Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Điều trị bệnh vảy nến thế nào? docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.12 KB, 3 trang )

Điều trị bệnh vảy nến thế nào?

Vẩy nến là một bệnh da mạn tính do viêm. Bệnh lành tính, thường không ảnh
hưởng đến sức khoẻ nhưng tác động xấu đến thẩm mỹ, tâm lý và những hệ luỵ
khác. Tại Bệnh viện Da liễu T.Ư, bệnh nhân vảy nến da đầu chiếm hơn 60% tổng số
trường hợp điều trị nội trú. Khoảng 80% trong số đó bị tổn thương da dầu.
Dấu hiệu đặc trưng
Khi mắc vảy nến da đầu, bệnh nhân thường xuyên bị tróc vảy da đầu và khó chịu bởi
những mảng vảy nến sưng đỏ đặc trưng. Vảy nến da đầu có thể dai dẳng hơn vảy nến ở
những vùng khác trên cơ thể. Dấu hiệu đặc trưng của vảy nến da đầu là tróc vảy, sưng đỏ
từng vùng có ranh giới rõ ràng, thường ở dọc mép tóc, trên trán hoặc sau tai. Sưng đỏ và
ngứa có nhiều mức độ khác nhau. Bệnh vảy nến da đầu nếu không được điều trị sẽ
thường làm xuất hiện các miếng vảy màu trắng bạc và bóng. Ngoài ra, nếp gấp của sụn
vành tai (sau tai) cũng bị ảnh hưởng.

Tổn thương da đầu do bệnh vảy nến.
Phương pháp điều trị:
Hiện có 3 phương pháp để điều trị bệnh vảy nến, tuỳ theo mức độ mắc bệnh bác sĩ
chuyên khoa da liễu chỉ định để đạt hiệu quả trong điều trị
Thuốc uống: Các bác sĩ thường kê đơn các thuốc giúp giảm triệu chứng ngứa, lo âu,
thuốc nâng tổng trạng Thuốc đặc trị cân nhắc cho các trường hợp nặng: biến chứng
khớp, vảy nến mủ, đỏ da toàn thân Có thể kể đến như thuốc ức chế sự hình thành quá
trình miễn dịch (cyclosporin ); thuốc ức chế sự tân sinh (methotrexate ); thuốc chứa
chất vitamin A axit (tigason, soriatane) dùng cho trường hợp vảy nến kháng trị hoặc
vảy nến mủ. Các thuốc này cho kết quả tốt nhưng có tác dụng phụ, nghiêm trọng nhất là
gây quái thai nếu có mang thai trong giai đoạn dùng thuốc. Các chế phẩm sinh học chứa
chất alefacept và etanercept cũng có tác dụng tốt. Ngoài ra còn có các thuốc khác như
hydroxyurea, ester của chất axit fumaric

Thuốc bôi: Các thuốc giúp lột sừng, tiêu sừng như axit salicylic, AHA, các dẫn xuất của
retinoid (tarazotene), ure, dầu cade Thuốc bôi có chứa các chất corticoid giúp thuyên


giảm nhanh triệu chứng ngứa, đỏ. Các thuốc này nếu dùng lâu sẽ gây teo da, rậm lông,
nổi mụn, đỏ da, tăng nguy cơ bội nhiễm (vi trùng, vi nấm, siêu vi trùng) hoặc làm nặng
tình trạng bệnh Thuốc có chứa chất calcipotriol (một dẫn xuất của vitamin D) giúp ngăn
chặn sự tạo vảy, chống viêm, đưa da về trạng thái bình thường. Chất này cũng đang được
xem là chọn lựa đầu tiên cho trị liệu tại chỗ bệnh vảy nến nhưng không được thoa lên mặt
vì khả năng gây kích ứng và không được dùng cho phụ nữ có thai.
Quang và quang hoá liệu pháp: Phương pháp này dùng cho bệnh nhân vảy nến dai dẳng
hoặc người có diện tích da bệnh khá nhiều (hơn 40% diện tích cơ thể). Bệnh nhân sẽ
được chiếu tia cực tím A sau khi uống psoralen (gọi là PUVA liệu pháp) hoặc phối hợp
uống chất retinoid với liệu pháp PUVA hoặc phối hợp thoa hắc ín với chiếu tia B hoặc
chiếu tia cực tím B (UVB) đơn độc. Quang trị liệu có tác dụng ức chế quá trình phân chia
và nhân lên của các tế bào thượng bì do tác động trực tiếp của tia UVB lên nhân tế bào và
phân tử khác.
Tuy nhiên không phải ai cũng được áp dụng. Người có tiền căn nhạy cảm ánh sáng, đục
thuỷ tinh thể, suy gan thận, có các bệnh gắn liền với nguy cơ ung thư da như ngộ độc
Arsenic, có các bệnh mà phơi nắng sẽ làm nặng thêm như bệnh lupus ban đỏ, porphyrie
hoặc trẻ em dưới 12 tuổi đều không được chỉ định.
Mặc dù không làm bệnh hết hẳn nhưng việc trị liệu sẽ giúp cải thiện chất lượng sống,
thuyên giảm các biểu hiện ngoài da, giảm nguy cơ dẫn đến các biến chứng nặng nề, khó
chữa. Không những thế, trị liệu đúng cách còn giúp bệnh nhân giới hạn các tác dụng phụ
do thuốc gây ra. Phòng bệnh thường chỉ nhằm ngăn chặn sự trầm trọng hơn là ngăn bệnh
không xảy đến. Bệnh vảy nến là bệnh chưa chữa khỏi hoàn toàn. Vì vậy tìm hiểu cách
sống chung với bệnh là một việc cần thiết, giúp người bệnh có một cuộc sống thoải
mái.
Bác sĩ Bạch Sương

×