt bỏ những hủ tục, như: tục đốt vàng mã, rải đồ vàng mã, tiền giả, tiền thật trên đường
trong đám tang, vừa gây tốn kém lãng phí, vừa làm mất mỹ quan đường phố,… để tạo đời sống tinh thần
lành mạnh hơn.
Thứ tư, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống Việt Nam
với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa
mới phải đi đôi với khắc phục thái độ xem nhẹ vai trò văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc. Tiếp thu văn hóa nước ngoài là điều cần thiết, song chúng ta phải chủ động hội nhập, chắt lọc tinh
hoa văn hóa bên ngoài để làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc. Điều đáng lưu ý là trong quá
trình toàn cầu hóa, nhiều nước phát triển có ý đồ áp đặt các giá trị văn hóa của mình cho toàn thế giới.
Điều này sẽ đem lại nhiều thách thức hơn so với cơ hội, trong đó có nguy cơ đe dọa làm mất bản sắc văn
15
hóa dân tộc. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi việc tiếp thu và hội nhập văn hóa, cần chú trọng nguyên tắc: tôn
trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, bình đẳng và
cùng có lợi, tự chủ, tự quyết. Trong khi bảo tồn văn hóa nước nhà, tiếp thu văn hóa nước ngoài thì phải
đồng thời chống cả hai xu hướng cực đoan là sùng ngoại lẫn sùng cổ.
Thứ năm, đẩy mạnh và thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, nghệ thuật với
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” là một giải pháp tích cực. Lực lượng chủ yếu trong công
tác này là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và nhân dân (đóng góp sức người, sức của), đội ngũ văn
nghệ sĩ (lao động và sáng tạo để có nhiều tác phẩm, công trình có chất lượng tốt, có tiếng vang và tầm ảnh
hưởng sâu rộng trong xã hội, có tầm vóc thời đại)
Thứ sáu, tuyên truyền, giáo dục người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ biết yêu văn hóa dân tộc, tăng
sức hấp dẫn của văn hóa truyền thống. Các cơ quan quản lý văn hóa, truyền thông cần tích cực hơn trong
việc gìn giữ và quảng bá văn hóa truyền thống; Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa truyền thống,
tích cực giao lưu văn hóa để giới trẻ thêm tự hào và có lòng tự tôn dân tộc; Có tinh thần, thái độ phê phán,
đấu tranh mạnh mẽ với lối sống chạy theo ngoại lai một cách mù quáng, chống lại những âm mưu đồng
hóa văn hóa của các thế lực thù địch
Văn hóa là vốn quý của quốc gia, là tài sản vô giá, là động lực của sự phát triển. Văn hóa - kinh tế
- chính trị là “kiềng ba chân”, là rường cột của quốc gia, chỉ cần một trong ba yếu tố đó yếu kém thì cả
“công trình” sụp đổ. Bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và học hỏi, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, đấu tranh mạnh mẽ với những ảnh hưởng tiêu cực từ nước ngoài chính là góp phần xây
dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.
5. Những thách thức và xu thế phát triển Văn Hóa Việt Nam trong thời kỳ mới
Bên cạnh những thành tựu lớn, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa theo hướng tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc cũng còn không ít những hạn chế, khó khăn. Hiện nay, bối cảnh và tình hình thế
giới cũng như trong nước đã có nhiều thay đổi, sự hội nhập mang tính toàn cầu và phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin, đã và đang tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của văn hóa nước ta. Nhận diện
những thách thức và xu thế phát triển của văn hóa Việt Nam sẽ giúp chúng ta định hình được hướng đi
phù hợp trong thời kỳ mới.
Trong bối cảnh phát triển của đất nước khi hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của
thế giới, còn trong nước thì những thành tựu, kinh nghiệm của gần 30 năm đổi mới đất nước đã tạo ra thế
và lực mới cùng sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước.
Từ góc độ văn hóa, có thể thấy xuất hiện những thuận lợi, thời cơ, trong đó hòa bình, hợp tác,
phát triển, toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình
thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu, hội nhập và phát triển văn
hóa. Các hoạt động văn hóa nghệ thuật nhờ công nghệ mà hiện đại hóa, có sức lan tỏa nhanh, mạnh, sâu
trên phạm vi toàn cầu, không chỉ ở vùng thành thị mà còn tỏa về được vùng núi cao, nông thôn hẻo lánh.
Giao thoa văn hóa trở nên mạnh mẽ hơn, tạo điều kiện để tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại và truyền bá
văn hóa nước ta ra thế giới.
Trên đường đổi mới, các điều kiện kinh tế - xã hội phát triển tạo thuận lợi cho văn hóa phát triển.
Nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân tiếp tục được nâng cao, tạo động lực cho phát triển văn hóa.
Trình độ nhận thức, văn hóa của nhân dân ngày một cao hơn, giúp cho mặt bằng văn hóa được nâng lên,
tạo điều kiện cho việc sáng tạo văn hóa có chất lượng hơn, phong phú, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta cũng đang đứng trước những nguy
cơ, thách thức không nhỏ. Với tiến trình toàn cầu hóa, nước ta sẽ chịu tác động tiêu cực trên mọi mặt mà
các nước trên thế giới gặp phải. Văn hóa của các nước lớn, giàu có, nhất là Mỹ, lan tỏa rộng, tác động sâu
đến đời sống văn hóa của nhân dân. Sự tiếp thụ thiếu chọn lọc văn hóa ngoại lai sẽ làm tha hóa văn hóa
16
dân tộc. Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường càng làm cho văn hóa biến dạng, nhiều mặt xuống cấp,
kéo theo sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Lối sống vị kỷ, cá nhân, hành vi bạo lực càng chi
phối xã hội. Nhu cầu giải trí qua các hoạt động văn hóa ngày càng tăng, xu hướng kiếm lợi nhuận qua các
hoạt động văn hóa ngày càng phát triển, khiến cho văn hóa dần dần buông lơi vai trò giáo dục, định
hướng thẩm mỹ. Quan hệ giữa văn hóa và chính trị có nguy cơ bị giãn cách ngày càng xa, do vậy tác động
tích cực vốn có của văn hóa vào đời sống xã hội có nguy cơ bị xem nhẹ, giảm sút.
Nhìn chung, tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và thách thức đan xen đối
với sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Cũng vì vậy, trên bình diện văn hóa, sự phát triển
mạnh lên, phong phú, đa dạng, hiện đại hơn là xu hướng tất yếu, trong đó đan xen mặt tích cực và mặt
tiêu cực. Có thể xảy ra những khả năng trong xu thế vận động và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời
gian tới.
Thứ nhất, nếu văn hóa được quan tâm thật sự và đầy đủ, có định hướng rõ ràng, được thể chế hóa
bằng luật và các văn bản dưới luật, các chế độ chính sách phù hợp, với bộ máy quản lý có hiệu quả, thì
văn hóa nước ta sẽ có bước phát triển mới, tác động tích cực đến đời sống xã hội, thật sự đóng vai trò nền
tảng và động lực của xã hội và trên nền truyền thống, văn hóa được hiện đại hóa. Các chức năng giáo dục,
định hướng thẩm mỹ của văn hóa kết hợp hài hòa với chức năng giải trí, làm cho xã hội phấn khởi, lành
mạnh lên. Các sản phẩm văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng, có giá trị cao, được nhân dân đón nhận.
Các hoạt động văn hóa ngày càng sôi nổi, vừa có chiều rộng, bề nổi, vừa có chiều sâu, tác động tích cực
vào giáo dục lối sống, đạo đức, làm cho xã hội thái bình, thịnh vượng hơn lên.
Thứ hai, nếu sự quan tâm và sự định hướng văn hóa không được thể hiện rõ trên các văn bản luật,
dưới luật, các chế độ chính sách; nếu công tác quản lý yếu kém, buông lỏng, thì khi đó sự phát triển lộn
xộn, không định hướng của văn hóa sẽ trở thành yếu tố đảo ngược sự phát triển của xã hội, làm cho đạo
đức, lối sống ngày càng suy thoái, biến chất, con người ngày càng mất đi nhân tính. Sự du nhập ồ ạt,
thiếu chọn lọc văn hóa ngoại lai, sẽ là cơ hội tốt cho nhiều loại văn hóa đồi trụy, phản động, phi nhân
tính tràn vào. Dần dần, ý thức về chủ quyền dân tộc bị xói mòn, lu mờ. Thay vào đó là lối sống hướng
ngoại, xem nhẹ các giá trị truyền thống, xem nhẹ văn hóa dân tộc. Ngôn ngữ hiện đang bị xâm hại bởi lối
du nhập vô nguyên tắc tiếng nước ngoài, sẽ tiếp tục bị tha hóa, trở nên lai căng, kệch cỡm. Tính giáo dục
của văn hóa bị coi nhẹ, coi trọng quá mức tính giải trí, dần dần, văn hóa không còn đóng vai trò quan
trọng trong việc giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, ngược lại cổ súy cho lối sống thác loạn, vô
đạo đức, thiếu nhân tính. Văn hóa dân tộc bị lu mờ, pha tạp. Các giá trị truyền thống dần dần bị lãng quên.
Hoạt động văn hóa sẽ sôi nổi hơn, phong phú hơn nhưng đó là sự phát triển xô bồ, không định hướng, khó
tạo ra những giá trị văn hóa đích thực.
Thứ ba, đó là sự kết hợp giữa khả năng thứ nhất và khả năng thứ hai, tạo ra sự pha trộn văn hóa.
Trong điều kiện đó, văn hóa sẽ phát triển theo nhiều chiều. Mặt tích cực được phát huy nhờ những chủ
trương, chính sách đúng đắn và những người hoạt động văn hóa chân chính. Mặt tiêu cực cũng phát triển
vì sự buông lỏng quản lý. Thực tế nhiều năm qua cho thấy đây là khả năng dễ xảy ra nhất.
Cùng với những khả năng, xu thế vận động phát triển của văn hóa, những lĩnh vực văn hóa thông
tin cũng có khả năng phát triển mạnh. Truyền hình (trong đó có những chương trình trò chơi giải trí):
Những tổ chức kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục mua các kênh truyền hình để kinh doanh trên lĩnh vực truyền
thông. Mạng In-tơ-nét: bên cạnh các báo mạng chính thống là các mạng xã hội, trang cá nhân, tạo ra sự
phong phú và đa tạp về thông tin - văn hóa. Nhiều tờ báo mạng giả danh trang thông tin xuất hiện. Nói
cách khác, đó là các trang mạng được cấp giấy phép là trang thông tin nhưng hoạt động như báo chí
chính thống. Các lễ hội quy mô lớn: trong đó những lễ hội có tính quốc gia do Nhà nước tổ chức sẽ ổn
định và có bước phát triển, nhưng các lễ hội do các tổ chức xã hội thực hiện nhằm mục đích thu lợi
nhuận hoặc giải trí cùng phát triển mạnh, trong đó có những lễ hội du nhập từ nước ngoài. Các di tích,
danh lam thắng cảnh được khai thác tối đa nhằm phục vụ du lịch và các hoạt động mê tín vụ lợi. Chính vì
vậy, di tích tiếp tục bị xâm hại, làm biến dạng và bị lợi dụng trở thành công cụ phục vụ những lợi ích cục
bộ, lợi ích cá nhân.
17
Bên cạnh đó, những lĩnh vực văn hóa thông tin có khả năng bị hạn chế phát triển là: Xuất bản,
in, phát hành, thư viện, báo in - nói chung là các loại hình phục vụ việc đọc trên giấy thông thường -
ngày càng gặp khó khăn, sẽ phải giảm về số lượng. Các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống, dân
tộc khó có được chỗ đứng xứng đáng trong cuộc sống- từ cuộc sống thường ngày tới việc xuất hiện trên
các chương trình truyền hình, các chương trình biểu diễn. Nhiều loại hình văn hóa truyền thống sẽ bị thui
chột hoặc biến dạng.
Trong những năm tới, văn hóa Việt Nam tiếp tục gặp nhiều thời cơ, thuận lợi, đồng thời cũng gặp
nhiều thách thức, khó khăn - hai mặt này đan xen, tác động qua lại và sẽ tùy thuộc vào hoạt động của con
người mà tác động mạnh hay yếu theo chiều tích cực hay tiêu cực. Xu hướng phát triển văn hóa nói chung
là đa dạng hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và ngày càng mang tính thực dụng. Tuy vậy, chức năng giáo
dục, định hướng thẩm mỹ vẫn có cơ hội được khẳng định, tạo nên những giá trị văn hóa mang tính nhân
văn, cao quý. Sự vận động, phát triển của văn hóa không phải là sự vận động, phát triển mang tính bản
năng mà chịu ảnh hưởng rất lớn bởi đường lối, chủ trương, pháp luật, chính sách và sự quản lý của hệ
thống thể chế của đất nước. Chính vì thế, cần tăng cường hơn nữa vai trò quản lý nhà nước nhằm phát
huy thuận lợi, thời cơ, hạn chế khó khăn, vượt qua thách thức để điều chỉnh xu thế vận động và phát triển
của văn hóa theo hướng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
6. Phát huy và bảo tồn văn hóa bản địa trong xã hội học tập ngày nay
Trong nền kinh tế tri thức với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, sự bùng nổ của
công nghệ thông tin, không ai có thể coi kiến thức của giáo dục ban đầu (từ phổ thông đến đại học) có
thể đủ cho cả đời người. Vì vậy, việc tiếp tục học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, là một nhu cầu tất
yếu của mỗi người để đáp ứng với sự phát triển của xã hội, của trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến,
công nghệ hiện đại. Xã hội học tập là một xu thế mới trong quá trình phát triển của nhân loại, là đòi hỏi
của yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Học tập thường xuyên, học tập suốt đời, học tập cho mọi người là nội dung chủ yếu của của
khái niệm xã hội học tập.Văn kiện của Đảng đã nhấn mạnh "Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân
dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người";
xây dựng "Cả nước trở thành một xã hội học tập"; "Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô
hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống giáo dục suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông
giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người với những hình
thức học tập, thực hành linh hoạt, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục".
Có thể nói, xã hội học tập cung cấp các điều kiện, cơ hội để mỗi người tự nâng cao trình độ,
hoàn thiện bản thân, phát huy cao độ năng lực sáng tạo để thích ứng với những biến đổi của tình hình
kinh tế- xã hội trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.
Nền giáo dục trong xã hội học tập hướng vào việc xây dựng cho con người năng lực đón nhận,
xử lý, sử dụng, truyền bá… thông tin để xã hội tiến kịp sự phát triển của tri thức nhân loại. Bên cạnh
những lợi ích hết sức thiết thực mang lại từ nền giáo dục mở, từ sự hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng
với thế giới, mọi người, nhất là giới trẻ, học sinh, sinh viên ít nhiều không tránh khỏi những tác động
bởi những mặt trái của cơ chế thị trường, của văn hóa Phương Tây, đó là tư tưởng đề cao chủ nghĩa cá
nhân, sự tha hóa về đạo đức, nhân cách, lối sống hưởng thụ, đua đòi, trụy lạc.
Hơn lúc nào hết, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc đang là nhiệm vụ cấp bách trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đó là nền tảng, là cơ sở
để đất nước ta hòa nhập sâu rộng với thế giới nhưng không hòa tan, vẫn phát huy được niềm tự hào của
dân tộc, bản sắc văn hóa riêng của con người và đất nước Việt Nam.
6.1. Văn hóa dân tộc – Văn hóa bản địa
Văn hóa theo nghĩa chung nhất là tất cả những gì không phải từ thiên nhiên mà từ con người”. Theo
UNESCO “Văn hóa là một tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định ứng xử của con người và làm cho một số
đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt”. Văn hóa còn được hiểu là tất
18
cả những sinh hoạt của một cộng đồng, một dân tộc bao gồm văn học, nghệ thuật, lễ hội, tôn giáo, phong tục, tập
quán, cách cư xử, giao tiếp
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì là sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo,
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng, toàn bộ những phát minh đó là văn hóa”.Trong khái niệm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nét đặc trưng cơ bản nhất của văn hóa chính là sự sáng tạo và phát minh, tức là “ tạo ra
những giá trị mới về vật chất, tinh thần và tìm ra cái có ý nghĩa, có giá trị lớn cho khoa học và cho loài người.
Những giá trị đó tạo nên cốt lõi, bản sắc văn hóa dân tộc. Nói một cách khác, văn hoá bao gồm toàn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra nhằm mục tiêu phục vụ con người. Bản sắc dân tộc của
văn hoá là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh của mỗi nền văn hoá.
Đối với Việt Nam, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tập trung ở lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực, tự cường, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, đạo lý trọng nghĩa tình, đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…".
6.2. Giáo dục việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Các nhà sử học đã thống nhất cho rằng: Việt Nam có một cộng đồng văn hóa khá rộng lớn được
hình thành vào khoảng nửa đầu thập niên kỷ thứ nhất trước công nguyên và được phát triển rực rỡ vào
giữa thập niên kỷ này, đó là cộng động văn hóa Đông Sơn. Các con đường phát triển khác nhau của văn
hóa bản địa thuộc các khu vực khác nhau đã hội tụ lại, họp thành văn hóa Đông Sơn. Đây chính là nhà
nước mang tính “phôi thai” ra đời, từ đó các bộ lạc nguyên thủy phát triển thành dân tộc.
Có thể nói toàn bộ lịch sử của văn hóa bản địa Việt Nam đã tồn tại 3 lớp văn hóa chồng lên
nhau, đó là văn hóa bản địa, văn hóa giao lưu với Trung Quốc và lớp văn hóa giao lưu với phương Tây.
Mặc dù giao lưu với các nền văn hóa khác, văn hóa của dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao thử thách,
chẳng những vẫn tồn tại vững chắc mà còn không bị văn hóa ngoại lai đồng hóa, biết “Việt hóa” các ảnh
hưởng đó để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc.
Trách nhiệm của chúng ta ngày nay là phải tiếp tục, giữ gìn, bảo vệ và giáo dục cho lớp lớp con
cháu để dân tộc ta mãi mãi là dân tộc Việt Nam. Chúng ta cần lồng ghép những chuyên đề về truyển
thống văn hóa dân tộc vào chương trình giảng dạy để giáo dục đạo đức, tư duy, lối sống và bản lĩnh cho
sinh viên để các em vào đời với đầy đủ hành trang của người công dân tốt, thông minh, cần cù, sáng tạo,
có tính kỷ luật cao mang dáng dấp, tinh hoa của người Việt Nam sẵn sàng đi lên phía trước xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
6.3. Giáo dục lòng yêu đất nước, yêu đồng bào, tự hào dân tộc
Lòng yêu đất nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, đó là tình cảm sâu sắc đối với quê hương,
đất nước được nối tiếp qua nhiều thế hệ người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Cùng với lòng yêu
nước, một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc ta, đó là tình yêu đồng bào, tình yêu thương đồng loại, vì hạnh phúc, sự
phát triển toàn diện và hài hòa của con người.
Chủ nghĩa nhân đạo, bao gồm trong nó tình yêu thương giữa con người với con người, của người lớn đối
với trẻ em, của người trẻ đối với người già, của người khỏe mạnh, lành lặn đối với người ốm đau, tàn tật, của người
có hạnh phúc với người bất hạnh, đặc biệt đó còn là thái độ đối xử với kẻ thù, không kêu căng, không công thần,
không kiêu binh v.v Lòng yêu nước, yêu đồng bào tạo nên sức mạnh của dân tộc, giúp cho sự thống nhất ý chí, trí
tuệ, tài năng của các cá nhân trong cộng đồng xã hội, tạo nên sức mạnh to lớn để ứng phó với mọi khó khăn, với
nguy cơ trước kẻ thù xâm lược. Những nét văn hóa đặc sắc vừa nêu trên đã có từ ngàn xưa, duy trì, phát triển cho
đến ngày nay, đòi hỏi chúng ta phải biết trân trọng, bảo vệ và phát huy trong hoàn cảnh mới và coi đó là nét văn hóa
đặc sắc cần giáo dục cho các thế hệ mai sau.
6.4. Tôn trọng, giữ gìn, phát huy giá trị các di sản văn hóa
Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân hết sức quan tâm đến việc giữ gìn các di
sản văn hóa dân tộc, từ đó tạo tiền đề cần thiết để làm sống dậy một tiềm năng văn hóa, coi đó như là
19
nguồn lực bên trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa
VIII) đã chỉ rõ: “ Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân
tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa”. “Coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”.
Hiện nay, các di tích như quần thể Cố đô Huế, Thành nhà Hồ, Hoàng thành Thăng Long, Thánh
địa Mỹ Sơn, đã được tổ chức UNESCO công nhận là những di sản văn hóa thế giới, tuy nhiên giá trị,
ý nghĩa sâu sắc của những di sản đó vẫn chưa được quảng bá một cách sâu rộng đến đại bộ phận công
chúng nhằm tôn vinh và lưu truyền những giá trị lịch sử vô giá đó. Một trong những giải pháp mang
tính lâu dài và bền vững là thông qua giáo dục.
Giáo dục chính là kênh truyền thống có tính hiệu quả cao nhất, đặc biệt là giáo dục đại
học.Thông qua những hoạt động ngoại khóa, những chương trình lồng ghép trong các môn học, dần dần
đưa những giá trị cốt lõi, hồn dân tộc của các di sản văn hóa đến từng sinh viên để các em có nhận thức
đầy đủ, sâu sắc và từ đó có những hành động, việc làm góp phần gìn giữ, phát huy giá trị các di sản văn
hóa của đất nước.
6.5. Duy trì và bảo vệ văn hóa làng xã
Suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, chúng ta có thể tự hào mà nói rằng, văn hóa bản địa, văn hóa
làng xã là tài sản vô giá của dân tộc cần phải được giữ gìn, phát huy trên cơ sở sàng lọc, loại bỏ những gì phi văn
hóa, duy trì và làm phong phú thêm những nét đep văn hóa vốn có. Bên cạnh lũy tre, cây đa, bến nước thì những làn
điệu dân ca, điệu múa, câu hò, bài vè, ca dao, tục ngữ luôn tồn tại, phát triển cùng những thăng trầm của lịch sử
dân tộc.
Một trong những truyền thống tốt đẹp khác của nhân dân ta đó là lòng thành kính, tôn thờ tổ tiên, ông bà,
hiếu thảo đối với cha mẹ, thể hiện lòng biết ơn những người đã sinh thành dưỡng dục mình. Truyền thống hiếu học,
tôn sư trọng đạo, kính trọng, lễ phép với người lớn tuổi, đề cao vai trò người phụ nữ cũng là những nét văn hóa
truyền thống của nhân dân ta. Thực chất những nét văn hóa, truyền thống đó mang trong bản thân nó, ý nghĩa nhân
văn hết sức sâu sắc, có sức nêu gương trong mỗi gia đình, trong cộng đồng làng xã. Tất cả những đức tính trên vô
cùng cao quý và luôn được người Việt Nam giáo dục dạy dỗ cho con cháu từ tuổi nhỏ đến khi trưởng thành. Từng
người Việt đã và phải “ngấm” thật sâu, thật bền dòng chảy truyền thống văn hóa dân tộc này.
6.6. Giáo dục lòng yêu thiên nhiên
Lòng yêu thiên nhiên, thái độ gìn giữ, bảo vệ thiên nhiên là biểu hiện của đạo đức, là nét văn
hóa đã tồn tại từ ngàn xưa của dân tộc ta. Ngày nay, diện tích rừng ngày càng thu hẹp, số lượng động vật
hoang dã ngày càng ít đi, khí hậu không ngừng thay đổi thất thường là hậu quả của việc khai thác rừng
quá mức, không bảo tồn thiên nhiên mà chính con người đã tự mình gây ra. Đã đến lúc phải dừng ngay”
việc vay mượn tài nguyên của thế hệ con cháu”. Phải giáo dục cho thế hệ trẻ, các học sinh sinh viên về
tình yêu thiên nhiên, quý trọng những gì mà thiên nhiên mang lại cho con người.
Mỗi một dân tộc bao giờ cũng có những sắc thái văn hóa đặc thù, phản ánh những phong cách,
diện mạo của chính dân tộc đó. Khi một dân tộc quay lưng với truyền thống, đánh mất bản sắc văn hóa
của dân tộc mình, nhất định sẽ không tồn tại. Xuất phát từ thực tế đó, Đảng ta coi việc xây dựng và bảo
vệ bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của quá trình phát triển đi lên của đất
nước. Mỗi người Việt Nam, nhất là đối với thế hệ trẻ những người chủ tương lai của đất nước phải luôn
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đó cũng là thể hiện trách nhiệm đối với đất nước.
Tóm lại, hiện nay song song với nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, việc xây dựng nền văn
hóa văn minh hiện đại, trong đó bảo tồn và phát huy văn hóa bản địa là việc làm vô cùng cần thiết trong
hệ thống giáo dục Việt Nam, đặc biệt trong giáo dục đại học hiện nay. Những trí thức Việt Nam trong
thời đại CNH-HĐH của nền kinh tế tri thức toàn cầu phải là những hiền tài, nguyên khí của quốc gia,
mang đầy đủ bản lĩnh, bản sắc và tinh hoa của dân tộc Việt. Phải làm sao để các giá trị truyền thống của
4.000 năm văn hiến lan tỏa thành giá trị đặc thù của nền văn hóa Việt. Đội ngũ tri thức Việt Nam được
20
đào tạo từ trường đại học, từ xã hội sẽ nổi lên như những bông hoa tươi thắm đặc sắc trong nhiệm vụ
xây dựng xã hội học tập ngày nay.
Mục lục
21