Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Dạy học phát huy tính chủ động, tích cực của HS lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.43 KB, 11 trang )

I. Lý do chọn đề tài
Phần môn toán trong chương trình giảng dạy Toán lớp 2 chiếm một vị trí quan
trọng trong bậc Tiểu học.
Nó là nền móng cho việc học môn Toán ở các lớp tiếp theo của bậc Tiểu học và
Trung học sau này.
Đặc trưng chủ yếu và phương pháp dạy học mới là coi học sinh là nhân vật
trung tâm của quá trình dạy học. Nhờ cách dạy học như vậy mà học sinh tiếp thu kiến
thức một cách tích cực giáo viên nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó có thể
tạo điều kiện giúp học sinh phát triển năng lực của cá nhân. Đó chính là những lý do
khiến tôi chọn đề tài này.
II. Nội dung và biện pháp tiến hành
Trong quá trình dạy học, để học sinh tiếp thu kiến thức chủ động, tôi có một số
biện pháp tiến hành có hiệu quả sau :
1. Giảng bài mới kết hợp củng cố, vận dụng kiến thức đã học :
Giảng bài mới trong tiết học Toán hết sức quan trọng. Học sinh có vận dụng
luyện tập giải Toán đúng hay sai là ở chỗ này. Do vậy, trong khi dạy, tôi luôn bảo
đảm truyền thụ đủ nội dung kiến thức của bài học bằng cách.
Chuẩn bị bài hết sức chu đáo, cẩn thận.
Soạn bài trước một tuần để có thêm thời gian nghiên cứu, hiểu kỹ yêu cầu nội
dung của bài học.
Khi soạn bài, tôi luôn tìm hướng giảng bài mới một cách dễ hiểu nhất đối với trò
mà vẫn phát huy được tư duy của trò, lấy "học sinh làm trung tâm".
Vì vậy, kết hợp với khâu chuẩn bị bài của học sinh, trong mỗi tiết dạy bài mới,
tôi cung cấp đủ nội dung bài, đồng thời khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức đã
học có liên quan thực hiện phương châm "ôn cũ, học mới".
Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà đầy
đủ kiến thức, được củng cố kiến thức cũ có hệ thống, vận dụng giải Toán sẽ linh
hoạt, không bị gò ép phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quan chủ động tích cực trong
giải Toán.
Ví dụ : Khi dạy bài : "8 cộng với số 8 + 7". Phần giảng mới, tôi đã tiến hành
cùng với học sinh như sau :


Bước 1 : Mỗi học sinh lấy 8 que tính sau đó lấy thêm 7 que tính. Tất cả bao
nhiêu que tính ?
Bước 2 : Học sinh tự thao tác trên que tính để tìm tất cả số que tính đã lấy.
- Học sinh lấy 8 que tính thêm 2 que tính được tách ra từ chỗ 7 que tính được 10
que tính.
Lấy 10 que tính thêm 5 que tính còn lại được 15 que tính
Giáo viên cho học sinh nêu lại cách thao tác trên que tính như vậy rồi mới
hướng dẫn cách tính.
8 + 7 = 8 + (2 + 5)
= 8 + 2 + 5
= 10 + 5 = 15
Học sinh tự rút ra quy tắc : 8 cộng với số ta tách 2 ở số sau để có :
Bước 1 : 8 cộng 2 được 10
Bước 2 : 10 cộng nốt với đơn vị còn lại
Hoặc khi dạy bài "tìm số trừ" tiết 80
- Tôi tổ chức cho học sinh cả lớp cách tìm số trừ thông qua trò chơi "tìm số ô
vuông bị lấy đi" giúp học sinh nắm kiến thức nhẹ nhàng. Học sinh được chơi 3 lần,
lần thứ nhất, 1 học sinh lên gắn 12 ô vuông lên bảng, sau đó bạn lấy đi một số ô
vuông, lúc này cả lớp che mắt lại.


Hỏi còn lại mấy ô vuông ?
Bạn đã lấy bao nhiêu ô vuông ? vì sao con biết ?
Học sinh trả lời : Bạn đã lấy đi 3 ô vuông. Con biết vì đã đếm số ô vuông bị
khuyết trên hình vẽ.
Chời lần thứ hai :


Có 12 ô vuông
Lấy đi một số ô vuông

Còn lại 7 ô vuông
Tìm số ô vuông bạn đã lấy ?
(Học sịnh tìm được số ô vuông bạn đã lấy bằng cách lấy ô vuông đã có trừ đi ô
vuông còn lại) 12 - 7 = 5.
Chơi lần ba :

x


14
Có 14 ô vuông. Bạn lấy đi một số ô vuông
Còn lại 10 ô vuông
Bạn đã lấy đi bao nhiêu ô vuông ?
(Học sinh tìm được số ô vuông bị lấy đi bằng cách lấy số ô vuông đã có trừ đi số
ô vuông còn lại là : 14 - 10 = 4).
Có 14 ô vuông lấy đi một số ô vuông chưa biết ta gọi số đó là x.
Còn lại 10 ô vuông. Ai lập cho cô phép tính ?
14 - x = 10
Như vậy với cách tổ chức cho học sinh thao tác trên đồ dùng, học sinh được
chơi mà học, học sinh đã chủ động xác định kiến thức bài học. Từ đó học sinh hứng
thú, học tập, tự tin vào khả năng của bản thân và dần dần hình thành phương pháp tự
học, tự nghiên cứu độc lập và sáng tạo.
Để dạy tốt môn Toán lớp 2 không thể không đề cập việc chấm. Chữa cho học
sinh một cách chu đáo.
2. Chấm chữa kịp thời để uốn nắn, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng giải toán.
Bậc tiểu học có đặc điểm riêng về tâm sinh lý lứa tuổi nên việc chấm chữa kịp
thời của giáo viên đối với trẻ là rất phù hợp, nó tác động ngay tới hành động của trẻ.
Chấm chữa kịp thời củagiáo viên trong giờ học toán là rất quan trọng. Qua chấm
chữa, giáo viên nắm được tình hình chất lượng tiếp thu bài học và bản thân học sinh
cũng tự thấy mình hiểu choõ nào, chỗ nào chưa hiểu.

Cụ thể trong tiết toán tôi đã thường xuyên thực hiện như sau :
Sau khi cung cấp kiến thức bài học, học sinh vận dụng giải quyết các bài tập
trong "Vở bài tập toán 2". Tôi luôn cố gắng đảm bảo 100 học sinh trong lớp đủ bài
các bài tập.
Đối với học sinh khá giỏi thì dễ dàng, còn đối với học sinh trung bình để làm
đúng 100% số bài tập ngay tại lớp là khó khăn. Vì vậy trong quá trình học sinh đang
làm bài tập, tôi đã quan sát việc làm bài của số học sinh này nhiều hơn, kịp thời phát
hiện những chỗ sai để uốn nắn học sinh theo dõi bài chữa trên bảng, biết chỗ sai để
học sinh tự chữa ; có thể dùng một vài câu hỏi nhỏ gợi ý.
Tuy nhiên gặp những bài khó, học sinh có lỗi lớn về đường lối giải, nhiều học
sinh sai thì tôi yêu cầu học sinh nhận xét lỗi sai ở chỗ nào ? cách sửa thế nào ?
Thường thì tôi dùng học sinh có lỗi sai đó nhận xét và sửa trước, nếu học sinh
làm được điều đó có nghĩa là cùng một lúc tôi đã củng cố cho học sinh đó và đồng
thời chữa chung cho nhiều em khác.
Còn gặp bài khó, học sinh lúng túng, tôi dùng câu hỏi gợi ý hoặc dùng học sinh
giỏi của lớp tham gia chữa bài.
Trong tiết toán, thời gian có hạn, tôi chú ý chấm chữa cho học sinh trung bình,
yếu và chú ý tới những lỗi sai mà học sinh mắc nhiều.
Với cách làm như vậy lỗi sai không bị kéo dài, mà học sinh có thói quen làm
toán đúng, chủ động giải. Tôi cố gắng chữa triệt để những lỗi sai bằng cách :
+ Học sinh chữa lỗi sai nhỏ như : Tên đơn vị, kết quả vào ngay trong vở
"Bài tập toán 2", lỗi lớn như sai cách giải, câu trả lời chưa rõ ý thì chữa ngay vào vở
toán khác do lớp quy định. Sau đó tôi kiểm tra chấm chữa, nhận xét phần chữa của
học sinh, học sinh phải tự làm bài đó một lần nữa để khắc sâu bài học. Có những học
sinh chữa tới hai lần mới đúng cũng được giáo viên kiểm tra triệt để, cuối cùng phải
chữa đúng mới thôi.
+ Tôi rất chú ý coi trọng tới việc chữa bài của học sinh. Khi học sinh chữa bài,
tôi yêu cầu học sinh ngoài việc chữa đúng còn phải trình bày lưu loát, sạch đẹp, rõ
ràng hơn. Do đó mà học sinh chữa bài rất thận trọng, chính điều này giúp học sinh
nhớ rất kỹ bài giải, lần sau gặp dạng toán khó học sinh rất ít sai sót.

Ví dụ : Mảnh vải xanh dài 55 dm. Mảnh vải đỏ dài hơn mảnh vải xanh 9 dm.
Hỏi mảnh vải đỏ dài bao nhiêu đề xi mét ?
+ Có học sinh giải như sau :
Mảnh vải đỏ dài là :
55 + 9 = 64 mảnh vải
Đáp số : 64 mảnh vải
Giáo viên hỏi : Đơn vị của bài toán là gì ?
Học sinh trả lời : đề xi mét
Giáo viên hỏi : Vậy trong bài giải con đã ghi đúng tên đơn vị của bài toán chưa ?
Lúc này học sinh sẽ nhận ra chỗ thiếu sót trong bài giải của mình và tự sửa lỗi
sai đó.
Ví dụ 2 : Thùng thứ nhất đựng 25 lít dầu. Thùng thứ hai đựng 30 lít dầu. Hỏi
thùng nào đựng nhiều dầu hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?
Có học sinh giải như sau :
Số lít dầu thùng đựng nhiều hơn là :
30 - 25 = 5 lít
Đáp số : 5 lít
Giáo viên hỏi : Ta cần tìm điều gì ?
Học sinh trả lời : Thùng nào đựng nhiều hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?
Giáo viên hỏi tiếp : Câu trả lời này đã nói rõ điều đó chưa ? Còn thiếu ý nào ?
Lúc này học sinh sẽ nhận ra trong câu trả lời này chưa nêu được thùng nào đựng
nhiều hơn và phải bổ sung và chữa vào bài giải là :
Thùng thứ hai đựng nhiều hơn và
nhiều hơn là :
30 - 25 = 5 lít
Đáp số : 5 lít
Bên cạnh việc cung cấp đủ trọng tâm bài học, rèn cách luyện tập thành thạo, tôi
còn luôn quan tâm tới việc mở rộng, nâng cao kiến thức từ chính những bài tập trong
SGK, vở bài tập toán.
3. Phát triển, tìm tòi nội dung kiến thức sách giáo khoa :

Thông thường giáo viên chỉ chú ý tới việc học sinh làm đủ, làm đúng các bài tập
trong SGK, vở bài tập theo quy định của tiết học, nên đôi khi gặp những trường hợp
khác lạ là học sinh lúng túng vì quen giải theo khuôn mẫu, ít tư duy tìm tòi sáng tạo.
Vì thế để học tốt môn toán 2, tôi luôn tìm cách mở rộng ngay sau một bài tập
nào đó trong số bài luyện, tuy nhiên ở mức độ hợp với trình độ học sinh trong lớp,
các đối tượng tiếp thu được.
Khi học sinh làm đủ 100% số bài tập quy định chưa hẳn là đã thành thạo cách
giải loại toán đó, nhất là học sinh trung bình. Vì vậy, tôi đã cố gắng đưa nội dung
kiến thức vào bài tập thật phong phú, đa dạng dựa vào bài tập có sẵn, vẫn xoay quanh
nội dung bài vừa học hoặc vừa luyện. Bài toán đưa ra các hình thức khác nhau, giáo
viên khai thác được tư duy của học sinh. Các dạng toán có thể thực hiện được điều
này như :
+ Dạng toán về nhiều hơn, ít hơn.
+ Dạng toán về số bị trừ, số trừ, tìm số hàng trong tổng.
Ví dụ 1 : Bài toán về nhiều hơn.
Nội dung bài tập là : Anh 25 tuổi, hơn em 6 tuổi. Hỏi em bao nhiêu tuổi ?.
+ Để giải được bài này, học sinh phải hiểu rõ yêu cầu của bài toán. Đã biết tuổi
của anh, biết số tuổi anh hơn em. Muốn tìm số tuổi của em phải làm thế nào ?
+ Học sinh phải tự phân tích đề toán và giải :
Tuổi của em là :
25 - 6 = 9 tuổi
Đáp số : 19 tuổi
Với việc mở rộng kiến thức này, học sinh sẽ linh hoạt hơn khi giải toán không
nhất thiết cứ nhiều hơn là phải làm tính cộng.
Ví dụ 2 : Bao thứ nhất đựng được 50 kg gạo, như vậy bao thứ nhất đựng ít hơn
bao thứ hai 15 kg gạo. Tính số gạo của bao thứ hai.
Đã biết yếu tố gì ? Số gạo của bao thứ nhất và biết bao thứ nhất đựng ít hơn bao
thứ hai 15 kg. Lúc này, học sinh phải hiểu bao thứ nhất đựng ít hơn bao thứ hai 15
kg nghĩa là bao thứ hai đựng nhiều hơn bao thứ nhất 15 kg. Vậy tìm số gạo của bao
thứ hai ta phải làm như thế nào ?

Học sinh : Bao thứ hai đựng số gạo là :
50 + 15 = 65 kg
Đáp số : 65 kg
Ví dụ : x + 15 = 42 + 8
x trong phép tính này là thành phần gì ?
(Số hạng chưa biết)
Muốn tìm số hạng chưa biết ta phải làm thế nào ?
(Lấy tổng trừ đi số hạng đã biết)
Tổng ở đây là 42 + 8. Vậy ta phải tìm 42 + 8 trước, sau đó áp dụng cách tìm một
số hạng trong một tổng để giải như bình thường.
x + 15 = 42 + 8
x + 15 = 50
x = 50 - 15
x = 35
Trong giảng dạy không thể thiếu được phần đánh giá, kiểm tra kịp thời sau mỗi
phần kiến thức.
4. Biện pháp đánh giá, kiểm tra kiến thức :
Để kiểm tra, đánh giá kết quả của học tập, ngoài tiết chính khoá, tôi soạn thêm
bài tập củng cố theo mức độ từ thấp đến cao, sát với nội dung tiết chính khoá.
Trong giờ ôn toán tôi chuẩn bị các nội dung song song. Một là loại bài tập cho
học sinh đại trà, hai là loại bài tập nâng cao cho học sinh khá, giỏi.
Ví dụ : Có bài tập sau :
1) Đặt tính rồi tính : 62 + 18 73 + 15
45 - 19 86 - 37
2) x + 15 = 21
3) Ngăn thứ nhất có 12 quyển sách. Ngăn thứ hai có nhiều hơn ngăn thứ nhất 9
quyển sách. Hỏi ?
a. Ngăn thứ hai có bao nhiêu quyển sách ?
Trên đây là phần đại trà cho học sinh cả lớp
Đối với học sinh khá, giỏi sẽ làm nhanh hơn, vì vậy tôi đã mở rộng bài tập này

cho học sinh khá giỏi. Tuy nhiên cũng có thể có những học sinh trung bình giải quyết
được, tôi rất khuyến khích. Như vậy, trong cùng một khoảng thời gian dù học sinh
trung bình giải được phần này, vẫn còn một phần bài tập tiếp theo để học sinh khá,
giỏi giải tiếp.
Phần bài tập tiếp theo là :
b. Cả hai ngăn có bao nhiêu quyển sách ?
4) Tìm x : x + 15 = 21 + 6
5)





- Có bao nhiêu tam giác, tứ giác trong hình trên ?
- Có bao nhiêu đoạn thẳng ?
Phần bài tập luyện này tôi chữa kỹ và chấm 100% số bài của học sinh
Với biện pháp trên tôi đã thu được nhiều kết quả trong việc dạy và học môn
toán 2.
III. Bài học rút ra
Muốn dạy tốt môn toán ở lớp 2 thì :
- Giáo viên cần soạn bài kỹ, soạn trước một tuần
- Học sinh có sự chuẩn bị trước bài ở nhà thật chu đáo.
- Giáo viên cần dạy đủ, đúng nội dung tiết chính khoá và ngoại khoá.
DR
E
CB G
- Luôn động viên, khuyến khích học sinh có phương pháp giải toán tối ưu.
- Giáo viên thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn để có khả năng giảng
dạy tốt, tìm tòi, mở rộng từ các bài tập có sẵn trong sách giáo khoa và vở bài tập
Toán lớp 2.

- Luôn đổi mới trong phương pháp dạy học để cuốn hút học sinh say mê học
Toán.
- Chấm chữa bài kỹ, thường xuyên.
- Đánh giá, kiểm tra, động viên học sinh kịp thời.
IV. Kết luận
Trên đây là một vài suy nghĩ và biện pháp thực hiện khi dạy môn Toán lớp 2 mà
tôi đã làm để học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, tích cực, bước đầu đạt
hiệu quả tốt.
Rất mong được sự đóng góp giúp đỡ của các đồng nghiệp để giúp tôi ngày càng
dạy tốt bộ môn Toán.

×