Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Giãn tĩnh mạch thừng tinh docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.27 KB, 5 trang )

Giãn tĩnh mạch thừng tinh

Giãn tĩnh mạch thừng tinh là hiện tượng các tĩnh mạch tinh của đám
rối tĩnh mạch hình dây leo trong bìu giãn rộng và uốn cong ngoằn ngèo.
Các nghiên cứu trên nam giới trẻ tuổi cho thấy bệnh này chiếm tỷ lệ khoảng
15 - 20%. Mặc dù, cho đến nay người ta vẫn chưa thể ghi nhận được rằng, tần suất
của giãn tĩnh mạch thừng tinh (GTMTT) trên những người đàn ông vô sinh và
những người có các thông số tinh dịch đồ hạn chế là cao hơn so với tần suất này ở
người có con hoặc ở những người có các thông số xét nghiệm tinh dịch đồ bình
thường có cùng độ tuổi. Từ hàng chục năm nay, người ta vẫn nghi ngờ rằng,
GTMTT có một tác động xấu nào đó lên khả năng sinh sản của nam giới.
GIẢ THUYẾT VỀ SINH LÝ BỆNH
Cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm sinh lý bệnh học nào có thể giải
thích một cách chắc chắn mối liên quan giữa GTMTT với tình trạng vô sinh
nam.Có thể là do lưu thông máu tĩnh mạch trở về từ tinh hoàn bị hạn chế, nên dẫn
đến tăng nhiệt độ mạn tính của tinh hoàn. Đồng thời, các sản phẩm chuyển hóa dị
hóa có tác động độc tính lên chủ mô của tinh hoàn và làm giảm nặng nề sự cung
cấp oxy trong cơ quan này. Cả vấn đề áp lực trong tinh hoàn cao do tình trạng giãn
tĩnh mạch gây ra cũng được các nhà khoa học bàn cãi nhiều như là một nguyên
nhân có thể làm tổn thương biểu mô mầm của tinh hoàn.
Ngoài ra, do dòng máu chảy ngược trong đám rối tĩnh mạch bị giãn to mà
các chất katecholamin và các steroid sản xuất từ tuyến thượng thận có thể tích lũy
lại nhiều ở trong mô tinh hoàn. Người ta chưa biết rõ, liệu có phải một trong các
cơ chế nêu ra trên đây thực sự có ý nghĩa sinh lý bệnh học hay không.
PHÂN LOẠI GTMTT
GTMTT tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có biểu hiện lâm sàng là một sự
tăng thể tích lưu thông tĩnh mạch trong phạm vi đám rối tĩnh mạch hình dây leo ở
trong bìu. Về lâm sàng, người ta phân thành 3 mức độ nặng, nhẹ như sau:
 Độ I: Có giãn đám rối tĩnh mạch hình dây leo, nhưng chỉ sờ được khi
giãn tĩnh mạch lúc làm nghiệm pháp làm tăng áp lực (Valsalva).
 Độ II: Sờ được giãn tĩnh mạch rõ ngay cả lúc không làm nghiệm pháp


Valsalva.
 Độ III: Thấy được giãn tĩnh mạch ngay cả ở tư thế bệnh nhân đứng.
Khoảng 95% bệnh nhân GTMTT có biểu hiện ở bên trái. Về nguyên nhân
người ta cho rằng, chỗ đổ của tĩnh mạch tinh bên trái vào tĩnh mạch thận trái có
góc tù nên không thuận lợi về huyết động so với chỗ đổ vào của tĩnh mạch tinh
bên phải vào tĩnh mạch chủ dưới có góc nhọn.

* Giãn tĩnh mạch thừng tinh (GTMTT) là m
ột bệnh rất phổ biến, gặp ở
15% cộng đồng nam giới.
* GTMTT là nguyên nhân gây ra 35% các trường hợp vô sinh nguy
ên phát
và 75 - 81% vô sinh thứ phát ở nam.
* Các trường hợp GTMTT lớn gây ra nhiều tổn hại cho tinh ho
àn hơn là
các trường hợp GTMTT nhỏ.
* Điều trị các GTMTT lớn sẽ làm cải thiện chất lượng của tinh d
ịch. Điều
trị càng sớm thì khả năng sinh tinh trùng càng được phục hồi sớm.
* Cắt tĩnh mạch thừng tinh giãn có thể làm cải thiện chức năng của tế b
ào
Leydig và làm tăng nồng độ testosteron trong máu.
* Các biến chứng thường gặp sau cắt tĩnh mạch thừng tinh giãn là:
- Tràn dịch tinh mạc.
- Tổn thương động mạch tinh hoàn.
- Vẫn còn GTMTT hoặc GTMTT tái phát.
- Tần suất của các biến chứng này có th
ể giảm đi khi điều trị bằng vi
phẫu.ó


TRIỆU CHỨNG GTMTT
Nếu GTMTT bên phải hoặc bên trái được tạo thành do một sự chèn ép tĩnh
mạch chủ dưới thì người ta gọi đó là GTMTT triệu chứng. Trong những trường
hợp như vậy, bắt buộc phải tiếp tục tiến hành thêm các biện pháp thăm dò chẩn
đoán khác để xác định bệnh lý nguyên nhân gây chèn ép còn tiềm ẩn bên dưới.
Ngay cả GTMTT độ III, hầu hết là không có triệu chứng. Chỉ trong một số
ít trường hợp bệnh nhân đến khám và được chẩn đoán xác định, vì có triệu chứng
co rút, thường lan từ háng xuống bìu và vùng đùi trên. Hay gặp nhất là trường hợp
chẩn đoán xác định khi bệnh nhân đến khám để làm rõ nguyên nhân vô sinh.
Việc phân mức độ dựa vào việc sờ nắn, nên thường khó khăn trong chẩn
đoán ở nhiều tình huống. Nếu bệnh nhân đồng thời có các biến đổi bệnh lý khác ở
bìu. Ở đây người ta nói đến bệnh lý tràn dịch màng tinh hoàn và những biến đổi
nặng nề của mào tinh. Ngoài ra, còn có vị trí tinh hoàn nằm cao thường làm cho
bác sĩ khó sờ nắn được đầy đủ. Trong những trường hợp như vậy, nên khám siêu
âm hay tốt hơn là sử dụng siêu âm Doppler màu duplex (phối hợp hiển thị hình
ảnh đồng thời của cả hai phương pháp siêu âm real-time với doppler) để chẩn đoán
chính xác.
ĐIỀU TRỊ
Phẫu thuật hay gây xơ hóa. Điều trị GTMTT là một kỹ thuật cổ điển hay
mổ nội soi hoặc gây xơ hóa phía trước hoặc ngược dòng, tất cả đều nhằm làm gián
đoạn sự lưu thông tĩnh mạch. Có thể ghi nhận được kết quả trực tiếp của điều trị
khi không còn thấy dòng chảy trào ngược trở lại khi sờ nắn phối hợp với nghiệm
pháp Valsalva hoặc tốt hơn là khám bằng siêu âm Doppler màu duplex


×