Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Hợp tác Á - Âu (ASEM)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.12 KB, 22 trang )

Hợp tác Á - Âu (ASEM)
HOÀN CẢNH RA ĐỜI
Tại Hội nghị Kinh tế Cấp cao Châu Âu - Đông Á lần thứ 3 tại Singapore tháng
10/1994, Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong đã đưa ra sáng kiến tổ chức một Hội nghị
Thượng đỉnh Á-Âu nhằm tăng cường sự hiểu biết và thúc đẩy hợp tác giữa hai châu lục. Đề
nghị này đã được chính thức đặt ra với Thủ tướng Pháp trong chuyến Thủ tướng Gôh Chôk
Tông thăm Pháp cuối năm 1994 và ngay lập tức được nhiều nước Á-Âu hưởng ứng. Tháng
3/1996, Hội nghị các Nguyên thủ Quốc gia về Hợp tác Á-Âu (Asia Europe Summit Meeting
- ASEM) lần đầu tiên được tổ chức tại Bangkok, Thái lan với sự tham gia của các Nguyên
thủ quốc gia 15 nước thuộc Liên minh Châu Âu và 10 nước Châu Á (bao gồm Nhật bản,
Trung quốc, Hàn Quốc và 7 nước ASEAN là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam). Sau Hội nghị Thượng đỉnh này, Hợp tác Á- Âu đã chính
thức ra đời và lấy tên của Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên (ASEM) làm tên cho chương trình
hợp tác này. Thực chất hiện nay ASEM là một diễn đàn đối thoại và hợp tác, cơ chế phối
hợp thông qua các nước điều phối viên và chưa có Ban thư ký điều hành. Các nước vẫn đang
tiếp tục nghiên cứu thảo luận hướng phát triển của ASEM trong thời gian tới và có khả năng
ASEM sẽ được nâng lên thành một tổ chức kinh tế khu vực giải quyết vấn đề tự do hoá
thương mại, đầu tư giữa Châu Á và Châu Âu.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, hợp tác Á-
Âu có ý nghĩa hết sức to lớn. Các nước Châu Âu thành viên ASEM đã trở thành một trung
tâm kinh tế quan trọng với việc hình thành Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) và việc sử
dụng đồng tiền chung EURO vào tháng 1/1999. Liên minh Châu Âu cũng đang đẩy nhanh
quá trình nhất thể hóa cả về chiều rộng và chiều sâu. Song song với EU, vai trò của Châu Á
ngày càng được củng cố trong hệ thống kinh tế và chính trị quốc tế với tiềm năng to lớn về
cơ hội thương mại và đầu tư. Sự liên kết giữa hai khối kinh tế lớn này thông qua ASEM sẽ
tạo ra một động lực mới thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai châu lục phát triển,
tạo nên một sức mạnh tổng hợp của của 3 khối kinh tế lớn là EU, Nhật bản và các nước
Châu Á đang phát triển. Ngoài ra, trong bối cảnh Mỹ và các nước Bắc Mỹ đã xây dựng và
đang phát triển mạnh mẽ mối quan hệ kinh tế với các nước Châu Á trong khuôn khổ Diễn
đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình dương (APEC), Châu Âu đã có liên hệ chặt chẽ với
Bắc Mỹ qua quá trình lịch sử và mạng lưới dầy đặc của những thể chế xuyên Đại Tây


dương, hợp tác ASEM còn có một ý nghĩa mang tính chất chiến lược, đó là cái cầu nối thắt
chặt hơn Châu Âu với Châu Á, tạo đối trọng trong quan hệ giữa các trung tâm kinh tế lớn là
EU - Mỹ- Nhật bản và các nước Châu Á đang phát triển.
A. MỤC TIÊU VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA ASEM
I. Mục tiêu:
Mục tiêu chủ đạo của Hợp tác Á- Âu hiện nay là Hợp tác để tạo sự tăng trưởng hơn
nữa ở cả Châu Á và Châu Âu. Mục tiêu này đã được cụ thể hoá trong Khuôn khổ Hợp tác
Á-Âu (AECF) được thông qua tại Hội nghị ASEM 1 thành các mục tiêu cơ bản sau:
- 1 -
 Thúc đẩy đối thoại chính trị để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau và
thống nhất quan điểm của hai châu lục đối với các vấn đề chính trị và xã hội
của thế giới;
 Xây dựng quan hệ đối tác một cách toàn diện và sâu rộng giữa hai châu lục Á,
Âu để thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên;
 Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, môi trường, phát triển
nguồn nhân lực để tạo sự tăng trưởng bền vững ở cả Châu Á và Châu Âu.
Về mặt kinh tế, ASEM đặt ra 3 mục tiêu cụ thể là (1) thúc đẩy giao lưu giữa các
doanh nghiệp; (2) cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư và
(3) tạo sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững. Các mục tiêu này đã và đang được thực
hiện thông qua một loạt các chương trình hợp tác của ASEM như chương trình thuận lợi hoá
thương mại (TFAP), chương trình xúc tiến đầu tư (IPAP), Diễn đàn Doanh nghiệp Á - Âu
(AEBF), trung tâm công nghệ môi trường Á-Âu, Quĩ Á-Âu (ASEF), Quĩ tín thác Trong
lĩnh vực kinh tế, tuy ASEM chưa đề ra các mục tiêu về giảm thuế và các nghĩa vụ mang tính
chất bắt buộc như các tổ chức ASEAN, WTO song 3 mục tiêu cụ thể nêu trên đã tạo nền
tảng cho việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế chặt chẽ giữa hai châu lục, góp phần tạo
thuận lợi cho giao lưu thương mại đầu tư và đóng vai trò như một chất xúc tác thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế khu vực.
II. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG:
Cũng như tất cả các diễn đàn hoặc tổ chức khu vực, ASEM hoạt động với những
nguyên tắc riêng của mình. Nguyên tắc cơ bản nhất của hợp tác ASEM là cam kết tự

nguyện, không ràng buộc và quan hệ bình đẳng giữa các thành viên. Nguyên tắc này tương
đối phổ biến ở các diễn đàn đối thoại khu vực. Đi sâu vào các lĩnh vực hợp tác, nguyên tắc
này được cụ thể hoá hơn nhằm điều chỉnh một cách sát sao quá trình hợp tác Á-Âu.
Căn cứ vào văn kiện khung của ASEM là khuôn khổ hợp tác Á-Âu (AECF), Nguyên
tắc họat động cụ thể của ASEM được qui định như sau:
 Quan hệ giữa các thành viên trên cơ sở đối tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau
và đôi bên cùng có lợi;
 ASEM sẽ là một tiến trình mở và liên tục phát triển; việc mở rộng số thành
viên phải được sự đồng thuận của nguyên thủ các quốc gia;
 Tăng cường thông tin và hiểu biết lẫn nhau thông qua đối thoại; định ra các
lĩnh vực ưu tiên phối hợp hành động;
 Triển khai hoạt động hợp tác đồng đều ở cả 3 lĩnh vực: tăng cường đối thoại
chính trị, củng cố hợp tác kinh tế và xúc tiến hợp tác trong các lĩnh vực khác;
 ASEM sẽ được duy trì như một tiến trình tự nguyện, không thể chế hoá, hoạt
động của ASEM sẽ nhằm hỗ trợ và tạo thuận lợi cho các hoạt động ở các diễn
đàn quốc tế khác;
 Xúc tiến đối thoại và hợp tác giữa các doanh nghiệp và cư dân giữa hai khu
vực; khuyến khích hợp tác giữa các học giả, các nhà nghiên cứu giữa hai khu
vực.
- 2 -
B. Cơ chế hoạt động
Bản chất của hợp tác ASEM là một diễn đàn đối thoại và hợp tác, hoạt động bổ
trợ cho các tổ chức hoặc diễn đàn đa phương khác (ví dụ như xúc tiến đối thoại giữa các
thành viên ASEM về các vấn đề của Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, các vấn
đề nổi cộm của kinh tế thương mại toàn cầu và khu vực v.v nhằm đạt được sự đồng thuận
và quan điểm chung của các thành viên ASEM trong các diễn đàn đa phương nêu trên).
Ngoài ra, hoạt động của ASEM cũng có đặc trưng là hoạt động đối thoại cấp cao, theo đó
mọi vấn đề cơ bản của ASEM sẽ được thảo luận và thông qua tại Hội nghị cấp cao (Hội nghị
Thượng đỉnh). Các hội nghị cấp thấp hơn sẽ thực hiện hoặc điều phối thực hiện các quyết
định đã được đưa ra tại bởi các nguyên thủ quốc gia tại Hội nghị Thượng đỉnh.

Với đặc điểm nêu trên, hợp tác ASEM hiện nay chưa được thể chế hoá. Các hoạt
động hợp tác được tổ chức thông qua hai nước điều phối viên châu Á và hai nước điều phối
viên châu Âu với nhiệm kỳ 2 năm (hiện nay Trung Quốc và Việt Nam là các điều phối viên
phía châu Á; nước Chủ tịch Uỷ ban châu Âu (EC) và EC là điều phối viên phía châu Âu).
Các nước điều phối viên nhóm họp khi cần thiết (thông thường 2-3 lần mỗi năm) thông qua
các nhóm công tác chuyên về từng lĩnh vực chính trị hoặc kinh tế. Cơ quan điều phối hợp tác
ASEM tại mỗi quốc gia là Bộ Ngoại giao. Có thể khi hợp tác ASEM đi vào chiều sâu,
ASEM sẽ được cơ cấu lại với các ban và nhóm công tác hoàn chỉnh.
Hiện tại, các kênh hội nghị chính của ASEM bao gồm:
* Hội nghị Thượng đỉnh (ASEM)
* Hội nghị cấp Bộ trưởng
* Hội nghị quan chức cao cấp ngoại giao (SOM)
* Hội nghị quan chức cao cấp Thương mại và Đầu tư (SOMTI)
* Hội nghị Thứ trưởng Tài chính
* Hội nghị Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ, Môi trường
* Diễn đàn doanh nghiệp Á-Âu (AEBF)
Ngoài các kênh hội nghị chính nêu trên, ASEM còn có các nhóm công tác ở cấp
chuyên viên để giải quyết những vấn đề kỹ thuật cụ thể của các chương trình hợp tác
ASEM. Hiên nay ASEM đang có các nhóm công tác sau:
- Các nhóm công tác hoạt động theo khuôn khổ của Chương trình thuận lợi hoá
Thương mại TFAP như nhóm về tiêu chuẩn chất lượng, thủ tục hải quan, bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ (IPR), kiểm dịch (SPS), mua sắm chính phủ v.v
- Nhóm chuyên gia về đầu tư (IEG) hoạt động trong khuôn khổ Chương trình Xúc
tiến Đầu tư (IPAP)
- Một số các cuộc họp trong lĩnh vực văn hoá xã hội như các diễn đàn về các Nhà
Lãnh đạo trẻ, bảo tồn di sản văn hoá, phúc lợi trẻ em v.v
- Các hoạt động giao lưu văn hoá và trí thức trong khuôn khổ Quỹ Á-Âu (ASEF).
Dưới đây là một số nét chính về các Hội nghị trên
- 3 -
1. Hội nghị Thượng đỉnh (ASEM): được tổ chức hai năm một lần để bàn về các vấn đề

chiến lược của ASEM và phê chuẩn các chương trình hợp tác.
1.1. Hội nghị Thượng đỉnh ASEM I: được tổ chức vào ngày 1-2/3/1996 tại Bangkok (Thái
Lan). Hội nghị đã chính thức thành lập diễn đàn ASEM và bước đầu định ra phương hướng,
đường lối và một số nguyên tắc cơ bản điều tiết hoạt động của diễn đàn này.
1.2. Hội nghị Thượng đỉnh ASEM II: được tổ chức vào 3-4/4/1998 tại London (Anh) trong
bối cảnh kinh tế Châu Á đang bị khủng hoảng trầm trọng. Ngoài các chủ đề thảo luận sâu
rộng về chính trị, tài chính, Hội nghị đã đặt cơ sở cho quan hệ đối tác lâu dài giữa hai châu
lục đi vào thế kỷ 21 với việc thông qua 6 văn kiện quan trọng:
- "Khuôn khổ hợp tác Á - Âu" là cơ chế khung để điều phối và định hướng các hoạt động
hợp tác ASEM. Khuôn khổ này bao gồm mục tiêu, nguyên tắc hoạt động và các lĩnh vực
ưu tiên của hợp tác Á-Âu. Trong khuôn khổ này, các nội dung ưu tiên của hợp tác
ASEM được đề ra trong 3 lĩnh vực chính trị, kinh tế tài chính và văn hoá xã hội là: (1)
đối thoại chính trị, trong đó tập trung vào các vấn đề như cải tổ Liên hợp quốc, các vấn
đề an ninh thế giới và khu vực, qui tắc ứng xử chung, giải trừ quân bị; (2) Hợp tác kinh
tế và tài chính, trong đó tập trung các vấn đề như cải tiện môi trường kinh doanh, đóng
góp của ASEM vào việc thực hiện WTO, triển khai TFAP, IPAP, AEBF, chống rửa tiền,
đối thoại chính sách tài chính v.v ; (3) Hợp tác văn hoá xã hội sẽ tập trung vào các lĩnh
vực như liên kết trao đổi học giả, sinh viên, giao lưu văn hoá, hợp tác xây dựng cơ sở hạ
tầng v.v
- Hiện nay, ASEM đang hoàn chỉnh bản Khuôn khổ này thành “Khuôn khổ hợp tác Á-Âu
toàn diện” để sử dụng như một công cụ chính thức nhằm điều phối có hiệu quả hợp tác
ASEM.
- "Chương trình hành động Thuận lợi hoá thương mại" (TFAP)
- "Chương trình hành động xúc tiến đầu tư" (IPAP)
- Thành lập "Nhóm Chuyên gia về đầu tư (IEG),
- Thành lập "Nhóm Viễn cảnh Á - Âu"
- Thành lập "Trung tâm Công nghệ Môi trường Á - Âu" tại Thái Lan.
Hội nghị cũng thông qua Chương trình công tác ASEM 1998-2000 và một số các
sáng kiến hợp tác mới do các nước đưa ra, trong đó có 2 sáng kiến của Việt nam về bảo tồn
di sản văn hoá và kết hợp chữa bệnh bằng Đông-Tây y.

1.3. Hội nghị ASEM III đã được tổ chức vào tháng 10/2000 tại Seoul, Hàn Quốc. Với tiêu
chí tăng cường quan hệ đối tác để tăng trưởng trong giai đoạn mới và khẳng định vị trí tiên
phong của ASEM đối với các vấn đề toàn cầu của thế kỷ 21, Hội nghị đã đưa ra một quyết
tâm chung là: “ Tăng cường hợp tác ASEM một cách toàn diện để đạt được sự thịnh vượng
chung trong khu vực Á - Âu” và đặt ra một loạt các vấn đề ưu tiên giải quyết là phát triển
kinh tế tri thức, công nghệ thông tin, giải quyết khoảng cách công nghệ số, phát triển các
lĩnh vực công nghệ cao
2. Các hội nghị cấp Bộ trưởng: họp 2 năm 1 lần
2.1. Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao (FMM): chịu trách nhiệm xử lý, theo dõi các vấn đề về
chính trị và xã hội, điều phối công tác chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh ASEM thông qua
Hội nghị các quan chức cấp cao (SOM).
- 4 -
* Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ nhất (FMM 1) được tổ chức 2/1997 tại Singapore
để thông qua một số vấn đề về hợp tác an ninh, chính trị và văn hoá của ASEM, chuẩn bị
cho Hội nghị Thượng đỉnh ASEM II.
* Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ hai (FMM 2) được tổ chức 3/1999 tại Berlin thảo
luận các vấn đề xoay quanh cuộc khủng hoảng và thông qua "Chương trình hành động
ASEM đến năm 2000"
2.2. Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế (EMM): là diễn đàn để theo dõi việc thực hiện các hoạt
động hợp tác kinh tế Á - Âu, xem xét và có thể thông qua những đề xuất hợp tác mới, trực
tiếp báo cáo các vấn đề kinh tế lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEM.
* Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ nhất (EMM 1) đã được tổ chức vào tháng
9/1997 tại Makuhari, Nhật bản. Hội nghị đã thông qua 3 văn kiện cơ bản của hợp tác kinh tế
ASEM để trình lên Hội nghị cấp cao ASEM II là Khuôn khổ hợp tác kinh tế ASEM (AECF),
Chương trình hành động thuận lợi hoá thương mại (TFAP) và Chương trình hành động xúc
tiến đầu tư (IPAP).
* Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ hai (EMM 2) được tổ chức tại Berlin vào
10/1999. Nét nổi bật của Hội nghị lần này là sự tập trung của ASEM đối với các vấn đề của
Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Seatte, Mỹ. ASEM đã thảo luậ sâu và cố gắng thống nhất quan
điểm chung đối với các vấn đề của chương trình nghị sự WTO như vấn đề trợ cấp nông

nghiệp, thương mại và môi trường, thương mại điện tử, tiêu chuẩn lao động v.v Điều này
lại một lần nữa thể hiện đặc trưng của diễn đàn ASEM là đối thoại để hỗ trợ, bổ sung cho
các diễn đàn đa phương khác. Thông qua Hội nghị Bô trưởng EMM lần này, các thành viên
phát triển và đang phát triển của ASEM đã có một cái nhìn xích lại gần nhau hơn đối với các
vấn đề của WTO, tạo điều kiện cho các vấn đề của WTO được tiến triển nhanh chóng, thuận
lợi hơn.
* Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ ba (EMM 3) đã được tổ chức tại Hà Nội vào
9/2001 đã thảo luận những biện pháp thúc đẩy hơn nữa thương mại và đầu tư giữa châu Á
và châu Âu, tăng cường hợp tác ASEM trong những ngành công nghiệp sử dụng công nghệ
cao. Các chương trình hợp tác về thương mại và đầu tư hiện nay đã được rà soát lại để tìm
giải pháp nâng cao tính hiệu quả, hướng tới những kết quả thiết thực cho cộng đồng doanh
nghiệp ASEM, tập trung giải quyết rào cản thương mại và đầu tư giữa các nước trong khu
vực.
Ngoài ra, một nét quan trọng khác của Hội nghị Bộ trưởng EMM lần này là định
hướng lại các hoạt động kinh tế của ASEM theo đúng các mục tiêu và chỉ đạo của các
Nguyên thủ quốc gia, trong đó có định hướng quan trọng đối với việc thực hiện Kế hoạch
TFAP là ưu tiên xác định và giải toả những hàng rào phi thuế trong thương mại và đầu tư
giữa hai khu vực. Hiện nay ASEM đã cơ bản xác định một cách toàn diện các rào cản đối
với thương mại và đầu tư giưã các thành viên, đặc biệt là các rào cản về mặt luật pháp, các
rào cản dưới dạng các qui định về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm dịch động thực vật, bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, thủ tục hải quan, kinh tiêu sản phẩm trên thị trường nội địa
1
v.v Các
nhóm công tác của ASEM sẽ tiếp tục bàn thảo các kế hoạch hành động nhằm từng bước giải
toả các rào cản nêu trên.
2.3. Hội nghị Bộ trưởng Tài Chính: thảo luận các vấn đề về tài chính trong khu vực, xây
dựng các chương trình hợp tác về quản lý tài chính, chống rửa tiền
1
Xin xem chi tiết ở phụ lục 4
- 5 -

* Hội nghị Bộ trưởng Tài chính lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 9/1997 tại Bangkok.
Nội dung thảo luận chủ yếu tập trung vào vấn đề khủng hoảng tài chính ở châu Á, vai trò tài
trợ của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), EU và các hình thức để củng
cố hệ thống tiền tệ thế giới, chống nạn rửa tiền.
* Hội nghị Bộ trưởng Tài chính lần thứ hai được tổ chức vào tháng 1/1999 tại
Frankfurt/Main (CHLB Đức) đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và
việc lưu hành đồng EURO.
2.4. Hội nghị Bộ trưởng Khoa học - Công nghệ và Môi trường (S&TMM): thảo luận và
thông qua các chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Hội nghị Bộ trưởng khoa học và công nghệ lần thứ nhất tại Bắc kinh vào tháng 10/1999 đã
thông qua 11 dự án hợp tác khoa học tập trung vào 4 lĩnh vực: nghiên cứu phát triển nguồn
lực, nông nghiệp, môi trường và nâng cao năng lực khoa học công nghệ của các doanh
nghiệp.
1
3. Các hội nghị quan chức cao cấp
3.1. Hội nghị Quan chức cao cấp Ngoại giao (SOM): nhiệm vụ chính của SOM là bàn luận
các vấn đề về đối thoại chính trị, hợp tác văn hóa, xã hội của ASEM, xây dựng các chương
trình hành động trong các lĩnh vực trên để báo cáo các Bộ trưởng Ngoại giao.
3.2. Hội nghị các Quan chức về Thương mại và Đầu tư (SOMTI) là nơi tiếp nhận xử lý các
vấn đề về hợp tác kinh tế được triển khai thực hiện ở các nhóm chuyên môn và các ngành
kinh tế khác, trên cơ sở đó tổng hợp và có báo cáo, khuyến nghị lên EMM.
3.3. Hội nghị các Tổng Cục trưởng Hải Quan: Họp 2 năm một lần và báo cáo kết quả lên
SOMTI. Hội nghị này chủ yếu đi sâu về các vấn đề hợp tác hải quan, đơn giản hoá, hài hoà
hoá thủ tục hải quan và chống buôn lậu, chống nạn rửa tiền và buôn bán ma tuý.
4. hội nghị cấp chuyên viên
Hội nghị Cấp cao ASEM II đã nhất trí thành lập Nhóm Chuyên gia về Đầu tư (IEG) với
chức năng hoạt động như một nhóm công tác nhằm điều phối và triển khai các hoạt động
trong khuôn khổ Chương trình Hành động Xúc tiến Đầu tư (IPAP). Nhiệm kỳ của IEG ban
đầu là 2 năm. Tuy nhiên, do hoạt động điều phối có hiệu quả của IEG, Hội nghị Bộ trưởng
Kinh tế lần thứ 3 họp tại Hà Nội, tháng 9/2003 vừa qua đã quyết định gia hạn thời hạn hoạt

động của IEG thêm 2 năm nữa.
5. các hoạt động chủ yếu khác
Một số cơ quan hoặc chương trình hoạt động đã được thiết lập theo quyết định của các
nguyên thủ nhằm tăng cường hiểu biết, hợp tác và giao lưu giữa doanh nhân hai khu vực.
5.1. Quỹ Á - Âu (ASEF) là một quỹ tài trợ phi lợi nhuận đặt tại Singapore nhằm xúc tiến
giao lưu Á - Âu trong các lĩnh vực văn hoá - xã hội. Được thiết lập năm 1997 từ các nguồn
đóng góp tự nguyện của các nước thành viên ASEM, ASEF đã tổ chức được một số lượng
đáng kể các hội thảo và hội nghị chuyên đề trong các lĩnh vực này. Tổng vốn đóng góp vào
quỹ khoảng 25 triệu USD.
5.2. Trung tâm Công nghệ - Môi trường Á - Âu (AEETC) thành lập năm 1999, đặt tại Băng
cốc với nhiệm vụ xúc tiến hợp tác Á - Âu trong một số vấn đề thiết yếu về môi trường. Ngân
sách hoạt động của Trung tâm khoảng 6 triệu USD do các quốc gia thành viên đóng góp.
1
Xem Phụ lục 2.
- 6 -
5.3. Quỹ tín thác ASEM do Ngân hàng thế giới (WB) quản lý nhằm cung cấp tài chính cho
các chương trình trợ giúp kỹ thuật và đào tạo về các lĩnh vực xã hội và tài chính cho các
quốc gia châu Á bị tác động bởi khủng hoảng tài chính tiền tệ. Được thành lập năm 1998 và
hoạt động trong 2 năm, Quỹ đã thu hút được 42 triệu EURO vốn đóng góp từ các thành
viên. Hiện Việt nam được tài trợ 3 chương trình từ nguồn vốn của Quỹ là "Cải cách và phát
triển hệ thống ngân hàng", "Tạo việc làm và chương trình mạng lưới an toàn xã hội" và "Đẩy
nhanh tiến độ cổ phần hoá và thương mại hoá các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành vận
tải".
5.4. Diễn đàn doanh nghiệp ASEM (AEBF) được tổ chức định kỳ hàng năm để tập hợp các
doanh nghiệp có tầm cỡ trong mọi lĩnh vực để trao đổi, học hỏi kinh doanh lẫn nhau và tổng
hợp ý kiến đề xuất lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEM. Từ ngày thành lập, ASEM đã tổ chức
6 Diễn đàn Doanh nghiệp. Lần thứ nhất vào tháng 12/1996 tại Paris, lần thứ hai 11/1997 tại
Bangkok; lần thứ 3 vào tháng 4/1998 tại Luân đôn (tổ chức song song với Hội nghị Thượng
đỉnh ASEM 2); lần thứ 4 vào tháng 9/1999 tại Seoul, Hàn quốc. AEBF 5 đã được tổ chức
vào tháng 9/2000 tại Viên, áo. AEBF 6 đã được tổ chức tại Singapo vào 10/2001. AEBF 7

sẽ được tổ chức tại Đan Mạch vào 9/2002.
C. HỢP TÁC KINH TẾ ASEM
I. Mục tiêu và nguyên tắc của hợp tác kinh tế
1. Mục tiêu
Ngoài các mục tiêu chung như đã đề cập ở trên, hợp tác kinh tế ASEM chú trọng vào
các mục tiêu sau:
- Đẩy mạnh quan hệ đối tác giữa các doanh nghiệp của hai khu vực và quan hệ
giữa giới doanh nghiệp với các Chính phủ trong quá trình xây dựng và triển khai
các chương trình hợp tác của ASEM;
- Cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp trong hai khu vực;
- Tạo ra sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bên vững thông qua các chương trình
hợp tác công nghiệp, năng lượng và môi trường nhằm tạo thuận lợi cho thương
mại và đầu tư giữa các nước thành viên, đẩy mạnh quan hệ đối tác giữa các
doanh nghiệp của hai khu vực; tạo ra sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững
thông qua các chương trình hợp tác công nghiệp, năng lượng và môi trường.
2. Nguyên tắc
Các chương trình hợp tác kinh tế được xây dựng trên các nguyên tắc:
 Các nước thành viên ASEM đều phải thực hiện cải cách kinh tế và thực hiện nền
kinh tế thị trường;
 Các hoạt động kinh tế sẽ dựa trên nền tảng các nguyên tắc của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO);
 Tự do hoá thương mại trên cơ sở không phân biệt đối xử; hợp tác trên cơ sở bạn
hàng bình đẳng, có lưu ý đến sự đa dạng về kinh tế trong nội bộ và giữa châu Á
và châu Âu;
 Thực hiện minh bạch hoá các luật lệ chính sách hiện hành
- 7 -
 Tăng cường sự phối hợp giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư
nhân. Tạo cơ chế hỗ trợ về tài chính, tiếp cận thị trường, nghiên cứu khoa học
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là những
nhân tố quan trọng cho sự phát triển năng động nền kinh tế.

II. Lĩnh vực hợp tác
Hiện nay hợp tác kinh tế ASEM đặt ra mục tiêu hàng đầu là tăng cường thương mại
và đầu tư giữa hai khu vực. Một số chương trình cụ thể đã được thông qua nhằm thúc đẩy
giao lưu và hợp tác giữa các doanh nghiệp, cải thiện các điều kiện thương mại và đầu tư.
1. Thuận lợi hoá thương mại
Khuôn khổ chung cho Chương trình hành động thuận lợi hoá thương mại (TFAP) đã
được các Nguyên thủ quốc gia thông qua tại ASEM II.
Đây là chương trình trụ cột của hợp tác ASEM hiện nay. Mục tiêu chính của TFAP
là tạo thuận lợi cho việc trao đổi thương mại hàng hóa, dịch vụ giữa hai khu vực. Để thực
hiện mục tiêu này, TFAP được xây dựng như một chất xúc tác và một khuôn khổ chung để
các nước thực hiện minh bạch hóa chính sách quản lý thương mại và hài hòa, đơn giản hóa
các thủ tục hành chính liên quan đến thương mại. Ngoài 8 lĩnh vực ưu tiên hành động là: tiêu
chuẩn và đánh giá sự phù hợp; vệ sinh dịch tễ; thủ tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, mua
sắm chính phủ, phân phối lưu thông, đi lại của doanh nhân và thương mại điện tử. TFAP
hiện nay đang tập trung xác định các rào cản (NTBs) trong thương mại giữa các nước
ASEM để từ đó có cơ chế đối thoại/hành động nhằm giải tỏa dần những cản trở này.
Nguyên tắc của TFAP là không phân biệt đối xử, các kết quả của TFAP sẽ được áp
dụng đối với các nước thành viên và cả những nước không phải là thành viên (tuy nhiên trên
thực tế các nước không phải là thành viên hầu như không tiếp cận được những thành quả của
các tiến trình ASEM). Đồng thời, hoạt động của TFAP phải phù hợp, hỗ trợ và thúc đẩy
những hoạt động thuận lợi hoá thương mại song phương và đa phương khác đã và đang
được tiến hành, trong đó ưu tiên tập trung vào những lĩnh vực chưa được giải quyết thoả
đáng trong các diễn đàn trên theo một cách tiếp cận riêng, có hiệu quả nhất. TFAP đặc biệt
khuyến khích sự tham gia của giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
coi đây là động lực chính của chương trình này.
Một số kết quả cụ thể trong việc triển khai TFAP hiện nay như sau:
a. Đơn giản hóa và minh bạch hóa các yêu cầu kiểm dịch động thực vật
Mục tiêu chính của lĩnh vực này là:
- Thực hiện Hiệp định về Các biện pháp vệ sinh dịch tễ của WTO;
- Biên soạn các thông lệ tốt nhất liên quan đến các chính sách và các biện pháp

hướng dẫn thực hiện các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực này;
- Tăng cường tính minh bạch trong lĩnh vực cách ly và vệ sinh dịch tễ trong đó có
các thủ tục kiểm tra và xét duyệt, các yêu cầu về cách ly và thời gian kiểm tra
thông thường
- Tổ chức các hội thảo về đơn giản hóa và hài hòa hóa các thủ tục cách ly và vệ
sinh dịch tễ.
Để triển khai các nội dung hợp tác trên, hội thảo lần thứ nhất và thứ 2 về Thủ tục
kiểm dịch và Vệ sinh thực phẩm đã được tổ chức chức tại Chiềng mai (Thái lan) vào tháng
2/1999 và tại Trung quốc tháng 10/1999. Hội thảo đã nhất trí về tầm quan trọng của công
tác vệ sinh kiểm dịch trong buôn bán quốc tế các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp, nhất trí
- 8 -
về nhu cầu trao đổi địa chỉ liên hệ về vấn đề SPS giữa các thành viên ASEM, đồng thời
khuyến khích thành lập kênh thông tin trên mạng Internet để trao đổi thông tin về những vấn
đề có liên quan đến SPS. Hội thảo cũng đồng ý khuyến khích hoạt động hợp tác kỹ thuật như
đánh giá dịch hại đồng ruộng giữa các nước thành viên ASEM để cải thiện cơ sở dữ liệu;
đồng thời khuyến khích hợp tác kỹ thuật khu vực và song phương để rút ra bài học bổ ích về
hợp tác giữa các nước thành viên ASEM.
b. Đơn giản hóa và hài hòa hóa các thủ tục hải quan
Mục tiêu chính của hợp tác hải quan trong ASEM là:
- hài hòa hóa danh bạ thuế quan theo các tiêu chuẩn của WTO;
- Thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định về Định giá hải quan;
- Thực hiện hợp tác và trợ giúp lẫn nhau trong lĩnh vực hải quan;
- Tăng cường tính minh bạch thông qua việc tiếp cận đối với các cơ sở dữ liệu của
các thành viên ASEM như thuế hải quan, danh bạ thuế quan, hạn ngạch thuế
quan các thủ tục xuất nhập khẩu, quy tắc xuất xứ, luật hải quan;
- Tổ chức các hội thảo ASEM cho các đại diện hải quan và giới doanh nghiệp về
các vấn dề như đánh gía rủi ro, trao đổi các thông tin điện tử, thương mại phi
giấy tờ;
- Tăng cường tính dự đoán trước được cho giới doanh nghiệp thông qua việc thông
báo các quy định và thủ tục hải quan hiện hành;

- V.v. . .
Nhằm triển khai các nội dung này, hội thảo về Thủ tục Hải quan và Cuộc họp Nhóm
công tác về Thủ tục hải quan được tổ chức tại Manila, Philipin vào tháng 2/1999. Chủ đề
chính của Hội thảo về Thủ tục hải quan tập trung vào việc làm rõ vai trò của Hải quan với
cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời cũng khẳng định là cần thiết phải hợp tác chặt chẽ giữa
cơ quan hải quan với các doanh nghiệp nhằm mục tiêu đơn giản hóa thủ tục hải quan, hài
hòa thủ tục hải quan giữa các nước ASEM, tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động của thương
mại giữa hai khu vực.
Cuộc họp Nhóm công tác về Thủ tục hải quan đã đi đến sự nhất trí rằng các cơ quan
hải quan ASEM phải cố gắng thông qua các nguyên tắc của Công ước Kyoto sửa đổi ở cấp
quốc gia về kỹ thuật thông tin và thương mại điện tử. Trong xu thế thương mại điện tử đang
phát triển mạnh mẽ trên thế giới, Hải quan các nước ASEM đang được khuyến nghị giới
thiệu hệ thống thông quan điện tử ở cấp quốc gia phù hợp với môi trường riêng biệt của từng
quốc gia và trên cơ sở hệ thống điện tín liên hợp quốc EDIFACT.
c. Tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp
Mục tiêu chính của lĩnh vực hoạt động này là:
- Tăng cường hiểu biết lẫn nhau về các hệ thống thử nghiệm, chứng nhận hài hòa
của các thành viên;
- Hài hòa hóa các tiêu chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế;
- Xác định các lĩnh vực hợp tác ưu tiên nhằm đạt được các hiệp định về thừa nhận
lẫn nhau;
- Hợp tác trong việc tăng cường xây dựng năng lực về xây dựng các tiêu chuẩn kỹ
thuật, việc thực hiện kiểm tra, chứng nhận, trao đổi thông tin và tăng cường các
chương trình hợp tác trong lĩnh vực này;
- V.v. . .
Cho đến nay, các Hội thảo về tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp đã tập trung thảo
- 9 -
luận 4 chủ đề chính là: Các quy chế xây dựng văn bản pháp quy tốt, phù hợp với các tiêu
chuẩn quốc tế, các hiệp định về thừa nhận lẫn nhau (MRAs) và hợp tác kỹ thuật. ASEM
nhấn mạnh sự cần thiết phải đạt được sự hiểu biết sâu sắc hơn về các hệ thống tiêu chuẩn và

đánh giá sự phù hợp của mỗi thành viên. Các thành viên đã thống nhất chọn 5 lĩnh vực ưu
tiên ban đầu để thực hiện hài hòa hóa với các tiêu chuẩn quốc tế: thiết bị điện và điện tử, bao
gồm cả các yêu cầu về tương thích điện từ; máy móc thiết bị; thiết bị viễn thông, bao gồm cả
các yêu cầu về tương thích điện từ; sản phẩm cao su; thiết bị y tế.
d. Quyền sở hữu trí tuệ
Mục tiêu chính trong lĩnh vực hoạt động này là:
- Tăng cường đối thoại các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ nhằm tăng cường việc
áp dụng các quy định về sở hữu trí tuệ đối với cả khu vực công cộng lẫn khu vực
doanh nghiệp;
- Tăng cường việc thực hiện đầy đủ Hiệp định TRIPS của WTO;
Nhằm mục tiêu này, hội thảo về Quyền sở hữu trí tuệ đã được tổ chức tại Paris,
Pháp từ vào tháng 6/1999 đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường hợp tác trong việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ như hoạt động hành chính gồm có hải quan, công an và toà án.
Đại diện của giới tư nhân cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ đối với các chiến lược đầu tư ra nước ngoài của họ. Hội thảo cũng nhấn mạnh rằng cần
có sự hiểu biết tốt hơn nữa đối với luật và các quy định của các thành viên ASEM về quyền
sở hữu trí tuệ.
e. Mua sắm Chính phủ
Mục tiêu chính trong lĩnh vực này là:
- Trao đổi thông tin về các thủ tục mua sắm chính phủ của các thành viên và thông
tin về vấn đề này cho giới doanh nghiệp;
- Xác định các cơ sở dữ liệu về mua sắm chính phủ của các thành viên ASEM;
- Tổ chức các hội thảo về mua sắm chính phủ.
Hội thảo lần thứ nhất về Mua sắm Chính phủ được tổ chức tại Berlin, CHLB Đức từ
vào tháng 9/1999. Hội thảo đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới các hình thức
công nghệ thông tin và truyền thông để tăng cường tính minh bạch đối với các thị trường
mua sắm và để tăng cường tính hiệu quả của các công ty được nhận hợp đồng. Hội thảo
cũng thảo luận về các vấn đề liên quan đến việc tăng cường Hiệp định về mua sắm Chính
phủ của WTO và việc chuẩn bị cho hiệp định minh bạch hóa riêng biệt trong việc đạt được
các hợp đồng mua sắm để đảm bảo cạnh tranh không bị bóp méo và không phân biệt đối xử.

Tuy nhiên, các thành viên phát triển và đang phát triển cũng bất đồng quan điểm về việc
“các quy tắc minh bạch hóa” phải được hiểu như thế nào, mức độ hài hòa hóa các quy tắc
này sẽ được thực hiện như thế và quy mô của hiệp định này đến đâu.
2. Chương trình hành động xúc tiến đầu tư (IPAP)
Mục tiêu của IPAP là xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi để gia tăng dòng vốn
đầu tư hai chiều giữa châu Á và châu Âu, xây dựng các chương trình nhằm khuyếch trương
đầu tư giữa các nước thành viên đồng thời tăng cường cải thiện cơ chế, chính sách và quy
định về đầu tư trong khu vực. IPAP cũng nhằm kết nối chặt chẽ hơn các khu vực kinh tế tư
nhân và giữa khu vực kinh tế tư nhân với chính phủ các nước ASEM nhằm đem lại lợi ích
cho cả hai bên.
- 10 -
Chương trình IPAP sẽ được thực hiện trên nguyên tắc đảm bảo đối thoại thường
xuyên giữa khu vực nhà nước và tư nhân; phát triển hợp tác ở tất cả các lĩnh vực liên quan
tới đầu tư ASEM theo hướng kinh tế thị trường; không phân biệt đối xử và thực hiện minh
bạch hoá các chính sách thương mại và đầu tư theo đúng các nguyên tắc của WTO.
Chương trình IPAP gồm hai nội dung chính: "Xúc tiến đầu tư" và "Các chính sách và
quy định về đầu tư".
Phần 1 - Xúc tiến Đầu tư
Công tác xúc tiến đầu tư của IPAP sẽ bao gồm các hoạt động sau:
- Trao đổi thông tin và đáp ứng các nhu cầu thông tin của giới đầu tư;
- Tổ chức các hội nghị bàn tròn các nhà hoạch định chính sách đầu tư và đại diện
các doanh nghiệp lớn của 2 khu vực để thảo luận và tìm giải pháp cho các vấn đề
về đầu tư, thúc đẩy cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp trong hai khu vực;
- Chương trình trao đổi giữa các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp của ASEM nhằm
tăng cường sự hiểu biết về nền văn hoá giữa các nước.
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế Á-Âu lần thứ hai tại Berlin vừa qua đã thông qua danh
mục không bắt buộc một số biện pháp được đánh giá là có hiệu quả nhất trong việc thu hút
đầu tư nước ngoài.
1
Phần 2 - Các chính sách và quy định về đầu tư

Hoạt động chính trong phần này là tổ chức các cuộc đối thoại cấp cao để bàn về các
vấn đề then chốt liên quan đến khuôn khổ pháp lý và các chính sách điều chỉnh môi trường
đầu tư.
Những hoạt động cụ thể triển khai trong khuôn khổ IPAP có tính đến sự khác biệt về
quy chế đầu tư giữa các nước thành viên, trong đó việc đầu tư vào các dự án phát triển cơ sở
hạ tầng sẽ là vấn đề được ưu tiên.
Cho đến nay, các kết quả đã đạt được trong việc thực hiện IPAP là:
(i) Phát động Hệ thống trao đổi thông tin trên mạng Internet (VIE) để trao đổi thông
tin và tăng cường tính minh bạch của các quy định về đầu tư;
Mục đích của mạng thông tin này là để trao đổi thông tin liên quan đến đầu tư của các
thành viên ASEM (trong đó có các thông tin cập nhập về khuôn khổ pháp lý, các chương
trình khuyến khích và xúc tiến đầu tư, dữ liệu và các dòng luân chuyển ra và vào của FDI,
tổng quan về các hiệp định đầu tư quốc tế mà nước mình là bên tham gia, hướng dẫn thực tế
cho các nhà đầu tư, việc kết nối với các mạng liên quan khác và các dữ liệu kinh tế vi mô và
vĩ mô cơ bản).
(ii) Danh sách các biện pháp hiệu quả nhất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài:
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ 2 (EMM 2) đã thông qua danh mục các
biện pháp được đánh giá là có hiệu quả nhất trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên
do đây là các biện pháp được tập hợp từ ý kiến của nhiều nước nên có những biện pháp phù
hợp với nước ngày những nước khác lại thấy không phù hợp với họ. Vì thế EMM2 thống
nhất rằng danh mục này là “không ràng buộc”. Hội nghị thống nhất rằng các thành viên
ASEM sẽ tự nguyện báo cáo hàng năm cho SOMTI những tiến triển đã làm được trong việc
thực hiện các biện pháp trong danh mục này cũng như các biện pháp khác để cải thiện môi
trường đầu tư.
1
Xem phụ lục 3
- 11 -
Danh sách các biện pháp có hiệu quả nhất trong việc xúc tiến đầu tư được nêu trong
phần phụ lục kèm theo.
3. Xúc tiến hợp tác tương hỗ giữa các doanh nghiệp

Trong khuôn khổ chương trình này, Diễn đàn Doanh nghiệp Á- âu là hoạt động định
kỳ được tổ chức hàng năm nhằm tăng cường cơ hội cho các doanh nghiệp gặp gỡ và trao
đổi ý kiến. Đồng thời đại diện của các doanh nghiệp cũng được mời tham gia các Hội nghị
Bộ trưởng kinh tế hoặc Hội nghị thượng đỉnh để tăng cường đối thoại kinh tế giữa các doanh
nghiệp và các Chính phủ.
Từ ngày thành lập đến nay, ASEM đã tổ chức 6 kỳ Diễn đàn doanh nghiệp và 1 Hội
nghị doanh nghiệp. Diễn đàn doanh nghiệp đã và đang tập trung vào các lĩnh vực bức xúc
đối với cả hai khu vực: hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, du lịch, xúc tiến thương mại, đầu
tư, phát triển cơ sở hạ tầng, năng lượng, dịch vụ tài chính, giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông và nguồn nước tiêu dùng. Hiện nay, các đại diện doanh nghiệp đã thảo luận, thống kê
các vấn đề trở ngại trong việc kinh doanh và đầu tư vào các lĩnh vực trên và đưa ra các
khuyến nghị cụ thể đệ trình Chính phủ các nước.
Diễn đàn doanh nghiệp là hoạt động rất thiết thực trong ASEM, không những góp
phần làm giải tỏa những rào cản thương mại và đầu tư trong khu vực mà còn tạo điều kiện
để các doanh nghiệp Á-Âu gặp gỡ, xúc tiến cơ hội kinh doanh và đầu tư. Đối với các nước
đang phát triển hoặc các nước mới tham gia hội nhập kinh tế quốc tế như Việt nam. Diễn
đàn doanh nghiệp còn có ý nghĩa giúp các doanh nghiệp của ta nắm bắt tốt hơn các thông tin
thị trường và xu hướng phát triển trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của mình.
Cũng nhằm mục tiêu hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp, ASEM đã nhất trí thành
lập Mạng thông tin ASEM (ASEM Connect). Trước mắt, mạng này sẽ bao gồm các trang
thông tin (homepage) của các nước ASEM về các vấn đề sau:
- Danh bạ doanh nghiệp;
- Danh sách các công ty tư vấn kinh doanh;
- Các thông tin về bộ máy và cơ chế quản lý kinh tế của Chính phủ
- Chương trình các sự kiện nổi bật trong năm
- Các thông tin kinh tế khác.
Hiện tại Việt nam đang nghiên cứu để sớm tham gia vào mạng ASEM Connect.
4. Viễn cảnh ASEM
Theo quyết định của các Nguyên thủ các nước ASEM tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEM II (Luân đôn, Anh tháng 4/1998), Nhóm viễn cảnh Á -Âu đã được thành lập với

nhiệm vụ vạch ra phương hướng chiến lược cho hợp tác ASEM trong thế kỷ 21. Đến nay,
Nhóm Viễn cảnh đã hoàn thành xong các kết quả nghiên cứu, tổng hợp thành báo cáo và gửi
đến tất cả các thành viên ASEM để lấy ý kiến đóng góp của các nước này. Nhóm Viễn cảnh
đã trình kết quả lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEM III tại Seoul, Hàn quốc vào năm 2000.
Báo cáo này tập trung vào 4 chủ đề lớn sau (i) tăng cường tham vấn và hợp tác trong
việc mở cửa thương mại và xúc tiến đầu tư (bao gồm cả các biện pháp đa phương và các
biện pháp khác để tạo thuận lợi và khuyến khích thương mại và đầu tư hai chiều); (ii) tăng
cường đối thoại với doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với nhau; (iii) hợp tác trong một số
ngành công nghiệp ưu tiên và (iv) đối thoại về các vấn đề kinh tế-xã hội quan trọng.
- 12 -
Viễn cảnh này nhằm xây dựng một khu vực ASEM hòa bình và thịnh vượng. Nhiều
ý kiến đề xuất xây dựng ASEM thành một khối hợp nhất, trong đó các kiến thức, của cải, di
sản văn hóa, tư tưởng chính trị, tư tưởng trí tuệ, công nghệ mới v.v . . sẽ được trao đổi một
cách chặt chẽ và sâu sắc hơn. Viễn cảnh ASEM cũng hướng tới mở cửa thị trường ASEM,
biến ASEM thành một khu vực nơi hàng hóa và dịch vụ có thể được luân chuyển tự do vào
năm 2025. Nhìn vào Viễn cảnh này, có thể thấy ASEM đang tiến theo những bước đi của
EU trước đây, với mức độ hợp tác, liên kết ngày càng sâu rộng hơn.
5. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác
a. Hợp tác tài chính:
Để tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, ASEM đã nhấn mạnh sự cần thiết
phải tăng cường quan hệ hợp tác, phối hợp chính sách và đối thoại trong ASEM. Hội nghị
các Bộ trưởng và Thứ trưởng tài chính trong thời gian vừa qua cũng đã tập trung phân tích
những nguyên nhân, xu hướng diễn biến và các giải pháp để khắc phục khủng hoảng.
Để giúp đỡ các thành viên châu Á bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng
tài chính, Hội nghị Thượng đỉnh ASEM II tại Luân đôn tháng 4/1999 đã quyết định thành
lập Quỹ tín thác ASEM (ATF) tại Ngân hàng Thế giới. Quỹ này bắt đầu đi vào hoạt động từ
ngày 29/6/1998 với tổng số vốn đóng góp của 9 nước thành viên châu Âu (Pháp, Anh, Italia,
Hà lan, Phần lan, Đan mạch, Thuỵ điển và Lúc-xăm-bua) là 47 triệu USD. Các hoạt động
trợ giúp tập trung vào 2 lĩnh vực là tài chính và xã hội. Cho đến nay Quỹ Tín thác đã thông
qua 61 dự án, chiếm khoảng 37 triệu USD.

ASEM cũng đã thành lập Mạng lưới chuyên gia tài chính châu Âu (EFEX). Đây là
sáng kiến của Châu Âu đề ra nhằm tạo đầu mối tìm kiếm và hỗ trợ các kiến thức chuyên gia
tài chính của châu Âu và các khu vực khác cho quá trình giúp châu Á cải cách và khắc phục
khủng hoảng tài chính châu Á vào giữa năm 1997.
Ngoài ra ASEM cũng đang triển khai sáng kiến về các biện pháp chống rửa tiền trong
ASEM và đang xem xét xây dựng mạng thông tin vi tính giữa các nước ASEM nhằm tạo cơ
sở trao đổi và phối hợp thông tin giữa Bộ Tài chính các nước.
b. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs): ASEM đã thành lập Trung tâm doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Thái lan và mạng thông tin ASEM Connect để phục vụ Doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Hội nghị cấp Bộ trưởng về SMEs đã được tổ chức tại Napoli (Italia) vào tháng
5/1998. Hội nghị đã tập trung thảo luận các vấn đề như chính sách của Nhà nước đối với
SMEs ở các nước, việc tăng cường đối thoại giữa các nhà hoạch định chính sách và các tổ
chức đại diện cho SMEs, hình thành các chương trình phát triển nhằm duy trì sự tăng trưởng
của các SMEs tại hai khu vực Á -Âu và thống nhất các khuyến nghị, nội dung gửi Chính phủ
các nước thành viên và Hội nghị ASEM cấp Bộ trưởng về SMEs tiếp theo.
- 13 -
IV. "CON ĐƯỜNG TƠ LỤA" TRONG THẾ KỶ 21
Hợp tác giữa hai châu lục có lịch sử và văn hóa lâu đời nhất trên trái đất đã hình
thành và phát triển từ hàng thế kỷ trước khi hàng hoá vật phẩm từ châu Á, châu Âu được các
thương nhân chuyên chở trên những đoàn lạc đà qua lại trên "con đường tơ lụa" nổi tiếng.
Do những yếu tố lịch sử, trong khi châu Á phong kiến bị trì trệ, châu Âu sau thời kỳ cách
mạng tư sản đã đạt được những bước phát triển vượt bậc với các cuộc cách mạng "công
nghiệp", "khoa học kỹ thuật", "công nghệ thông tin".
Vài thập kỷ qua, quan hệ giữa hai châu lục chủ yếu mang tính trợ giúp. Tuy nhiên,
những thành tựu kinh tế của các nước công nghiệp mới châu Á đã từng bước cải thiện vị trí
của châu lục này trong hệ thống kinh tế, chính trị thế giới. Việc thành lập ASEM là sự khẳng
định vai trò ngày càng tăng đó và thể hiện nhu cầu tăng cường, phát triển quan hệ giữa hai
châu lục nhằm tạo động lực cho sự phát triển mạnh mẽ hơn khi bước sang thế kỷ 21. Với
tính chất cởi mở, không thể chế hoá và với phạm vi rộng các vấn đề nghị sự từ các chủ đề
kinh tế tới văn hoá, chính trị , diễn đàn ASEM là một cơ hội gặp gỡ của nguyên thủ 25

quốc gia Á-Âu để trao đổi, mạn đàm, quyết định các vấn đề hợp tác song phương và đa
phương.
Có thể ghi nhận một số thành công bước đầu của ASEM như sau:
 Tuy còn một số vấn đề nhạy cảm từ phía các quốc gia châu Á, các cuộc đối thoại
chính trị cấp Bộ trưởng và chuyên viên cao cấp đã đạt được những bước tiến
triển trong giải quyết các bất đồng quan điểm, tăng cường hiểu biết;
 Trong lĩnh vực kinh tế, các nỗ lực được tập trung vào mục tiêu tự do hoá thương
mại và đầu tư giữa hai khu vực. Đã triển khai được một số công việc cụ thể và
tiến hành các cuộc đối thoại có nội dung sâu rộng liên quan tới tạo thuận lợi cho
thương mại và đầu tư;
 Về văn hoá - xã hội, các chương trình giao lưu trong khuôn khổ hoạt động của
quỹ ASEF và các hoạt động khác đã góp phần mở rộng các mối quan hệ, tăng
cường sự hiểu biết, tạo tiền đề phát triển các quan hệ hợp tác trong tương lai;
 Thêm vào đó, diễn đàn ASEM tạo cơ hội đối thoại sâu rộng hơn giữa nội bộ các
quốc gia châu Á, tăng cường các mối quan hệ giữa các nước ASEAN và Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Với những thành công bước đầu đáng khích lệ, một số quốc gia đang bày tỏ nguyện
vọng tham gia ASEM, trong đó có ấn Độ, Pakistan, Australia, New Zealand Tuy nhiên
việc kết nạp thành viên mới cần phải được sự nhất trí của tất cả các nguyên thủ các qóc gia
thành viên. Do vậy, vấn đề này có thể sẽ được đề cập trong tiến trình chuẩn cho Hội nghị
cấp cao ASEM 3 tại Hàn Quốc. Tạm thời vẫn chưa có tín hiệu rõ rệt về việc mở rộng thành
viên ASEM.
Bên cạnh đó, một điểm dễ nhận thấy về cơ cấu thành viên ASEM là sự xa cách về
địa lý, chênh lệch trình độ phát triển và đa dạng về văn hoá - xã hội. Các yếu tố này một mặt
tạo sự đa dạng và giàu bản sắc cho hợp tác nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề trong
định hướng hợp tác và hài hoà các mối quan tâm, lợi ích của các bên. Sau những bước đi
ban đầu, trong thời gian tới ASEM sẽ cần phải tập trung vào giải quyết vấn đề xác định
chiến lược lâu dài cùng các lộ trình thích hợp cho hợp tác, tìm cách duy trì động lực đang có
nhằm đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của hợp tác Á - âu. Hy vọng rằng Hợp tác ASEM
sẽ đặt tiếp những cột mốc trên "con đường tơ lụa" đi vào thế kỷ 21, góp phần vào sự phát

triển và phồn vinh của các quốc gia thành viên.
- 14 -
Phụ lục 1
Viễn cảnh ASEM
Viễn cảnh hợp tác Á - Âu: Từng bước hoà hợp Châu Á và Châu Âu thành khu vực hoà
bình và cùng phát triển, một môi trường cùng tồn tại thịnh vượng trong thế kỷ 21, trong
đó tri thức, của cải, di sản văn hoá, các tư tưởng dân chủ, tài sản giáo dục, khát vọng trí
tuệ và công nghệ mới của hai khu vực cùng hoà quyện gắn bó và giao lưu, không bị bất
kỳ hình thức ngăn trở hoặc ép buộc nào.
9 khuyến nghị chính
1. Về Giáo dục:
Tăng cường giao lưu giáo dục để đạt tới sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa hai châu lục Á, Âu
Ra Tuyên ngôn về Giáo dục tại ASEM III (Seoul 2000) với tầm nhìn dài hạn đối với các yêu
cầu về đào tạo và đặt các mục tiêu nhiều tham vọng.
2. Chương trình học bổng ASEM:
Trao đổi giữa hai khu vực các học bổng sau đại học cho các sinh viên giỏi và có triển vọng
nhất. Đặt mục tiêu ban đầu hai trăm học bổng ASEM mỗi năm.
3. Thống nhất các nguyên tắc về Quản lý Nhà nước lành mạnh (Good Governance)
Cùng xác định quản lý Nhà nước lành mạnh là nền tảng của sự thịnh vượng và nâng cao chất
lượng đời sống nhân dân.
Khuyến nghị các nguyên thủ ASEM thống nhất lại các nguyên tắc quản lý Nhà nước lành
mạnh tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM III (Seoul năm 2000) và thúc đẩy đối thoại về cách
thức quản lý Nhà nước lành mạnh và nhân quyền.
4. Thực hiện mục tiêu tự do hoá thương mại hàng hoá và dịch vụ vào năm 2025
Xây dựng khung chiến lược cho việc tự do hoá từng bước thương mại hàng hoá và dịch vụ.
Xác định rõ ràng thời hạn và mốc thực hiện có tính đến sự khác biệt về trình độ phát triển
của các nước.
5. Phối hợp chặt chẽ hơn các chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách hệ thống tài chính quốc tế.
Kết hợp ứng phó để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá tài chính đang diễn ra nhanh
chóng.

6. Thành lập trung tâm môi trường ASEM
Đẩy mạnh việc hợp tác môi trường dài hạn thông qua việc thành lập một Trung tâm Môi
trường ASEM. Định rõ những lĩnh vực và mục tiêu ưu tiên, tăng cường thể chế và cùng chia
sẻ gánh nặng về môi trường.
7. Thành lập Hội đồng Cố vấn Thương mại Á - Âu (BACs)
Thiết lập diễn đàn để tạo thuận lợi cho đối thoại cấp cao giữa những nhà lãnh đạo chính phủ
- 15 -
các quốc gia và giám đốc điều hành các doanh nghiệp tư nhân
Thảo luận các vấn đề cấp thiết liên quan đến đầu tư, thương mại và tiếp cận thị trường
8. Xây dựng khung khổ cho việc cải thiện hạ tầng của ASEM bao gồm tất cả các lĩnh vực
trọng yếu (năng lượng, viễn thông, giao thông, nước và môi trường) nhằm tạo thuận lợi cho
thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ và đi lại của các cá nhân trong lĩnh vực phát
triển hạ tầng.
9. Thành lập Hội đồng Công nghệ Thông tin ASEM để thúc đẩy mạnh việc phát triển cơ sở
hạ tầng thông tin (các mạng có tốc độ cao, phần mềm dịch thuật điện tử và truyền hình vệ
tinh) tiến tới xây dựng xa lộ thông tin liên khu vực.
Phụ lục 2
Danh mục các dự án hợp tác
trong lĩnh vực khoa học - công nghệ
(*)
(Tên và nước chủ trì xây dựng dự án)
1. Khoa học cơ bản (Đức, Trung Quốc, Nhật)
2. Chuyển giao kiến thức từ các cơ sở
nghiên cứu tới nền công nghiệp (Nhật, Pháp, Phần lan)
3. Phát triển nguồn nhân lực tập trung vào
nâng cao nhận thức khoa học của xã hội và
trao đổi các nhà nghiên cứu (Hàn Quốc, áo, Indonesia)
4. Lâm nghiệp (Phần Lan, Trung Quốc, áo)
5. Các vấn đề về nước (Thái Lan, Bồ Đào Nha, Pháp)
6. Công nghệ nông nghiệp và công nông nghiệp (Singapore, Italia)

7. Các thành phố phát triển bền vững (Pháp, Hy Lạp, Italia, Philippines)
8. Công nghệ sản xuất sạch và bền vững (áo, Malaysia)
9. Phát triển bền vững hệ sinh thái (nước) (Italia)
10. Di sản văn hoá (Việt Nam, Italia, Tây Ban Nha)
11. Nâng cao năng lực nghiên cứu và
kỹ thuật của các doanh nghiệp (Thuỵ Điển, Trung Quốc, Thái Lan)
- 16 -
(*) Được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng khoa học - Công nghệ Á - âu tại Bắc kinh (Trung
Quốc), tháng 10/1999
- 17 -
Phụ lục 3
các biện pháp đầu tư hiệu quả
nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
(*)
1. Các cơ quan xúc tiến đầu tư với cả hai chức năng xúc tiến và tạo thuận lợi cho đầu tư
nước ngoài. Các cơ quan này không chỉ hỗ trợ nhà đầu tư các thông tin ban đầu về thị
trường mà còn giúp nhà đầu tư sau khi đã thâm nhập thị trường trong việc giải quyết các
vấn đề liên quan với các cơ quan chức năng.
2. Thực hiện nhất quán các biện pháp tự do hoá nhằm dỡ bỏ các cản trở dòng vốn và các
giao dịch liên quan tới đầu tư nước ngoài.
3. Không phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài: mở rộng diện các ngành sản xuất,
dịch vụ được phép đầu tư, kể cả lĩnh vực phân phối
4. Cởi mở các quy chế đầu tư và dỡ bỏ hoặc giảm dần các rào cản hoặc thủ tục phiền toái:
loại bỏ việc không cho phép nước ngoài nắm giữ cổ phần ưu thế, bãi bỏ việc không cho
phép người nước ngoài sở hữu đất đai, loại bỏ yêu cầu bắt buộc về sản phẩm (hàm lượng
nội, tỷ lệ xuất khẩu )
5. Thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư: miễn thuế, trợ giá, hỗ trợ nghiên cứu và
phát triển các cơ sở hạ tầng khai thác các lợi thế tự nhiên đặc biệt để thu hút đầu tư
6. Tăng cường tính minh bạch và dự báo trước của môi trường đầu tư. Công bố rộng rãi các
văn bản pháp lý về đầu tư, ký thoả thuận song biên về các vấn đề thuế, hệ thống toà án

xét xử độc lập và nhà đầu tư được đối xử công bằng, bình đẳng.
7. Tăng cường các thoả thuận song phương, khu vực và đa phương về đầu tư quốc tế.
8. Tăng cường hiệu quả của cơ quan quản lý quốc gia: đơn giản hoá các quy định, hợp tác
tốt hơn giữa các giữa các cơ quan Chính phủ, đặt thời hạn cho các cơ quan chức năng
trong việc giải quyết vụ việc.
9. Cải thiện đồng thời môi trường kinh tế trong nước và cơ sở hạ tầng. Các yếu tố kinh tế xã
hội tác động tới đầu tư: đồng tiền ốn định, hệ thống tài chính - ngân hàng quản lý tốt, lao
động lành nghề, không bãi công, thuế khoá thấp Cải thiện cơ sở hạ tầng trong các linh
vực: viễn thông, vận tải, hệ thống phân phối và các cơ sở hạ tầng mang tính xã hội như
giáo dục, chăm lo sức khoẻ
______________________________________________________________________
(*) Do Nhóm Chuyên gia về Đầu tư (IEG) soạn thảo và đã được Hội nghị các Bộ trưởng
kinh tế (EMM 2) thông qua như các khuyến nghị không bắt buộc đối với các nước thành
- 18 -
viên.
- 19 -
Phụ lục 4
Các rào cản thương mại trong ASEM
Từ nhiều nguồn phân tích khác nhau, các thành viên ASEM đã tạm thời xác định
những hình thức thương mại sau đây đã và đang tạo ra những rào cản đáng kể đối với việc
trao đổi thương mại trong khu vực. Hiện nay ASEM đang xúc tiến xây dựng chương trình
hành động để giải toả những cản trở thương mại này.
I. Các rào cản chung
- Bất ổn định về khung pháp lý, ví dụ như thông báo quá ngắn khi có thay đổi luật pháp
hay luật pháp không rõ ràng, thiếu chính xác hoặc thậm chí là có những luật lệ không
được xuất bản.
- Trì hoãn quá lâu trong việc trả lời các câu hỏi, kiến nghị.
- Yêu cầu quá cao về lập tài liệu vì dụ đối với nhập khẩu
- Tham nhũng
II. Rào cản trong các lĩnh vực cụ thể

1. Thủ tục hải quan
- Tham nhũng ( ví dụ các yêu cầu có các khoản phí không chính thức để xúc tiến quá
trình) và sự tồn tại của các kênh hải quan không chính thức, đã đơng giản hoá.
- Thiếu minh bạch (ví dụ thông qua các quy tắc bất thành văn và những thay đổi không
được công bố) và việc giải thích các quy tắc hiện có không thống nhất.
- Thời gian quá dài để thông quan hải quan (ví dụ quá trình xác minh quá chậm chạp) và
quá nhiều giấy tờ phải xử lý.
- Các quy định phức tạp và tốn kém
- Không tuân thủ công ước Kyoto
- Các vấn đề về định giá hải quan ví dụ khi bị áp dụng tuỳ tiện và thường bị sửa đổi, cũng
như khi phân loại hải quan.
2. Tiêu chuẩn chất lượng
- Việc đăng ký phức tạp và tốn kém, thường liên quan đến cả các chi phí thực tế lẫn việc
tiết lộ các thông tin mật
- Các thủ tục thử nghiệm phức tạp, kéo dài và/hoặc tốn kém, thủ tục đánh giá sự phù hợp
và lập hồ sơ. Đôi khi các tiêu chuẩn thay đổi nhanh, khiến cho tiến trình còn bị kéo dài
thêm.
- Các quy định thiếu minh bạch, ví dụ như không dịch sang tiếng nước ngoài hoặc không
công bố những sự thay đổi.
- Những khác biệt giữa tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, khác biệt trong việc áp dụng các
tiêu chuẩn hoặc không thừa nhận các tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn châu Âu.
- Đối xử khác nhau giữa các sản phẩm trong nước và nước ngoài trong quá trình áp dụng
các quy định và thủ tục
- Quy định dán nhãn hạn chế
- 20 -
3. Mua sắm chính phủ
- Nhìn chung thiếu sự thông thoáng và minh bạch.
- Đối xử ưu đãi với các công ty trong nước hoặc các công ty có quan hệ/bạn hàng với các
công ty địa phương
- Yêu cầu về hàm lượng nội địa, chuyển giao công nghệ và mậu dịch đối lưu.

- Thông báo thầu ngắn
- Phá vỡ các quy định thông qua việc chia nhỏ các hợp đồng
- Không tuân theo Hiệp định Mua sắm chung (GPA)
4. Kiểm dịch động thực vật (SPS)
- Thiếu sự minh bạch về các biện pháp, thủ tục triển khai và cơ quan có thẩm quyền
- Các yêu cầu cho nhập động vật, sản phẩm động vật, thực vật và sản phẩm thực vật quá
tốn kém và kéo dài
- Không thống nhất giữa các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế và không hài hoà.
- Không thừa nhận quá trình kiểm định và/hoặc kiểm soát ở nước xuất hàng.
- Các thủ tục và yêu cầu nhập khẩu còn chưa được đơn giản hoá và chưa tổng hợp.
- Không thừa nhận cơ quan quốc gia như các cơ quan thẩm quyền có trách nhiệm ký kết
giấy chứng nhận xuất khẩu
- Yêu cầu kiểm định và kiểm dịch quá cao
- Quy định dán nhãn hạn chế
- Việc thử nghiệm không chính xác
5. Quyền sở hữu trí tuệ
- Việc thực thi các luật lệ về IPR trong tất cả các lĩnh vực khác nhau còn chưa đầy đủ
hoặc chưa công bằng
- Thiếu các luật về nhãn hiệu thương mãi, bản quyền, bằng sáng chế, thiết kế công nghiệp
và chỉ dẫn địa lý
- Vi phạm nhãn hiệu thương mại, bản quyền
- Giả mạo
- Không thống nhất giữa quy định quốc gia và quốc tế
6. Lĩnh vực phân phối kinh tiêu sản phẩm
- Hạn chế quyền sở hữu nước ngoài đối với thương mại hoặc/và bán lẻ
- Yêu cầu về liên doanh, liên kết trong nước đối với một số hoạt động cụ thể như quảng
cáo.
- Phân biệt đối xử chống lại các công ty nước ngoài, ví dụ khi bố trí cơ sở và trang thiết bị
tại cảng biển hoặc sân bay hoặc mức giá quảng cáo. thậm chí có thể thực hiện thông qua
các chiến dịch chống lại các sản phẩm nước ngoài hoặc quảng cáo các sản phẩm nội địa.

- Hạn chế sở hữu tài sản cố định
- Thiếu rõ ràng và không minh bạch
- Các điều khoản và yêu cầu về giấy phép hạn chế đối với các công ty nước ngoài.
- Thiếu các luật lệ về cạnh tranh hoặc chưa thực thi đầy đủ các luật này.
- 21 -

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×