chuyên đề 2
kinh nghiệm của các nớc trong việc điều trị và
PHCN cho bệnh nhân tâm thần phân liệt
tình hình nghiên cứu trong
và ngoài nớc
1
chuyên đề 2
Kinh nghiệm của các nớc trong điều trị và phục
hồi chức năng cho bệnh nhân tâm thần phân liệt
tình hình nghiên cứu trong và ngoài nớc
1.1. Khái quát về bệnh nhân tâm thần phân liệt
1.1.1. Lịch sử phát triển của ngành tâm thần học
Trên thế giới
Lịch sử nghiên cứu bệnh TTPL thực chất là lịch sử phát triển về
những khái niệm và các hội chứng bệnh lý tâm thần. Bệnh TTPL có từ khi
loài ngời xuất hiện [42, 55], việc phân loại và thống nhất các quá trình bệnh
lý của TTPL có một lịch sử lâu dài. Các tác giả ngày xa đã mô tả các thể
khác nhau, đã nêu lên các trạng thái mà cho đến nay gọi là bệnh TTPL.
Thời Trung cổ
Cuối thời Trung cổ, ngời bệnh bị xem là do ma quỉ nhập. Phần lớn những
bệnh nhân tâm thần đợc tập trung vào các tu viện và các nhà cứu tế, họ bị
đối xử rất tàn bạo và nhiều khi còn bị đánh chết hoặc thiêu sống.
Thế kỷ 18 và 19
ở Pháp, dới ảnh hởng của cách mạng t sản, những quan điểm duy vật
và khoa học về bệnh tâm thần bắt đầu chiếm u thế. Esquirol sơ bộ phân loại
các bệnh tâm thần, thực hiện chế độ làm bệnh án và theo dõi ngời bệnh
hàng ngày. Về sau xuất hiện nhiều nhà tâm thần học nổi tiếng nh: Charcot
với lâm sàng ngời bệnh Hysteria, Morel (1857) mô tả chứng mất trí sớm
(Dementiapraecox) ở ngời trẻ tuổi mà ông cho rằng do suy thái di truyền
[9], cũng từ đó Morel và Magnan bắt đầu đặt nền tảng cho nghiên cứu vai
trò của di truyền trong việc phát sinh các bệnh tâm thần .
ở Anh, Henry Maudsley sáng lập ra ngành tâm thân pháp y và tâm
thần học trẻ em, ông vận dụng thuyết tiến hoá của Darwin vào việc nghiên
2
cứu các bệnh tâm thần và khẳng định rằng bệnh tâm thần phát sinh do rối
loại các trung khu thần kinh ở não.
ở Đức năm 1764, Volgel mô tả hội chứng Paranoid mà ông gọi là
"lý trí lầm lạc". Wilhelm Griesinger trong cuốn sách tâm thân học xuất bản
ở Đức năm 1845 đã khẳng định rằng, bệnh tâm thần là bệnh của não bộ.
Ông quan niệm đó là "sự điên loại tiên phát " (Dementia praecox).
K. Kahlbaum (1863) và E. Hecker (1871), mô tả hội chứng thanh xuân ở
tuổi thành niên và nó cũng sớm đi đến sa sút về tâm thần [9]. Kahlbanm
(1874), mô tả thể căng trơng lực và bắt đầu phân chia các hình thái rối loạn
tâm thần ra từng đơn vị bệnh lý [9]. Magnan (1863), mô tả chứng hoang t-
ởng kết thúc bằng mất trí vô cảm (Dementia apathica). Nổi bật nhất là Emil
Kraepelin đã có công đúc kết những qui luật tiến triển lâm sàng của bệnh
tâm thần về các mặt bệnh nguyên, bệnh sinh, tiên lợng và điều trị. Năm
1898, Emil Kraepelin đã thống nhất các bệnh độc lập đợc mô tả trớc đây
thành một bệnh, gọi chung là bệnh "mất trí sớm" và đã nêu khá đầy đủ
những triệu trứng lâm sàng của bệnh này. Quan niệm "mất trí sớm" nhanh
chóng đợc các nhà tâm thần học Đức hởng ứng, nhng các tác giả có khuynh
hớng hội chứnh luận của pháp cho rằng "mất trí sớm" do Emil Kraepelin
mô tả không chỉ kết thúc bằng mất trí, mà còn có thể dừng lại ở một số giai
đoạn phát triển nào đó.
ở Nga, năm 1857, khoa tâm thần đầu tiên đợc thành lập tại Viện Hàn
lâm nội khoa Pêtecbua do giáo s I. M. Balinky lãnh đạo. Năm 1882,
Kandinski mô tả BN tâm thần t duy (Ideophrenia) là một bệnh độc lập mà
các triệu chứng cơ bản phù hợp với bệnh TTPL hiện nay đã có các công
trình về ảo giác giả vào năm 1887. Mecgieepski đã bớc đầu nghiên cứu
trong lĩnh vực giải phẫu sinh lý của não, đã vận dụng thôi miên và ám thị
vào điều trị bệnh. Năm 1891, Coocxacôp mô tả bệnh Dysnoia nh một bệnh
loạn thần cấp có nhiều nét lâm sàng phù hợp với bệnh TTPL tiến triển cấp,
3
ông đã tập trung vào nghiên cứu giải phẫu vi thể và các quá trình sinh lý
của não để đi sâu vào bản chất của bệnh tâm thần và chứng minh luận điểm
bệnh tâm thần là bệnh của não bộ và toàn cơ thể, ông nghiên cứu kỹ bệnh
loạn thần do rọu và bệnh này gọi là bệnh "loạn thần Coocxacôp".
Từ thế kỷ 20
Năm 1911, Bleuler căn cứ vào sự phân tích các diễn biến lâm sàng
của các ca ''mất trí sớm'' đã chỉ ra rối loạn chủ yếu của bệnh là sự chia cắt
về mặt tâm thần, ông đề xuất tên gọi mới là bệnh TTPL (Schizophrenia) với
hội chứng 4 chữ A đặc trng. Từ đó thuật ngữ này nhanh chóng đợc nhiều n-
ớc thừa nhận và đợc dùng đến ngày nay [42]. Năm 1939, Schneider đã nêu
một loạt các triệu chứng hàng đầu đặc trng cho bệnh TTPL nh: Hoang tởng
bị chi phối, t duy vang thành tiếng, ảo thanh có nội dung bình phẩm hay ra
lệnh cho BN, những biểu hiện của tâm thần tự động
Năm 1968, trong bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 8, TTPL đợc
xếp vào mục 29 mang mã số 29.5 [6].
Năm 1992, trong bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD - 10)
TTPL đợc xếp vào chơng F2 mục F20 [26].
Ngày nay, nhiều chuyên gia tâm thần học quan niệm rằng:TTPL là
một bệnh loạn thần nặng, tiến triển từ từ, có khuynh hớng mạn tính, căn
nguyên cha rõ ràng, làm biến đổi nhân cách ngời bệnh một cách sâu
sắc: Ngời bệnh tách dần ra khỏi cuộc sống bên ngoài, thu dần vào thế giới
bên trong (thế giới tự kỷ), tình cảm trở lên khô lạnh dần, khả năng làm việc,
học tập ngày một giảm sút, có những hành vi kì dị, khó hiểu [37, 39].
Tại Việt Nam.
Trong những thế kỷ trớc, nớc ta không có một cơ sở chữa bệnh tâm
thần, không có thầy thuốc và không có sách báo tài liệu về tâm thần.
4
Thời kỳ thực dân Pháp xâm chiếm nớc ta, có xây dựng 2 nhà thơng
"điên" ở Biên Hoà và ở Vôi (huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang). Ngoài ra
còn một khu điên ở BV Bạch Mai, Hà Nội. Các cơ sở này thực chất là nơi
giam giữ bệnh nhân. Trong nhân dân không có hiểu biết gì về bệnh tâm
thần [42].
Sau ngày giải phóng thủ đô Hà Nội năm 1945 và giải phóng Sài Gòn
năm 1975, Đảng, Chính phủ và Bộ Y tế đã quan tâm đến ngành Tâm thần
học. Ngành Tâm thần học Việt Nam đã phát triển nhanh chóng.
Năm 1962 Hội thần kinh, tâm thần và phẫu thuật thần kinh ra đời.
Năm 1963 BV tâm thần Thờng Tín đợc thành lập, lúc đầu là 100 gi-
ờng, sau là 450 giờng và từ năm 1969 trở thành BV tâm thần Trung ơng
giúp Bộ Y tế trong việc chỉ đạo phát triển mạng lới chăm sóc sức khoẻ tâm
thần ở Việt Nam.
Các BV tâm thần ở các tỉnh và thành phố lần lợt ra đời và lớn mạnh.
Khoa tâm thần Viện quân y 103 cũng đợc thành lập và sau đó là khoa tâm
thần kinh ở các bệnh viện quân khu.
Bộ môn Tâm thần Trờng Đại học Y khoa Hà Nội thành lập năm
1957. Bộ môn Tâm thần trờng Đại học Y thành phố Hồ Chí Minh ra đời
năm 1977 [42].
Một số công trình khoa học nh: Điều tra cơ bản bệnh tâm thần nói
chung và bệnhTTPL nói riêng, nghiên cứu hiệu quả của phục hồi chức năng
cho bệnh nhân tâm thần cho ngời bệnh xây dựng các trắc nghiệm tâm lý,
tác dụng của th giãn trong việc điều trị bằng âm nhạc và văn nghệ liệu
pháp đã đợc đặt ra và tiến hành từ nhiều năm trớc đây.
Ngành tâm thần đã xây dựng nhiều kế hoạch phát triển chính sách và dịch
vụ CSSK tâm thần ở cộng đồng. Năm 1999 Chính Phủ đã duyệt thông trình
quốc hội.
5
Thực hiện chủ trơng mở cửa, ngành tâm thần học Việt Nam có quan
hệ tốt với Tổ chức Y tế thế giới (WHO), với Hội phục hồi tâm lý xã hội thế
giới (WAPR), với liên đoàn quốc tế thế giới các Hội tâm thần nói tiếng
Pháp (FIFP), và nhiều Hội tâm thần trên thế giới nh: Thuỵ Điển, Hà Lan,
Phần Lan, Pháp đợc mời đại biểu tham dự các hội nghị quốc tế ở Manila,
Hà Lan, Nhật Bản, Pháp đã gửi nhiều bác sĩ đi tu nghiệp ở nớc ngoài và tổ
chức nhiều cuộc hội thảo có sự tham gia của các chuyên viên quốc tế tại Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh [42].
Ngành tâm thần học nớc ta ra đời rất muộn so với ngành tâm thần
học của nhiều nớc trên thế giới, lại phải gặp phải hoàn cảnh chiến tranh ác
liệt nhng đã đi đúng hớng và phát triển nhanh chóng. Tuy vậy, ngành còn
có nhiều khó khăn trong việc thực hiện tốt công tác CSSKTT cộng đồng đặc
biệt là xây dựng chính sách và dịch vụ CSSKTT cộng đồng.
1.1.2. Dịch tễ học bệnh tâm thần phân liệt
Thế giới
Mặc dù đã có một thế kỷ nghiên cứu, dịch tễ học bệnh tâm thần phân
liệt trên thế giới vẫn còn nghèo nàn, các số liệu khác nhau tuỳ nơi, tuỳ lúc,
nhiều khi khác nhau giữa các tác giả, các trờng phái trong cùng một nớc.
Trong nghiên cứu dịch tễ học các rối loạn tâm thần nói chung và bệnh
TTPL nói riêng, WHO luôn đóng vai trò quan trọng, đề xuất chủ trơng
nghiên cứu dịch tễ học, huy động nguồn lực để tiến hành nghiên cứu tầm cỡ
quốc tế, đặc biệt là về bệnh TTPL
Trong những năm 1960, WHO tiến hành nghiên cứu thí điểm trên qui
mô quốc tế về bệnh tâm thần phân liệt tại 9 trung tâm với dân số
35.132.000 ở 9 nớc, với tổng số BNTTPL là 1.202 ở lứa tuổi từ 15 đến 54
nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho các nghiên cứu dịch tễ học TTPL [24].
6
Bảng 1.1. Tỷ lệ mắc bệnh tâm thần phân liệt
WHO 0,48% - 0.96% dân số [26]
1% dân số [36, 42]
Sjogren (Thuỵ Điển) 0,6% dân số
Fremming (Đan Mạch) 0,88% dân số
Harold I. Kaplan (Mỹ) 1% dân số
Bảng 1.2. Tỷ lệ mới mắc (Incidence)
ở Mỹ và các nớc Châu Âu 0,03% - 0,065 dân số
Duham 1965 và Wing 1976 0,011% - 0,022% dân số
P.E Chanoit 1985 0,017% - 0,057% dân số
Bảng 1.3. Tuổi khởi phát bệnh
Bleuler (1950) và
Lorager (1984)
Nam khởi phát sớm hơn nữ trung bình
là: 3,7 năm
Kraêplin (1971) Nam khởi phát sớm hơn nữ là: 2,2 năm
O. Gureje (1991)
Tuổi khởi phát trung bình của nam
là: 21,4
Tuổi khởi phát trung bình của nữ
là: 26,8
Bảng 1.4. Nguy cơ mắc bệnh theo giới tính
Hafner và CS Gần nh nhau ở nam và nữ
7
(Cộng hoà Liên bang Đức 1988)
R. Bland (Canada) Nam là 2,1%, ở nữ là 1,7% [56]
Dulcan (1991) ở trẻ em TTPL, xu hớng nghiêng
về nam giới.
Theo nghiên cứu của Chalons tại một BV đa khoa ở Marne, BNTTPL điều
trị nội trú chiếm 22% giờng bệnh và 32,3% tổng số ngày điều trị.
Theo P.E. Chanoit 1985, xác suất mắc bệnh là: 0,3% - 1,87% dân số.
Theo O. Gureje (1991), khoảng 90% BN nam và 67% BN nữ bị bệnh TTPL
trớc tuổi 30 [48].
Việt Nam
Chuyên khoa tâm thần ra đời muộn so với các chuyên khoa khác. Tháng
12 năm 1956 mới thành lập khoa tinh-thần kinh BV Bạch Mai và từ đó Tâm
thần học mới đợc giảng dạy ở Trờng Đại học Y khoa Hà Nội [42].
Từ những năm 1964 đến nay, Việt Nam đã có trên 50 công trình điều tra
cơ bản về bệnh tâm thần. Tuyệt đại đa số các công trình tiến hành điều tra
đồng thời từ 2 - 10 loại bệnh tâm thần khác nhau, trong đó có mục bệnh
TTPL Các điều tra đã đợc tiến hành trên nhiều miền khác nhau
(Bắc, Trung, Nam), nhiều vùng khác nhau (nông thôn, thành thị, đồng bằng,
miền núi) [23, 24].
Các điều tra dịch tễ lâm sàng bệnh TTPL có thể phân thành 3 loại theo cỡ
mẫu, phơng pháp nghiên cứu và tiêu chuẩn chẩn đoán.
Loại thứ nhất : Điều tra tại các xã, phờngvới 300 - 500 dân. Là các điều tra
dựa vào cán bộ, nhân dân địa phơng phát hiện giúp sau khi nghe phổ biến
kiến thức cơ bản về các bệnh tâm thần. Các điều tra lập bàn khám tâm thần
sau khi thông báo cho nhân dân về mục đích nghiên cứu. Các điều tra dựa
vào số BN đến khám và chữa bệnh ở đội ngoại viện. Kết quả các điều tra
loại này cho tỷ lệ bệnh TTPL là: 0,15% - 0,23% dân số (tỷ lệ thấp so với
quốc tế ) [23, 24].
8
Loại thứ hai: Gồm các nghiên cứu tại xã, phờng với 4.000 - 10.000 dân, dựa
vào điều tra từng hộ. Bao gồm: Điều tra Handicap tâm thần của
Trần Văn Cờng và CS ở xã Hoà Bình năm 1981, điều tra các bệnh tâm thần
ở Khoái Cầu năm 1981 của Nguyễn Văn Siêm và CS, điều tra Handicap tâm
thần ở 4 xã, phờng Hà Nội năm 1981 của Lã Thị Bởi và CS, điều tra một số
bệnh tâm thần ở Tân Mai năm 1985 của Nguyễn Thị Mai và CS, điều tra
của Nguyễn Thị Mai và CS năm 1987, về các bệnh nhân tâm thần ở phờng
Lê Đại Hành - Hà Nội. Các công trình loại này cho biết tỷ lệ mắc bệnh
TTPL là 0,3% - 0,37% dân số. Hạn chế loại này là chỉ có 80% - 90% dân số
đợc điều tra theo báo cáo. Vì nhận thức không đúng hoặc mặc cảm về bệnh
TTPL, gia đình không khai sự thật, BN tâm thần lại phủ định bệnh, không
chịu đi khám nên trong 10% - 20% dân số không đợc điều tra này có thể có
một số không ít ngời bệnh bị TTPL [23, 24].
Loại thứ ba: Gồm các điều tra tại các xã, phờng với dân số 4.500 - 12.000.
Loại nghiên cứu này tiến hành trên từng hộ làm nh điều tra dân số, điểm tên
từng ngời để phỏng vấn phát hiện BN. Dùng các câu hỏi có tính đến mặc
cảm dấu bệnh của gia đình BN (nhất là các trờng hợp bị bệnh trong quá khứ
nay đã ổn định). Tham khảo sổ đăng kí khám bệnh, nằm viện của các cơ sở
tâm thần địa phơng. Cách này đòi hỏi nhiều thời gian, nhân lực nhng phát
hiện đợc cả những bệnh nhân bị bệnh nhẹ hoặc các bệnh nhân ổn định, cho
phép thu nhập các thông tin để phân tích cặn kẽ hơn. Các công trình sau
đây thuộc loại này: Điều tra các bệnh nhân tâm thần ở xã Cao Dơng năm
1972 của Đào Đình Huy. Nguyễn Văn Trí và CS, điều tra cơ bản bệnh tâm
thần ở Nghĩa Bình năm 1981 - 1985. Điều tra các bệnh tâm thần ở xã Lam
Sơn, xã Bắc Sơn và phờng Lê Đại Hành (Hải Phòng) năm 1985 của Nguyễn
Duy Hoà và CS. Điều tra của Nguyễn Văn Trí và CS
ở Bình Định năm 1985. Trần Bá Mạc và CS điều tra ở Hà Nam Ninh năm
1986 [20]. Quản lý BNTTPL tại xã Phợng Dực của Trần Văn Cờng. Bùi
9
Đức Trình và CS điều tra ở 1 xã tỉnh Bắc Thái năm 1990 [31]. Điều tra bệnh
TTPL ở Bình Thuận (phúc tra năm 1992), ở Tự Nhiên năm 1994 và ở Tiên
Kiên năm 1995 của Nguyễn Văn Siêm và CS [25]. Bùi Thế Khanh điều tra
tại Duyên Thái năm 1997 [17]. Các nghiên cứu thuộc loại này chẩn đoán
theo các tiêu chuẩn ICD. Kết quả cho tỷ lệ mắc chung của bệnh TTPL là
0,52% - 0,72% dân số. Loại nghiên cứu này còn đề cập đến các chỉ số dịch
tễ học khác của bệnh TTPL nh:
- Tỷ lệ mắc điểm: 0,47% - 0,53% dân số.
- Tỷ lệ mới mắc: 0,029% - 0,056% dân số.
- Nguy cơ mắc: 1,25% - 1,44% dân số [23, 24].
Các số liệu của loại nghiên cứu thứ 3 này tơng tự nh các số liệu của
các nớc khác trên thế giới. Ngoài ra còn có các phân tích về tuổi, giới, thể
di truyền, thể lâm sàng, thuyên giảm và tái phát, các yếu tố ảnh hởng tới
tiến triển và tiên lợng bệnh. Tại các địa điểm nghiên cứu loại này, BN tâm
thần đợc tổ chức chăm sóc cấp thuốc tại xã, theo dõi và đánh giá.
Theo Nguyễn Viết Thiêm (1995), Pineruaschuhaibar (1992) nhận
thấy: Trong số BN tâm thần điều trị nội trú tỷ lệ BNTTPL chiếm
14,1% - 61,2% [30].
Tại các cơ sở chuyên khoa có tới 80% - 90% số BN nằm viện là
BNTTPL và 70% - 80% số BN đến khám là BNTTPL [24].
Theo Nguyễn Việt (1990), TTPL chủ yếu là bệnh ở tuổi trẻ, đa số các
trờng hợp phát bệnh từ 15 - 25 tuổi [37]. Cũng với nhận định này, Nguyễn
Viết Thiêm (1995) cho biết lứa tuổi thờng gặp của bệnh nhân TTPL là 16
đến 35 chiếm 65,9% [30].
Giới tính: Nguyễn Viết Thiêm, Nguyễn Đăng Dung, Geddes và
Black J. 1993 cho biết: ở tuổi trởng thành tỷ lệ BN nam/BN nữ
tơng đơng nhau [12]. Nguyễn Việt, Trần Viết Nghị và CS cũng
nhận xét tơng tự: Giới nam và nữ cho tỷ lệ xấp xỉ nh nhau [38]. Tuy nhiên
10
một số tác giả khác lại cho kết quả tỷ lệ mắc ở giới nam cao hơn so với giới
nữ nh:Nguyễn Văn Siêm, Bùi Thế Khanh, La Đức Cơng và Trần Cao Cờng.
1.1.3. Bệnh nguyên - bệnh sinh bệnh tâm thần phân liệt
Mặc dù đã có hơn một thế kỷ, với rất nhiều các công trình nghiên cứu về
bệnh sinh - bệnh nguyên của bệnh TTPL nhng cho đến nay vấn đề vẫn cha
đợc chứng minh rõ ràng. Nhiều tác giả đã đi đến thống nhất bệnh TTPL do
nhiều nguyên nhân gây ra, do sự tác động qua lại của các nhân tố thuộc tính
cơ thể (yếu tố bẩm sinh) với các nhân tố ngoại lai. Các giả thiết có thể tóm
tắt nh sau:
Yếu tố di truyền
Nhiều công trình khoa học đã khẳng định vai trò của yếu tố di truyền trong
bệnh TTPL.
Kallmann (1967), nghiên cứu trên trẻ sinh đôi cùng trứng là 59,2% [42].
Debray J. (Pháp) cũng cho kết quả tơng tự: Nguy cơ bị TTPL chỉ có
ở anh chị em ruột, 12% con cái và 6% bố mẹ những ngời mắc
bệnh TTPL. Nhng khi cả bố và mẹ bị bệnh có tới 30% - 40% số con nguy
cơ bị bệnh [36].
Nghiên cứu sự phát bệnh TTPL trên những trẻ sinh đôi cùng trứng và
khác trứng cho thấy sự tơng đồng (cả hai cùng bị TTPL) ở tỷ lệ
nh sau: [42].
Kiểu sinh
Tác giả
Sinh đôi khác trứng Sinh đôi cùng trứng
Kallmann (1967) 9,1% 59,2%
Caillard (1978) 0% - 11% 14% - 68%
Mendlewicz 9% - 14% 36% - 86%
( Trong 5 điều tra khác nhau)
11
Kallmann còn cho biết thêm: Nếu sinh đôi cùng trứng mà nuôi dỡng ở
những môi trờng khác nhau thì tỷ lệ này là 77,6%, nếu nuôi chung trong
một gia đình thì tỷ lệ đến 91,5% [42]. Trần Văn Lập và CS (1986), nghiên
cứu trên 1.906 BNTTPL thấy số BN có yếu tố gia đình chiếm 40% [19].
Yếu tố sinh hoá
Những công trình nghiên cứu về sinh hoá cho thấy, ở những ngời bệnh
TTPL một số triệu trứng có thể liên quan đến rối loạn sản xuất, chuyển hoá,
phân huỷ các chất môi giới thần kinh, các amin sinh học, các alphaglobulin
di chuyển chậm.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, rối loạn chuyển hoá
dopamin (DA) đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của bệnh TTPL.
Nếu hoạt động của các enzym tổng hợp, phân huỷ bị rối loạn hoặc sự tiếp
nhận các DA của các receptor bị biến đổi thì sự chuyển hoá các chất trung
gian hoá học đảm bảo cho sự dẫn truyền thần kinh cũng bị rối loạn. Chính
vì vậy mà chúng ta thấy có sự biến đổi rõ rệt DA trong các giai đoạn cấp
tính của bệnh TTPL [49, 50].
Một số công trình khác đi sâu nghiên cứu rối loạn chuyển hoá chất
cathecholamine, serotonin, GABA trong bệnh TTPL. Meltzer H. (1980),
Morovkin (1988), cho rằng bệnh TTPL là do rối loạn chuyển hoá các chất
hoá học thần kinh trung gian cathecholamine và hệ dopaminergic [49].
Yếu tố ngoại lai
Bệnh TTPL có thể bị phát sinh sau khi bị nhiễm trùng, sau khi đẻ hay
sau các sang chấn tâm thần. Có những ý kiến cho rằng bệnh TTPL có
nguyên nhân nhiễm trùng nh: Lao, giang mai (tác giả Pháp: Marchand,
Leroy, Fursac, Abely), nhiễm trực khuẩn Coly (Claude và Baruk), nhiễm
siêu vi trùng (Marchand ở Pháp, Moroxov ở Liên xô, bệnh viện Buscaino ở
12
ý). Crow và CS (1979), chứng minh đợc sự hiện diện của một vi rút tác
dụng chậm trong dịch não tuỷ của 18/47 BNTTPL.
Có quan điểm cho rằng bệnh TTPL là do sự nhiễm độc (Korsakov,
Kraepelin). Trạng thái những phản ứng miễn nhiễm ở ngời bệnh TTPL đã đ-
ợc Semenov nghiên cứu ở Liên Xô cũ [42].
Các yếu tố tâm lý xã hội, các rối loạn cấu trúc và xung đột gia đình,
các biến đổi văn hoá xã hội cũng đóng góp một vai trò nhất định trong bệnh
TTPL [45, 46].
1.1.4. Chẩn đoán và điều trị bệnh TTPL
Chẩn đoán
Tiêu chuẩn chẩn đoán TTPL theo WHO năm 1992, chính thức công bố
ICD - 10F (bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 phần F). Theo ICD - 10F
chẩn đoán TTPL phải dựa vào các tiêu chuẩn sau đây [27]:
Về lâm sàng: Có 9 nhóm triệu chứng đặc trng của bệnh
(a) T duy vang thành tiếng, t duy bị áp đặt hay bị đánh cắp, t duy bị phát
thanh.
(b)Các hoang tởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động có liên quan rõ rệt
tới vận động của cơ thể hoặc liên quan tới ý nghĩ, hành vi, cảm giác đặc
biệt của BN hay tri giác hoang tởng.
(c) Các ảo thanh bình phẩm thờng xuyên về hành vi của bệnh nhân, hay
thảo luận với nhau về BN hoặc ảo thanh giả.
(d)Các hoang tởng dai dẳng khác không thích hợp.
(e) ảo giác kéo dài bất cứ loại nào, dai dẳng nhiều tuần.
(f) Ngôn ngữ gián đoạn, thêm từ khi nói, t duy không liên quan, không
thích hợp.
(g) Tình trạng căng trơng lực nh: Kích động căng trơng lực, giữ nguyên
dáng, uốn sáp hay phủ định không nói, sững sờ.
13
(h)Các triệu chứng âm tính nh vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các đáp
ứng cảm xúc cùn mòn hay không thích hợp, cách ly xã hội, giảm sút
hiệu xuất lao động. Các triệu chứng trên phải rõ ràng không do trạng
thái trầm cảm hay thuốc an thần kinh gây ra.
(i) Biến đổi thờng xuyên và rõ rệt một cách toàn diện tập tính cá nhân, biểu
hiện nh: Mất hứng thú, thiếu mục đích, mê mải suy nghĩ về bản thân.
Chẩn đoán xác định bệnh TTPL: Nếu có triệu chứng rõ trong 4 nhóm
triệu chứng từ a đến d hoặc 2 triệu chứng rõ trong nhóm triệu chứng từ e
đến i.
Tiêu chuẩn về thời gian: Các triệu chứng trên phải tồn tại ít nhất là một
tháng .
Tiêu chuẩn loại trừ:
Rối loạn cảm xúc, trầm cảm hay hng cảm mở rộng.
Tổn thơng thực thể não, động kinh.
Nghiện ma tuý.
Điều trị
Do căn nguyên của bệnh TTPL cha rõ ràng nên cho đến nay vấn đề điều
trị chủ yếu là điều trị triệu chứngvà phục hồi chức năng cho ngời bệnh. Nói
cách khác là phải kết hợp nhiều liệu pháp khác nhau nh: Liệu pháp hoá dợc,
liệu pháp lao động, liệu pháp phục hồi chức năng tâm lý tái thích ứng xã hội
và lý liệu pháp. Tuỳ từng thể bệnh mà ta sử dụng các liệu pháp cho thích
hợp hoặc phối hợp có hiệu qủa hơn. Trong những liệu pháp trên thì liệu
pháp hoá dợc là quan trọng nhất, nó là nền tảng cho việc áp dụng các liệu
pháp khác [13, 16, 35, 37, 42].
Liệu pháp hoá d ợc
Năm 1950 Charpentier đã tổng hợp đợc Chlorpromazine trong quá trình
tìm kiếm một chất kháng Histamine mới để sử dụng thuốc gây mê. Laborit
báo cáo khả năng gây ngủ của chất này. Sau đó Paraire và Sigwald (1951),
14
Delay và Deliker (1952), Lebmann và Hanranan(1954), đã ghi nhận các tác
dụng của Chlorpromazine đối với các bệnh tâm thần. Chlorpromazine
nhanh chóng đợc các nhà tâm thần Mỹ sử dụng và dẫn tới sự ra đời của các
thuốc khác có tác dụng tợng tự nh Haloperidol đợc phát hiện bởi Janssen
năm 1958 [42]. Sự ra đời của Chlorpromazine đã làm thay đổi hẳn bộ mặt
Tâm thần học, kiến trúc BV thay đổi về cơ bản, tiên lợng bệnh nhân đã khả
quan hơn nhiều. Ngời bệnh có thể điều trị và phục hồi
chức năng tại cộng đồng [7, 14, 16].
Có nhiều cách phân loại các thuốc hớng thần tuỳ từng tác giả, đại đa số
các tác giả thống nhất chia làm 4 nhóm chính [14, 24, 42]:
Nhóm an thần kinh (Neuroleptiques).
Nhóm thuốc bình thản (Transquillsants).
Nhóm thuốc hng thần (Psychoanaleptiquets).
Nhóm thuốc loạn thần (Psychodysleptiquets).
Các nguyên tắc sử dụng thuốc
Trớc khi dùng thuốc cần khám xét kỹ về lâm sàng, cận lâm sàng để
xác định chẩn đoán và có chỉ định phù hợp, đặc biệt để loại trừ các trờng
hợp chống chỉ định.
Chọn thuốc và liều lợng thuốc phải phù hợp với từng bệnh nhân. Hạn
chế việc kết hợp nhiều loại thuốc hớng thần để tránh tác dụng phụ do phối
hợp nhiều loại thuốc khác nhau.
Theo dõi hiệu lực của thuốc để thay đổi thuốc cho thích hợp, nhất là
trong giai đoạn cấp tính, nếu có biến chứng của thuốc thì sử lý kịp thời [39].
Ngày nay ngời ta cố gắng rút ngắn thời gian điều trị BNTTPL tại các BV.
Chỉ nằm viện để giải quyết cơn cấp tính, các trờng hợp có hành vi tự sát
hoặc có hành vi gây trở ngại cho sự an toàn của bản thân BN và cho những
15
ngời xung quanh [2,10,24]. Khi bệnh ổn định, họ cần đợc tiếp tục quản lý
và điều trị tại cộng đồng.
Liệu pháp về tâm lý
Có thái độ tâm lý tốt, thông cảm tôn trọng ngời bệnh. Tổ chức
hệ thống cửa mở làm cho họ đợc tự do, thoải mái. Giải quyết các nhu cầu và
mâu thuẫn của BN tại gia đình và cộng đồng [8, 9, 13, 37, 39]. Mục đích
của liệu pháp tâm lý làm cho BN an tâm, tin tởng vào kết quả điều trị,
chống t tởng bi quan lo lắng, chán đời, giúp BN hăng hái tham gia
lao động, học nghề và tham gia vào các hoạt động xã hội khác.
Liệu pháp lao động và tái thích ứng xã hội
Là biện pháp chủ yếu trong điều trị BNTTPL mạn tính tại cộng đồng,
nhằm khắc phục những triệu chứng âm tính, uốn nắn và sửa chữa hành vi
của ngời bệnh, phục hồi chức năng tâm lý xã hội cho họ, giúp họ thích ứng
đợc với cuộc sống xã hội, giúp ta phòng ngừa tái phát bệnh và phát hiện
bệnh sớm [4, 9, 21, 39].
1.2. Hoạt động chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt tại cộng đồng
Bệnh TTPL là bệnh cha rõ căn nguyên và có khuynh hớng
tiến triển ngày càng nặngvà trở thành mạn tính. Bệnh làm tan rã sự hoà hợp
vốn có của quá trình cơ bản tạo nên đời sống con ngời. Khi bệnh ở giai
đoạn cấp tính cần đợc điều trị tại BV chuyên khoa, đây chỉ là một phần nhỏ
trong quá trình điều trị bệnh TTPL. Vấn đề là phải đợc điều trị lâu dài tại
cộng đồng để phòng tái phát và giúp BN khắc phục những triệu chứng âm
tính, từ đó làm cho BN phục hồi đợc các chức năng sinh hoạt và tái thích
ứng với xã hội đợc tốt. Vì vậy phải có một chiến lợc trớc mắt và lâu dài cho
điều trị TTPL, đó là CSSKTT cộng đồng [9, 11, 22, 38, 39].
1.2.1. Trên thế giới
Bệnh TTPLcó từ khi loài ngời xuất hiện, nhng trong một thời gian dài
việc tổ chức quản lý và điều trị bệnh cho họ hoàn toàn không có [42].
16
Thời Trung cổ
Cuối thời kỳ này, xã hội t bản phát triển yêu cầu phải loại trừ những
ngời bệnh tâm thần ra khỏi thành phố đã đợc đặt ra. Phần lớn các bệnh nhân
tâm thần đã đợc tập trung vào các tu viện và các nhà cứu tế. ý thức thống trị
đơng thời là giáo hội. BN bị đối xử bằng biện pháp tàn bạo, khoá mồm để
không kêu gào đợc, làm cho họ nôn mửa, trói vào ghế để họ kiệt sức không
kích động đợc, nhiều khi còn bị thiêu sống [42].
Cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX:
Thái độ đối với ngời bệnh tâm thần bắt đầu đợc cải thiện.
Xuất hiện các cơ sở điều trị chuyên khoa cho các BN tâm thần là bớc phát
triển đáng kể trong sự phát triển của nền văn hoá. Tuy nhiên, việc giam giữ
ngời bệnh trong các nhà chứa "điên" mang tính chất tàn bạo và vô nhân đạo
vẫn tồn tại. Thờng thì ngời bệnh bị nhốt trong những buồng cách ly hẹp có
sàn bằng đá, có lỗ hở với chấn song sắt thay cho cửa sổ, rơm thay cho chăn
chiếu. BN nằm lẫn phân và nớc tiểu, đầy ngời lở loét [52].
ở Pháp: Dới ảnh hởng của cuộc cách mạng t sản Pháp,
những quan niệm duy vật và khoa học về bệnh tâm thần bắt đầu chiếm u
thế. Năm 1792, nhà tâm thần học ngời Pháp là Pinel P. đã giải phóng ngời
bệnh tâm thần khỏi xiềng xích và đề xuất việc cải tạo nhà cứu tế ngời bệnh
thành những BV tâm thần. Esquirol đã kế tục sự nghiệp đó,
sơ bộ phân loại các BN tâm thần, thực hiện chế độ làm bệnh án và theo dõi
ngời bệnh hàng ngày. ảnh hởng của Pinel và Esquirol đã thúc đẩy phong
trào cải cách các BV tâm thần [41, 52].
ở Anh, Conolly J. (1839), tiếp tục cuộc cải cách do Pinel P. khởi x-
ớng và đề xuất hệ thống không tù túng (no restraint system) [52].
ở Nga, năm 1723, Pie đệ nhất đã chỉ thị cho xây dựng những quân y
viện đặc biệt để điều trị cho các BN tâm thần, đồng thời nghiêm cấm việc
17
giam giữ ngời bệnh trong các tu viện. Năm 1785, tại Maxcơva đã xây dựng
BV tâm thần Preobrazenxkia.
Từ thế kỷ XX:
Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền khoa học công nghệ
hiện đại, yêu cầu chữa bệnh tâm thần đặt ra ngày càng cấp bách. Hàng loạt
các BV tâm thần với qui mô lớn từ 1.000 đến 3.000 giờng đã đợc xây dựng
ở hầu hết các nớc phát triển. Các BV này liên hệ chặt chẽ với các BV đa
khoa. Ngời bệnh tâm thần đợc giải phóng đến mức tối đa [7, 42].
Gần đây các chuyên gia về tâm thần học trên thế giới nhận thấy rằng:
Do tính chất bệnh TTPL, là mạn tính và hay tái phát, nên để giải quyết tốt
vấn đề BNTTPL, không chỉ dựa vào BVvới qui mô lớn. Xu hớng tổ chức
những bệnh viện tâm thần lớn tập trung hàng mấy ngàn giờng bệnh đã đợc
thay thế bằng việc phân tán hoá ra thành những BV qui mô nhỏ hơn có từ
200 - 300 giờng bệnh ở khắp các địa phơng giúp cho việc
chữa bệnh tâm thần gần gũi với ngời dân hơn. Mặt khác, thật không phù
hợp khi phần lớn những phơng tiện điều trị BN đặt trong các BV, trong khi
đó khá đông BNTTPL cha bao giờ đợc khám bệnh và điều trị vẫn sống
ngoài BV, ngay tại trong cộng đồng [7, 42]. Chính vì vậy đã có một chính
sách thích hợp, một trong những sách lợc đợc nhiều nớc hởng ứng đó là
CSSKTT tại cộng đồng.
Trong những năm 1950, tại Mỹ có khoảng 500.000 giờng bệnh tâm
thần, phân bố trong các bệnh viện với qui mô từ 1.000 - 3.000 giờng. Nhiều
BNTTPL phải nằm điều trị trong các bệnh viện tới 14 - 40 năm. Ngày nay
nhờ những chính sách mới và đặc biệt là sự ra đời của kỷ nguyên các thuốc
hớng thần, quan trọng là Chlorpromazine, nhiều BNTTPL
đã đợc điều trị tốt tại cộng đồng [47].
Tại Australia, từ cuối thể kỷ XX, chiến lợc về CCSKTT đã thay đổi
[59, 60, 61].Tháng 4/1992 Bộ trởng Bộ Y tế Australia cùng đại diện các
18
bang đã ký một chính sách quốc gia về sức khoẻ tâm thần, trong đó nhấn
mạnh cần tăng cờng CSSKTT tại cộng đồng. Nhiều BV lớn chứa vài trăm
BN đặ xa nơi dân c đã đóng cửa, xuất hiện ngày càng nhiều những khoa
tâm thần có từ 20 - 50 giờng bệnh nằm trongcác BV đa khoa. Mỗi đơn vị
nh vậy phục vụ cho khoảng 200.000 - 500.000 dân. BN cấp tính đợc điều trị
tại đây một thời gian trung bình khoảng 15 - 20 ngày, khi ổn định họ đợc đa
về nhà và tiếp tục điều trị tại cộng đồng, ở đó họ có những đội CSSKTT
phối hợp cùng gia đình BN để tiếp tục theo dõi và điều trị
ngời bệnh.
Công tác chẩn đoán và điều trị: Trong nhiều thể và nhiều giai đoạn của
bệnh TTPL không nhất thiết phải điều trị nội trú, mà chỉ cần chữa tại các
Dixpanxe. Trong các Dixpanxe có các phòng điều trị nội trú ban ngày,
có xởng lao động liệu pháp. Đối với các bệnh nhân không đến đợc
Dixpanxe thì thầy thuốc và y tá đến tận nhà BN để khám bệnh và
điều trị.
Tổ chức lao động và sinh hoạt xã hội: Dixpanxe tổ chức lao động cho
ngời bệnh, bảo trợ pháp lý, giúp đỡ trong sản xuất giải quyết đời sống
gia đình và các xung đột khác, nhằm duy trì ngời bệnh ở vị trí là một
thành viên có ích cho xã hội.
Công tác vệ sinh phòng bệnh: Tổ chức tuyên truyền giáo dục
phòng bệnh, nói chuyện tập thể, giải thích cho thân nhân ngời bệnh, làm
cho những thành viên trong gia đình và cộng đồng có đợc những kiến
thức cơ bản về bệnh tật và cách chăm sóc ngời bệnh tại nhà. Từ những
hiểu biết này, cộng đồng sẽ là những những ngời đầu tiên phát hiện ra
bệnh hoặc thấy những biểu hiện bất thờng ở ngời bệnh để kịp thời báo
cho Dixpanxe điều trị, nhờ đó có thể ngăn ngừa sự tái phát của bệnh
đồng thời hạn chế bệnh chuyển sang giai đoạn mãn tính.
19
Đăng kí, thống kê BN tâm thần vào sổ theo dõi và tỷ lệ mắc bệnh trong
nhân dân từ đó có những chính sách về nguồn lực phù hợp cho hoạt
động của Dixpanxe đạt hiệu quả cao.
Các phòng khám (Moditen) ở Anh, hay các khu vực tâm thần (Secteurs
Psychiatriques) ở Pháp cũng hoạt động tơng tự nh các Dixpanxe tâm thần ở
Nga.
Bệnh TTPL có tỷ lệ mắc cao và liên quan đến yếu tố môi trờng sống,
xã hội, bệnh tật, các loại sang chấn tâm lý sự tái phát bệnh liên quan đến
việc chăm sóc của y tế và quan điểm đối xử của cả cộng đồng. Thái độ của
cộng đồng nh sợ hãi, xa lánh, không tin cậy BN, sợ nguy hiểm đối với
BNTTPL và càng làm cho mức độ bệnh tật nặng hơn và hay tái phát trở lại.
Do đó giáo dục, nâng cao sự hiểu biết về bệnh TTPL và cách chăm sóc ngời
bệnh tại gia đình cho cộng đồng là cần thiết [2, 4, 8, 39].
Do tính chất của bệnh TTPL, BN thờng gặp mặc cảm, tự ti, xa lánh
mọi ngời thu mình lại trong thế giới tự kỷ, cho nên ngời bệnh TTPL càng
khó hoà nhập với cộng đồng, càng làm tăng các rối loạn phân liệt, dẫn đến
việc sử dụng các phơng pháp điều trị khó đạt hiệu quả [53].
Vai trò của gia đình đối với BNTTPL rất quan trọng, các thành viên
trong gia đình phải thực sự thông cảm với tình trạng bệnh tật của BN, luôn
quan tâm, chăm sóc giúp đỡ họ, có tình cảm thơng yêu nhẹ nhàng, thái độ
ân cần với BN, giúp BN tự phục vụ sinh hoạt cá nhân, tạo các công việc làm
phù hợp và đa BN dần dần hoà hợp với cộng đồng [38, 54, 58]. Chính các
thành viên trong gia đình phải là những ngời có kiến thức cơ bản nhất về
bệnh TTPL, cần phải đa BNTTPL đi khám bệnh, nhắc nhở BN uống thuốc
đều theo hớng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa, họ cần phải biết những dấu
hiệu thay đổi sớm để thông báo cho cán bộ y tế, nhờ đó mà kịp thời ngăn
ngừa tái phát hoặc diễn biến những cơn bùng phát cấp tính. Công trình
nghiên cứu của Peuter E (1985) đã chứng minh rằng: Khi các triệu chứng
20
báo hiệu của bệnh TTPL đợc phát hiện sớm và điều trị kịp thời, khẩn trơng
(ngoại trú tại nhà) thì chỉ có 6% BN phải nhập viện hay nhập viện
lại [12]. Nhờ các hoạt động chăm sóc của những ngời thân trong gia đình
mà bệnh của họ đợc ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho BN
phục hồi chức năng sinh hoạt và tái hoà nhập với cộng đồng.
Trong các cơ quan chính phủ ở mức cộng đồng (xã, phờng) luôn có
những ngời đợc đào tạo đủ khả năng đóng góp, đáp ứng những nhu cầu về y
tế của cộng đồng. Ví dụ các nhà giáo, công an họ thờng chiếm một số l-
ợng đáng kể và luôn có sự tiếp xúc gần gũi với BN nơi họ thờng làm việc.
Các nhà giáo có thể có thể có ảnh hởng sâu sắc đối với gia đình BN và đối
với cả BN. Kinh nghiệm chỉ ra rằng: Các nhân viên công an đợc hớng dẫn
về sức khoẻ tâm thần và vận dụng kiến thức đó vào trong công việc của họ
tiếp xúc với cộng đồng, thì họ đóng một vai trò quan trọng trong việc phát
hiện và quản lý các rối loạn tâm thần [53, 55, 58].
Các tổ chức phi chính phủ nhìn chung và các nhân viên của tổ chức
này thờng rất nhiệt tình, năng nổ và linh hoạt, họ có thể đóng góp cho sự
nghiệp chăm sóc sức khoẻ ở tất cả các cấp, đặc biệt trong lĩnh vực CSSKTT
nói chung và cho các BNTTPL nói riêng, điều quan trọng là phải phát huy
các khả năng của họ.
Các nhân viên y tế cơ sở và những cán bộ đã có 2 - 3 năm đào tạo
chuyên ngành về y tế (y tá, y sĩ có thể cả bác sĩ nữa) họ làm việc tại các
trạm y tế xã và hoạt động phối hợp với các CTVYT hay còn gọi là các nhân
viên y tế thôn xóm.
21
Nhiệm vụ của họ là:
Phát hiện sớm các rối loạn tâm thần. Phát hiện những BN nặng cần phải
xử lí và điều trị kịp thời, đăng kí, quản lí lâu dài tại cộng đồng.
Theo dõi các BN đợc trả lại cộng đồng từ các BV, duy trì việc cấp thuốc
đều đặn cho các BN điều trị dài hạn.
Tiến hành tuyên truyền giáo dục sức khoẻ tâm thần, khuyến khích cộng
đồng tham gia vào các hoạt động nhằm giúp đỡ BNTTPL, tái hoà nhập
với cộng đồng.
1.2.2. Tại Việt Nam
Những thế kỷ trớc đây, nớc ta không có cơ sở chữa bệnh tâm thần,
không có thầy thuốc chuyên khoa. Nhân dân không hiểu biết gì về bệnh
tâm thần, ngời "điên" không đợc xem là ngời bệnh và bị đối sử tàn nhẫn.
Ngời ta cho rằng "điên" là do "mồ mả", thất tình, cuồng chữ, do ma quỉ,
thần thánh, trời phật nên cách chữa trị chỉ là cúng bái, phù phép, tàn hơng,
nớc thải, xiềng xích và đánh đập [36, 42].
Sau giải phóng thủ đô Hà Nội năm 1954và giải phóng Sài Gòn năm
1975 Đảng, chính phủ và Bộ Y Tế đã quan tâm đến ngành Tâm thần học.
Các BV tâm thần với qui mô từ 50 - 150 giờng bệnh đợc thành lập. Các
trạm tâm thần có nhiệm vụ quản lý và điều trị ngoại trú cho các BNTTPL
cũng nhanh chóng đợc xây dựng [42].
Về mặt điều trị, toàn ngành đã áp dụng hệ thống mở, giải phóng ngời
bệnh tâm thần đến mức tối đa. Lòng yêu thơng, quý trọng ngời bệnh đã đợc
giáo dục sâu rộng trong cộng đồng. Ngời bệnh đợc chăm sóc ngày càng tốt
hơn về sinh hoạt, giải trí và phơng pháp điều trị. Nhiều loại thuốc mới đợc
sử dụng, liệu pháp tâm lý, lao động, giải trí đợc chú ý nhiều hơn [7, 9, 38,
39]. Hai bệnh TTPL và động kinh đã đợc chính phủ xếp vào loại bệnh xã
hội. Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết 15/CP ngày 14/1/1975 quy định
các tỉnh, thành phố tổ chức BV tâm thần có quy mô từ 100 đến 200 giờng
22
bệnh và tổ chức các trạm tâm thần nằm trong các phòng khám bệnh (có
biên chế và kinh phí riêng).
Năm1968, Bộ Lao động, thơng binh và xã hội tổ chức khu an dỡng tâm
thần cho những ngời tâm thần sa sút ở Vĩnh Phú và khu tâm thần cho thơng
binh ở Nho Quan (Ninh Bình) [42].
Các tỉnh phía nam sau ngày giải phóng, ngành tâm thần học cũng đợc
chú ý. BV tâm thần Biên Hoà đợc củng cố. Các BV tâm thần thành phố
Hồ Chí Minh, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quy Nhơn và các khoa tâm thần ở
các tỉnh Khánh Hoà, Tiền Giang, Cần Thơ đã đợc thành lập [42].
Đặc biệt ở thành phố Hồ Chí Minh màng lới phòng và chữa bệnh tâm
thần phát triển khá nhanh chóng. 17/18 quận, huyện (trừ huyện Duyên Hải)
đã có phòng khám bệnh. Các quận 3, 4, 8, 10, Phú Nhuận còn tổ chức đợc
trạm ban ngày. Sở Lao động, thơng binh và xã hội cũng xây dựng đợc một
khu nuôi dỡng ngời bệnh tâm thần sa sút với 500 giờng bệnh tại Thủ Đức
[42].
Ước tính nớc ta hiện nay có khoảng trên 320.000 BNTTPL đang sống tại
cộng đồng và lang thang trên đờng phố, cần đợc tổ chức quản lý và điều trị
[2, 9]. Trong khi đó điều kiện kinh tế ở nớc ta hiện cha cho phép phát triển
mạng lới tâm thần rộng khắp. Vì vậy việc tổ chức chăm sóc BNTTPL dựa
vào cộng đồng là ý tởng đã có từ rất sớm.
BV tâm thần Trung ơng có đội điều trị ngoại viện trực thuộc phòng
khám với 1 BS và 5 y sĩ định kỳ đến tất cả các xã thuộc huyện Thờng Tín
khám bệnh, cấp phát thuốc cho BNTTPL và BN động kinh.
Cuối những năm 1976, Phạm Văn Đoàn và CS đã tổ chức hệ thống
Dixpanxe tâm thần kinh tại huyện Thờng Tín, tỉnh Hà Tây.
Năm 1978, Trần Văn Cờng tổ chức quản lý BNTTPL tại xã Phợng Dực
(huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà tây). Điều tra cơ bản, tập huấn chuyên môn cho
23
cán bộ y tế xã, bồi dỡng các kiến thức cần thiết cho gia đình BN. Theo dõi
và cấp thuốc tại xã đều đặn cho đến nay [7].
Trần Bá Mạc, nghiên cứu 27/37 xã thuộc huyện Ninh Nam, điều trị tại
nhà cho 353 BNTTPL gồm những BN mới phát hiện và những BN đã đợc
điều trị giai đoạn cấp tính ở BV đa về địa phơng. Tác giả dùng liệu pháp
hoá dợc đơn thuần. Kết quả thu đợc số BN ở huyện Nam Ninh phải tái nhập
viện sau 1 năm thấp hơn nhiều so với số BN ở huyện ý Yên (xã đối chứng)
[20].
Với sự hợp tác của WHO, năm 1991 đã tiến hành nghiên cứu thí điểm
lồng ghép việc chăm sóc BN tâm thần mãn tính vào mạng lới y tế cơ sở tại
4 địa điểm: Phờng Trung Trực (Hà Nội) do Uỷ ban hợp tác y tế Hà Lan
-Việt Nam giúp đỡ, phờng Lê Lợi (Hải Phòng), xã Tiên Kiên (Vĩnh Phú),
và phờng Bình Thuận (Đà Nẵng) [12].
Nguyễn Đăng Dung (1992), đánh giá kết quả nghiên cứu thí điểm
phục hồi chức năng tâm lý xã hội dựa vào cộng đồng bệnh TTPL và
động kinh [12].
Năm 1994, điều tra cơ bản các rối loạn tâm thần tại xã Tự Nhiên và
xã Tiên Kiên. ở xã Tiên Kiên, trạm y tế xã hoạt động chăm sóc, cấp thuốc
cho BNTTPL và động kinh đều đặn, nắm vững tình trạng sức khoẻ tâm thần
của BN. BV Phú Thọ có BS định kỳ đến kiểm tra khám bệnh và cung cấp
thuốc đều đặn cho xã [25].
Đỗ Thuý Lan (1994), nghiên cứu "Hiệu quả chăm sóc sức khoẻ tâm thần
và phục hồi chức năng tâm lý xã hội cho BN tâm thần tại cộng đồng ở hai
phờng nội thành Hà Nội" [18].
Bùi Thế Khanh (1997), góp phần nghiên cứu điều trị, phục hồi chức
năng BNTTPL vào mạng lới y tế cơ sở [17].
24
La Đức Cơng (1999), nghiên cứu tiến triển của bệnh TTPL thể Paranoid
sau can thiệp đặc biệt (điều trị hoá dợc phối hợp với huấn luyện gia đình)
[5].
Các nghiên cứu trên cho thấy:
- Số BNTTPL không tái phát bệnh, phục hồi các chức năng sinh hoạt
và tái thích ứng với xã hội tăng cao.
- Đội ngũ cán bộ y tế cơ sở đủ khả năng, trình độ để giải quyết vấn
đề BNTTPL tại cộng đồng.
- Sự hiểu biết của cộng đồng về bệnh đợc nâng cao rõ rệt, thái độ của
cộng đồng đối với BN đợc cải thiện hơn.
- Có khả năng huy động đợc tiềm năng to lớn của cộng đồng vào
việc chăm sóc và phục hồi chức năng cho BNTTPL.
- Việc lồng ghép CSSKTT vào chăm sóc sức khoẻ ban đầu trong
mạng lới y tế chung có thể thực hiện đợc ở Việt Nam.
25