Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Đặc điểm của một số giống trâu trên thế giới và Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.49 KB, 17 trang )

Đặc điểm của một số giống trâu trên thế giới và Việt Nam

Trâu là gia súc lớn nhai lại hay gia súc lớn có sừng, lớp động vật có
vú (Malmalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), bộ phụ nhai lại (Ruminantia),
họ sừng rỗng (Bovidae), tộc bò (Bovini), loài trâu (Bubalus bubalis), giống
trâu đầm lầy (Swamp buffalo).
1. NGUỒN GỐC VÀ THUẦN HÓA
Trâu là gia súc lớn nhai lại hay gia súc lớn có sừng, lớp động vật có
vú (Malmalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), bộ phụ nhai lại (Ruminantia),
họ sừng rỗng (Bovidae), tộc bò (Bovini), loài trâu (Bubalus bubalis), giống
trâu đầm lầy (Swamp buffalo).
Trâu sống hoang dã ở và. Con cháu của loài này cũng xuất hiện ở phía
bắc. Trâu hoang dã hiện nay còn rất ít, hầu hết trong số chúng đã bị lai tạp.
Thậm chí người ta còn sợ rằng hiện nay không còn loài trâu hoang dã trong
tự nhiên.
Không có tài liệu nào ghi chép lại chính xác sự thuần hóa của trâu bắt
đầu từ khi nào, nhưng nhiều tác giả cho rằng trâu đã được thuần hóa cách
đây rất lâu, khoảng 5000-7000 năm trước. Theo các nhà nghiên cứu thì trâu
được thuần hoá sau bò.
Ở châu Á, trâu được thuần dưỡng ở vùng sông Ấn và vùng Lưỡng Hà
(Irắc) từ giữa thiên niên kỷ thứ ba trước công nguyên (khoảng 30 thế kỷ
trước công nguyên). Trâu nhà được nuôi ở Trung Quốc từ 2000 năm trước
công nguyên và có lẽ được đưa từ phương Nam tới. Trâu đã có mặt ở thung
lũng Jordan lần đầu tiên vào năm 723 sau công nguyên. Chắc chắn là chúng
được người Arập đưa từ vùng Lưỡng hà vào đây và có thể vào cả Ai Cập
Người ta vẫn cho rằng, người Mông Cổ khi xâm lược châu Âu
đã đưa trâu vào đây. Nhưng đúng hơn có lẽ chúng đã được những người
tham gia thập tự chinh đem về. Vào cuối thế kỷ 13, một số lớn trâu đã được
nuôi ở khu vực sông Đanuýp và vùng đầm lầy Pontin ở Italia.
Trâu được thuần dưỡng là một vật nuôi rất quan trọng trong đời sống
người dân một số vùng ở Châu Á. Chúng cho sức kéo, thịt và sữa. Ấn Độ là


nước nuôi nhiều trâu nhất trên thế giới. Ở nước này người ta sử dụng sữa của
trâu thay cho sữa bò.
Ở Việt Nam, những tài liệu khảo cổ đã chỉ rằng: người Việt cổ đã sớm
thuần hóa trâu, bắt đầu từ hậu thời kỳ đồ đá mới cách đây khoảng 4-4,5 ngàn
năm để giúp nghề trồng lúa nước.
2. MỘT SỐ GIỐNG TRÂU TRÊN THẾ GIỚI
Trâu hay còn gọi là trâu nước gồm hai loại: trâu sông (River buffalo)
và trâu đầm lầy (Swamp buffalo). Chúng có chung nguồn gốc từ trâu rừng
nhưng khác nhau về số lượng nhiễm sắc thể. Do quá trình chọn lọc và sử
dụng mà ngoại hình và khả năng sản xuất của hai loại hình trâu có những
đặc điểm khác nhau. Trâu thường có màu xám, xám tro, đen hoặc đôi khi có
màu trắng, cơ thể nặng nề và tầm vóc chắc nịch, thân ngắn, bụng to và
thường được miêu tả là “bụng chum”.
Trâu đầm lầy (Swamp buffalo) tập trung ở vùng Đông Nam Á, có
nhiều nhất ở Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Malaysia, Indonesia,
Philipine, Trung Quốc. Trâu đầm lầy ít được chọn lọc cải tiến, gần với trâu
rừng hơn: sừng thon, cong hình bán nguyệt, trán phẳng, hẹp, mắt lồi, mắt
ngắn, mồm rộng, thân ngắn, chân thấp, vai vạm vỡ, ngực rộng, bụng to,
mông thấp, đuôi ngắn, móng xòe, vú bé thích hợp cho việc cày kéo. Trâu
thường có màu xám đen hoặc sẫm hơn, đặc biệt chúng có 2 bợt lông màu
nhạt: một ở dưới hàm, một ở dưới ngực. Trâu đầm lầy có thời gian chửa dài
hơn trâu sông. Trâu được sử dụng chủ yếu để cày kéo, do ít được chọn lọc
và cải tạo đến nay không phân thành nhiều giống như trâu sữa. Tuy nhiên,
do trâu được nuôi ở những vùng khác nhau nên có những tên gọi địa phương
khác nhau như: trâu Ngố, trâu Gié ở Việt Nam; trâu Carabo ở Phipipin; trâu
Krbau ở Malaysia…
Trâu sông (River buffalo Carabao) được chọn lọc cải tạo qua thời gian
dài theo hướng sản xuất sữa, có mặt dài và thân dài thon hơn trâu đầm lầy,
sừng ngắn, cong về phía dưới, ra sau rồi cong xoắn lên phía trên, khung
xương sâu, rộng, chân cao và mập, đuôi dài, bầu vú phát triển, các núm vú to

được sắp xếp cân đối thích hợp cho việc khai thác sữa. Trâu sông có da lông
đen và bóng hơn trâu đầm lầy. Trâu sông tập trung ở Tây Á, sử dụng chủ
yếu để khai thác sữa, do được chọn lọc và cải tạo nhiều nên hình thành nhiều
giống riêng biệt với các loại hình khác nhau, và nhìn chun có khả năng sản
xuất thịt sữa cao. Đến nay, ở Ấn Độ và Pakistan người ta ước tính có tới 18
giống trâu sông khác nhau và được xếp vào 5 nhóm giống chính là:
- Nhóm trâu Murrah: có các giống Murrah, Nili-Ravi và Kundi.
- Nhóm trâu Gujarak có các giống Surti, Mehsana và Jafarabadi.
- Nhóm trâu Uttar Pradesh có các giống Bhadawari và Tarai.
- Nhóm trâu vùng Trung Ấn có các giống là Nagpuri, Pandharpuri,
Manda, Jerangi, Kalahandi và Sambalpur.
- Nhóm trâu vùng Nam Ấn có các giống Toda và Nam Kanara.
Hai nhóm trâu châu Phi và châu Á tuy giống nhau về mặt ngoại hình
nhưng có sự khác nhau về mặt giải phẫu học, thể hiện sự cách biệt giữa
chúng trong phạm vi nhóm. Chúng giống nhau về đường nét, tầm vóc đều
to, chắc và có lớp lông dầy. Nhóm trâu châu Á mắt bé hơn, hộp sộ rộng và
ngắn hơn. Sự khác nhau rõ nhất là : trâu châu Á có xương lá mía và xương
vòm dính lại với nhau, và các lỗ mũi hoàn toàn cách biệt bởi xương vòm,
còn ở trâu châu Phi, xương lá mía và xương vòm cách biệt nhau và các lỗ
mũi không bị phân chia bởi xương vòm.
Theo Bohlken (1958), có thể chia trâu hoang châu Phi thành 3
loại:
- Syncerus caffer caffer, còn gọi là trâu đen hay trâu vùng Mũi Hảo
vọng, thường tập trung ở vùng đông và nam châu Phi.
- Syncerus caffer namus, còn gọi là trâu đỏ hay trâu Công gô, loại trâu
này tập trung ở vùng xích đạo, có khối lượng thấp hơn loại trâu trên.
- Syncerus caffer acquinocitalis, có kích thước, mầu sắc và dạng sừng
trung gian giữa hai loại trên; sống ở vùng thảo nguyên Bắc và Trung Phi.
Trâu hoang châu Á cũng gồm ba loại:
- Trâu Anoa: cư trú ở Indonesia và hiện nay để lại nhiều hoá thạch.

Trâu anoa là loại trâu nhỏ nhất, cao khoảng 1 m, da mầu nâu sẫm hay đen,
có những điểm trắng bên mắt, dưới hàm, cổ và chân. Loại trâu này được
Bohlken (1958) đặt tên là Bubalus depressicornis và theo Dolan (1965) thì
hiện nay còn khoảng 20 con, được nuôi trong các vườn thú trên thế giới.
- Trâu Arni: được Kerr (1922) đặt tên là Bubalus arnee. Là loại trâu
hoang sống ở Ấn Độ và chỉ riêng loại trâu này được thuần dưỡng. Trâu arni
có tầm vóc to lớn: cao vây 1,5 m - 1,7 m; có con cao tới 2 m và nặng đến 1
tấn. Trâu Arni được thuần hoá là trâu nước Bubalus bubalis.
- Trâu Tamarao: chỉ được tìm thấy ở đảo Mindoro của Philipin, chính
vì vậy có tên là Bubalus mindorensis (Heude 1888). Đây là loại trâu nhỏ,
cao 1m - 1,2 m, da có mầu xám đen hay nâu sẫm và có vệt trắng trên đầu,
cổ, chân.
Trâu Tamarao sống thành bầy nhỏ trong các rừng tre nứa rậm
rạp, số lượng của nó ngày càng hiếm và theo Hediger (1965) chỉ còn dưới
200 - 250 con loại trâu này.
Đây là loài trung gian giữa trâu anoa và arni về nhiều mặt.
Trâu Murrah : Trâu Murrah có nguồn gốc từ Ấn Độ. Nó còn có tên
là trâu Dehli-trung tâm của giống trâu này. Nhờ khả năng cho sữa cao nên
trâu Murrah được nuôi ở nhiều vùng khác nhau của Ấn Độ và được xuất
khẩu cho nhiều nước trên thế giới.
Trong các nhóm trâu sông thì trâu Murrah là trâu sữa nổi tiếng. Trâu
Murrah thường có da và lông màu đen tuyền, da mỏng, mềm mại, nhẵn
bóng, có lông thưa, ở cuối đuôi có chòm lông màu trắng sát vó chân, có một
tỷ lệ thấp màu xám nâu hoặc xám nâu vàng, rất ít khi có trâu trắng. Đặc
điểm nổi bật và rõ nét nhất của trâu Murrah là sừng ngắn, quay ra sau và lên
trên sau đó vòng vào trong thành hình xoắn ốc, mặt sừng phẳng. Đầu trâu
đực thô kệch và nặng nề, còn đầu con cái thì tương đối nhỏ, cân đối. Trán
rộng và hơi gồ, mặt cân đối. lỗ mũi rộng. Mắt trâu đực không lồi lắm, nhưng
mắt con cái thì lồi, nhanh nhẹn và sáng. Tai trâu bé, mỏng và rủ xuống. Cổ
trâu đực thô và mập, cổ trâu cái dài, mảnh. Ngực to, rộng, không có yếm.

Trâu đực có phần thân trước nặng, phần sau nhẹ, trâu cái thì phần thân trước
nhẹ và hẹp, phần thân sau nặng và rộng tạo thành hình cái nêm. Lưng rộng,
dài và thon về phía đầu. Xương sườn rất tròn, núm rốn nhỏ, không có u
bướu. Con đực có bắp chân khỏe, gần như thẳng, nhưng con cái thì chân hơi
cong để tạo khoảng rộng cho bầu vú. Đuôi dài, mảnh, dễ vận động. Con cái
có bầu vú phát triển, các tĩnh mạch vú nổi rõ, núm vú dài và cách xa nhau,
cân đối, dễ nắm để vắt sữa và sữa xuống dễ dàng
Trâu đực trưởng thành có khối lượng: 650-730kg/con, có thể tới 1000
kg, cao vây trung bình 142 cm. Trâu cái: 350-400kg/con, có thể tới 900 kg,
cao vây trung bình 133 cm, nghé sơ sinh: 30kg/con.
Trâu Murrah có khả năng cho sữa tương đối cao, sản lượng sữa trung
bình 2.600 - 2.800 kg trong chu kỳ vắt 270-300 ngày, tỷ lệ mỡ sữa trung
bình 7%.
Tuy to lớn nhưng trâu Murrah không thích hợp cho cầy kéo và chịu
nóng kém hơn trâu đầm lầy.
Trâu Murrah có dấu hiệu động dục đầu tiên trung bình lúc 30 tháng
tuổi.
Trâu Nili-Ravi: Còn được gọi với cái tên là trâu Sandal Bar. Thông
thường, da và lông của trâu Nili - Ravi có mầu đen, nhưng có khoảng 15%
số con có mầu nâu, có những chấm trắng trên trán, mặt, mõm, chân và một
chùm lông đuôi trắng.
Sừng ngắn, xoắn, vặn; gốc sừng to
Cổ trâu cái dài và mảnh, cổ trâu đực mập và chắc. Lồng ngực sâu và
phát triển tốt, ức rộng, không có yếm, nếp sâu và rộng. Con cái có hình nêm
nhọn, chân khuỳnh hơn con đực. Đuôi cân xứng, gốc rộg và thon, phần lông
cuối đuôi có một búi lông lớn có thể kéo sát đất. Vú phát triển mạnh, cả về
phía trước và sau, các núm vú dài và đều nhau. Da vú mỏng, mềm mại, lông
vú thô và thưa. Núm vú dài, đều và xếp đặt vuông vắn, tĩnh mạch vú nổi rõ,
dài và khúc khuỷu. Năng suất sữa trung bình 2000 kg/chu kỳ 300 ngày.
Khối lượng trung bình của trâu trưởng thành: trâu đực: 600kg/con,

trâu cái: 500-550kg/con
Trâu Kundi: Phân bố trên diện rộng tại những vùng trồng lúa gạo
dọc theo sông Ấn, ở phía bắc tỉnh Sind. Tên của giống trâu này bắt nguồn từ
chữ Kundhi - có nghĩa là lưỡi câu: người ta muốn nói đến dạng sừng của
trâu giống hình lưỡi câu. Gốc sừng dày, sừng xiên về đằng sau hướng lên
trên, đầu sừng qoăn vừa phải. Trán hơi lồi ra, mặt lõm, mắt bé và lanh lợi.
Mầu sắc đặc trưng của giống trâu này là đen nhánh, nhưng có khoảng
15% số trâu có mầu nâu nhạt (chiếm 10-15%), một số ít màu trắng. Có điểm
trắng hình sao ở trán, túm lông đuôi và bốn móng trắng, mắt vảy cá.
Là loại trâu có thể hình nhỏ hơn trâu Murrah, khối lượng cơ thể từ 320
đến 450 kg. Lượng sữa trung bình 9 kg / ngày. Có con cho năng suất 18 kg /
ngày. Năng suất trung bình một chu kỳ là 2120 kg.
Trâu Surti: Còn được gọi là trâu Surati, vì nó có nguồn gốc từ thị
trấn Surat (Ấn Độ).
Mầu phổ biến là đen và nâu. Lông ở dưới đầu gối và khoeo
chân thường là xám, hơi trắng và thường có một vệt trắng phía trên mắt
Trâu Surti có hình dáng đẹp, tầm vóc trung bình, lưng thẳng,
chân khá thấp. Bầu vú có dáng cân đối, da bầu vú mầu hồng, các núm vú
đều đặn
Con đực trưởng thành cân nặng từ 640 kg đến 700 kg, con cái
550 - 650 kg. Chiều cao trung bình ở con đực là 134 cm, con cái là 124 cm.
Năng suất sữa trung bình là 2070 kg / chu kỳ, với 7,9% chất
béo.
3. TẬP TÍNH CỦA TRÂU
Như tên đã thể hiện, trâu rất thích nước nhưng thực ra trâu có đặc tính
sống nửa cạn và có thói quen ăn đêm. Trâu tránh nơi nước lợ và nước mặn
trừ phi trâu không có chỗ nào đầm nào khác.
Trâu rừng sống ở trong rừng sâu, các thung lũng vắng vẻ, sống thành
đàn 5-10 con. Khi gặp nguy hiểm chúng bố trí để nghé nằm giữa, trâu mẹ và
trâu đực đứng xung quanh đầu hướng ra ngoài, sẵn sàng chiến đấu. Khi đó

mọi kẻ thù hung dữ nhất như hổ báo cũng phải bỏ chạy.
Trâu sông thường đầm thành đàn tụm lại với nhau trong khi đó trâu
đầm lầy lại thích đầm ở các bãi bùn và chỉ đủ mình nó hoặc một vài con
khác. Tuy nhiên, việc đầm không phải là tuyệt đối cần để chúng duy trì cuộc
sống.
Trâu thích bóng râm, rừng xanh và nơi có bụi cây. Trâu không chịu
được nóng, nếu như để trực tiếp dưới ánh nắng chỉ một vài giờ chúng sẽ mệt
lả; trâu cũng không chịu được quá rét. Nhiệt độ giảm đột ngột, gió rét mạnh
hoặc gió lùa có thể làm chúng bị cảm lạnh, viêm phổi và có thể chết. Do đặc
điểm sống nửa cạn nên trâu mẫn cảm với một số thể viêm thận và ký sinh
trùng như sán lá gan.
Trâu có khả năng thích nghi cao với sự biến đổi của điều kiện môi
trường. Tuy nhiên khả năng chịu nóng của trâu kém bởi vì thân nhiệt của
trâu thấp, da trâu lại dày và đen nên dễ hấp thụ nhiệt từ mặt trời, tuyến mồ
hôi của trâu lại kém phát triển, nên việc điều tiết thân nhiệt bằng tiết mồ hôi
của trâu rất hạn chế. Vì vậy trâu thích bóng mát và đầm tắm, chúng có thể
đầm tắm tới 4-5 giờ/ngày. Nhiều tác giả đã xác nhận trâu có tỷ lệ động dục
và đậu thai cao trong những tháng mát mẻ và thấp nhất trong những tháng hè
nóng nực, còn ở con đực thì phẩm chất tinh kém nhất vào những tháng hè và
tốt vào tháng đông xuân. Sản lượng sữa bị giảm khi nhiệt độ không khí cao,
còn ẩm độ không khí ảnh hưởng không đáng kể đến các khả năng sản xuất
của trâu.
Trâu đầm lầy thích được đầm đến cổ trong bùn lầy. Vào những lúc
sang và chiều tối, ban đêm nghỉ ở nơi đất khô.
4. TRÂU VIỆT NAM
Trâu Việt Nam thuộc loại hình trâu đầm lầy (Swamp buffalo). Tổ tiên
của chúng là trâu rừng Bubalus arnee còn tồn tại ở nhiều vùng Đông Nam
Ấn Độ, Thái Lan, Sri Lanca, có thể còn một số hiện sống ở vùng rừng núi
Đông Dương. Trâu có sừng dài, thon, cong hình bán nguyệt, đuôi sừng
nhọn. Đầu trâu to, trán phẳng, hẹp, mặt ngắn, mõm rộng, tai to và rộng, cồ

dài thẳng. Thân trâu ngắn, chân thấp và mảnh, vai đầy, ngực lép, bụng to,
mông thấp, đuôi ngắn, móng xoè. Con cái bầu vú bé và lùi về phía sau, con
đực dương vật thường dính chặt vào phía bụng, trừ đoạn đầu dương vật ngắn
và tự do, bìu dái ngắn, thích hợp cho việc cày kéo.
Về giống trâu Việt Nam, chưa có lài liệu nào nói về sự phân loại các
giống trâu, vẫn chỉ duy nhất một giống, nhưng có những tài liệu phân chia
thành hai loại hình là trâu Ngố và trâu Gié. Sự khác nhau giữa hai loại hình
trâu này chủ yếu ở tầm vóc, còn về đặc điểm giống thì không có gì khác
nhau. Trâu Ngố tập trung chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, có hình dáng to và
thô hơn, da dày, không bóng, xương to, bàn chân to, móng hở. Trâu gié tập
trung chủ yếu ở đồng bằng, có hình dáng nhỏ, thanh gọn hơn, da mỏng và
bóng hơn, lông đen và mượt hơn, chân bé và móng khít hơn. Có thể thấy
trâu ở các tỉnh phía Nam nước ta (Tây Nguyên, Nam Bộ ) thuộc loại hình
lớn, giống như trâu Ngố ở phía Bắc. Có ý kiến cho rằng đó là do sự pha tạp
với trâu từ Campuchia (một giống trâu đầm to).
Đặc trưng của trâu Việt Nam là có lông màu tro sẫm, lông thưa, da
dày, khô, thường có vệt khoang trắng hình chữ V vắt ngang phía dưới cồ và
một vệt phía trên ngực, tại những chỗ loang chữ V da màu hồng, còn lông
màu trắng hoặc xám nhạt. Một số ít trâu có da lông màu trắng hồng, có
người gọi là trâu bạch tạng, những trâu này có da lông hầu hết màu hồng
hoặc phớt vàng.
Trâu thường có những vòng lông xoắn trên mình gọi là khoáy số
lượng khoáy biến động từ 1 đến 9, các khoáy có sự khác nhau về vị trí, kích
thước, hình dáng và chiều xoáy của lông. Khoáy được hình thành rõ ở thai
trước khi đẻ 60-30 ngày. Chiều xoắn lông ở khoáy có thể là cùng chiều hoặc
ngược chiều kim đồng hồ.
Trâu có chiều cao vây 150-190cm, chiều dài 240-300cm, chiều dài
đuôi 60-100cm. Trâu trưởng thành nặng khoảng từ 250 đến 500 kg. Loài
trâu hoang dã lớn hơn thế rất nhiều, con cái trưởng thành có thể nặng từ 800
kg, con đực lên tới 1.200 kg. Trâu hoang dã có tuổi thọ 25 năm, có thể sống

tới 29 năm.
Trâu có tổng số 32 răng, được phân chia như sau: hàm trên có 6 răng
hàm trước, 6 răng hàm sau và không có răng cửa; hàm dưới có 6 răng hàm
trước 6 răng hàm sau và 8 răng cửa. Trâu sơ sinh được 5- 10 ngày đã có răng
sữa, răng sữa nhỏ hơn răng vĩnh viễn; răng vĩnh viễn có thể to gấp rưỡi hoặc
gấp đôi răng sữa, màu hơi vàng và có những vạch đen ở mặt trước. Sự phát
triển của trâu liên quan chặt chẽ với việc mọc và thay răng, người ta có thể
xem răng trâu để xác định tuổi. Trâu có hai răng vĩnh viễn thì khoảng 3 năm
tuổi, bốn răng thì khoảng 4 năm tuổi, sáu răng thì khoảng 5 năm tuổi và tám
răng thì khoảng 6 năm tuổi, khi đó là trâu đã trưởng thành.
Trâu có 32 răng, trong đó có 8 răng cửa và 24 răng hàm. Hàm
trên không có răng cửa.
Người ta có thể xác định được tương đối đúng tuổi của trâu khi
căn cứ vào sự biến đổi của bộ răng, như: sự xuất hiện và bào mòn răng cửa
giữa, sự thay thế răng sữa bằng răng trưởng thành, sự thay đổi hình dạng mặt
phía trên của răng trưởng thành, sự xuất hiện răng hàm trưởng thành và sự
thay thế răng hàm sữa bằng răng hàm trưởng thành
Việc xem răng định tuổi bảo đảm độ chính xác cao hơn (sai số
0,5 đến 1 tuổi) khi trâu được từ 2 đến 5 năm tuổi so với trâu già (sai số có
thể từ 1 đến 2 tuổi)
Muốn xem răng định tuổi trâu thì phải căn cứ vào 3 thời kỳ:
mọc răng, thay răng và mòn răng
- Mọc răng : Bê mới đẻ đã có 2 -3 đôi răng cửa sữa giữa, sau 20 ngày
đã có đủ 8 răng cửa sữa. Ở nghé, hiện tượng mọc răng diễn ra chậm hơn,
phải một tuần sau khi đẻ nghé mới có 2 đôi răng cửa sữa giữa và phải 2-3
tháng sau mới có đủ 8 răng cửa sữa
- Thay răng : Khi trâu đạt tới tuổi nhất định thì răng sữa được thay
bằng răng vĩnh cửu. Trâu thay răng chậm hơn bò.
Trình tự thay các răng cửa hàm dưới của trâu như sau :
- Vào khoảng 3 tuổi : thay 2 răng cửa sữa giữa

- Vào khoảng 4 tuổi : thay 2 răng cửa sữa cạnh
- Vào khoảng 5 tuổi : thay 2 răng cửa sữa áp góc
- Vào khoảng 6 tuổi thay 2 răng cửa sữa góc và đủ 8 răng cửa
trưởng thành
- Mòn răng: Từ 6 tuổi trở lên, muốn xác định tuổi trâu thì phải căn cứ
vào độ mòn của răng vĩnh cửu
- Lúc 7 tuổi: tất cả răng cửa đều mòn, 2 răng cửa giữa có vết sỉ
tinh dài
- Lúc 8 tuổi: 2 răng cửa giữa sỉ tinh hình chữ nhật, 2 răng cửa
cạnh sỉ tinh hình vệt dài
- Lúc 9 tuổi: 2 răng cửa giữa sỉ tinh gần vuông, 2 răng cửa cạnh
sỉ tinh hình chữ nhật, 2 răng cửa áp góc sỉ tinh hình vệt dài
- Lúc 10 tuổi: 2 răng cửa giữa sỉ tinh gần tròn, 2 răng cửa cạnh
sỉ tinh hình vuông, 2 răng cửa áp góc sỉ tinh hình chữ nhật, 2 răng cửa góc sỉ
tinh hình vệt dài.
- Lúc 11 tuổi: 2 răng cửa giữa sỉ tinh tròn hẳn, 2 răng cửa cạnh
sỉ tinh gần tròn, 2 răng cửa áp góc sỉ tinh hình vuông, 2 răng cửa góc sỉ tinh
hình chữ nhật.
- Lúc 12 tuổi: 2 răng cửa áp góc sỉ tinh tròn hẳn.
- Lúc 13 tuổi: 2 răng cửa góc sỉ tinh tròn hẳn.
- Lúc 14 tuổi: các răng cửa bắt đầu hở và nhìn thấy rõ chân răng
Tuy nhiên, sự mọc răng, thay răng và mòn răng phụ thuộc vào
giống, thức ăn, cách nuôi dưỡng, tình trạng sức khoẻ Vì vậy, cần xem xét
cụ thể các yếu tố đó để nâng cao độ chính xác.

×