Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.82 KB, 9 trang )

BỆNH HỌC THỰC HÀNH
XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN
Là sự xuất huyết đột ngột ở màng nhện. Thường là hậu quả của chấn
thương đầu.
Tuổi nào cũng có thể bị nhưng thường xẩy ra khoảng 25-50 tuổi.
Trước khi bị đứt hầu hết các tế bào hình sao đều phình trướng. Khi màng
nhện bị đứt, thường kèm theo đau đầu dữ dội kèm theo ngất trong chốc lát.
Đau đầu nhiều có thể kèm theo nôn mửa, chóng mặt, truỵ mạch, hơi thở nhỏ.
Có thể kèm co giật. Trong vòng 24 giờ sau khi xuất huyết, thường bị cứng
gáy (dấu hiệu Kernig) và dấu hiệu Babinski dương tính. Sau khi não xuất
huyết, có thể sẽ bị hôn mê, vì vậy có khoảng 25% sẽ bị liệt nửa người. Tỉ lệ
tử vong ở xuất huyết lần đầu là 35% và khoảng 15% chết sau khi xuất huyết
khoảng 1 tuần
Đông y xếp vào loại Chân Đầu Thống. Nếu kèm chóng mặt thuộc loại
Huyễn Vựng. Kèm nôn mửa thuộc loại Ẩu Thổ. Kèm hôn mê thuộc loại
Quyết Chứng. Liệt nửa người thuộc loại Bán Thân Bất Toại, Trúng Phong.
Nguyên Nhân
Thường do thất tình, nội thương và dinh dưỡng suy kém. Chủ yếu do
Can khí uất kết, khiến cho Tỳ mất chức năng vận hoá, thống huyết. Can uất
lâu ngày sẽ hoá thành hoả. Can dương bốc lên, huyết theo khí đưa lên trên
làm tổn thương các thanh khiếu, gây nên nhức đầu. Nếu Can khí hoành
nghịch khắc Tỳ thổ, Tỳ thổ sẽ mất chức năng vận hoá, thấp trọc nhân cơ hội
đó đình trệ lại, lâu ngày sẽ hoá thành hoả. Can hoả hợp với đờm bốc lên gây
ra bệnh. Cũng có thể do ăn uống thất thường làm tổn thương Tỳ Vị, đờm
thấp bên trong sẽ đình trệ, hoá thành hoả đưa lên thanh khiếu gây nên bệnh.
Nếu Can khí uất kết lâu ngày sẽ làm cho khí trệ, huyết ứ gây nên bệnh.
Triệu Chứng
+ Đờm Nhiệt Thượng Nhiễu: Đau đầu nhiều, nôn mửa, miệng khô
nhưng không thích uống, miệng nhạt, bụng đầy trướng, hồi hộp, mất ngủ,
nhiều ngày không đi tiêu được, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dầy, mạch Hoạt,
Huyền, Sác.


Điều trị: Thanh nhiệt, trừ đờm, thông kinh lạc, chỉ thống. Dùng bài
Hoàng Liên Ôn Đởm Thang gia giảm: Phục linh 12g, Hoàng liên, Trúc nhự,
Bán hạ, Trần bì, Đởm nam tinh, Chỉ thực, Xa tiền tử, Đại hoàng, Toàn yết,
Ngô công, Thương truật đều 9g.
(Đởm nam tinh, Phục linh, Trúc nhự, Bán hạ, Trần bì, Chỉ thực, Xa
tiền tử thanh nhiệt, hoá đờm; Bán hạ, Trần bì, Trúc nhự chỉ ẩu; Hoàng liên
thanh nhiệt ở Tâm, Can, Đởm và Vị; Phục linh, Thương truật, Xa tiền tử trừ
thấp trọc; Đại hoàng tả nhiệt, thông tiện; Toàn yết, Ngô công thông kinh lạc,
chỉ thống).
Không có táo bón, giảm hoặc bỏ Đại hoàng. Có dấu hiệu huyết ứ thêm
Đào nhân, Hồng hoa, Xích thược đều 9g.
Châm Cứu: Phong long, Nội đình, Trung quản, A thị huyệt bên đau,
Não hộ, Hậu đỉnh, Tứ thần thông, Tiền đỉnh, Thượng tinh.
(Phong long, Nội đình, Trung quản thanh nhiệt, hoá đờm, chỉ ẩu; A thị
huyệt bên đau, Não hộ, Hậu đỉnh, Tứ thần thông, Tiền đỉnh, Thượng tinh
thông kinh lạc, giảm đau ở đầu. Cũng có thể châm ra máu các huyệt A thị.
Nếu xuất huyết ít, chọn A thị huyệt vùng bệnh, còn nếu xuất huyết nhiều,
chọn huyệt vùng bệnh trên mạch Đốc. Cũng có thể vừa dùng A thị huyệt vừa
dùng huyệt trên mạch Đốc).
Miệng nhạt, kém ăn, bụng trướng thay Trung quản bằng Nội quan và
Công tôn. Đầu đau không chịu nổi thêm Trung chử, Ngoại quan. Mệt mỏi
thêm Túc tam lý.
+ Huyết Ứ Trở Kinh Lạc: Đầu đau lâu ngày trị không khỏi, đau cố
định một chỗ. Có cảm giác căng trướng, dễ tức giận, hông sườn đau tức, có
thể có tiền sử bị chấn thương đầu, lưỡi tím hoặc có nốt ứ huyết, mạch
Huyền, Sáp.
Điều trị: Hoạt huyết, khứ ứ, thông kinh lạc, chỉ thống. Dùng bài
Thông Khiếu Hoạt Huyết Thang gia giảm: Ngưu tất, Đương quy đều 15g,
Địa long 12g, Xuyên khung, Đoà nhân, Xích thược, Sinh địa, Khương hoạt
đều 9g, Đại hoàng (chưng rượu) 6g, Thông bạch 2 cọng.

(Ngưu tất, Xuyên khung, Đào nhân, Xích thược, Sinh địa, Đương quy,
Đại hoàng hoạt huyết, khứ ứ, chỉ thống; Địa long thông kinh hoạt lạc, chỉ
thống; Khương hoạt dẫn thuốc lên phần trên cơ thể, trị đau đầu; Sinh địa
dưỡng huyết, chỉ huyết; Thông bạch thông dương, thông kinh lạc).
Căng thẳng, dễ tức giận, hông sườn đau thêm Sài hồ, Bạch thược, Uất
kim. Nôn mửa thêm Bán hạ, Trần bì, Trúc nhự đều 9g. Đau đầu nhiều, thêm
Nhũ phương, Một dược đều 6g.
Châm Cứu: Thái xung, Hợp cốc, A thị huyệt bên đau, Não hộ, Hậu
đỉnh, Tứ thần thông, Tiền đỉnh, Thượng tinh.
(Thái xung, Hợp cốc hành khí, hoạt huyết, hoá ứ, chỉ thống; Thái
xung sơ Can, giải uất; A thị huyệt bên đau, Não hộ, Hậu đỉnh, Tứ thần
thông, Tiền đỉnh, Thượng tinh thông kinh lạc, giảm đau ở đầu. Cũng có thể
châm ra máu các huyệt A thị. Nếu xuất huyết ít, chọn A thị huyệt vùng bệnh,
còn nếu xuất huyết nhiều, chọn huyệt vùng bệnh trên mạch Đốc. Cũng có
thể vừa dùng A thị huyệt vừa dùng huyệt trên mạch Đốc).
Huyết ứ kèm đau đầu nhiều, thêm Tam âm giao, Trung chử. Nôn mửa
thêm Nội quan, Trung quản. Căng thẳng nhiều thêm Gian sử.
+ Can Hoả Thượng Cang: Đau đầu dữ dội, hầu như đau ở đỉnh đầu và
sau gáy. Bắt đầu đau ở đỉnh đầu dần dần ảnh hưởng đến sau gáy, có khi đau
trước trán, hố mắt hoặc đua lan hết đầu, đau không chịu nổi, dễ tức giận, nôn
mửa, cứng gáy, mất ngủ, bứt rứt, mặt đỏ, mắt đỏ, táo bón, nước tiểu vàng,
rêu lưỡi vàng dầy, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Thanh Can, tả hoả, thông kinh lạc, chỉ thống. Dùng bài Long
Đởm Tả Can Thang gia giảm: Cát căn15g, Hoàng cầm, Đương quy, Sinh địa
đều 12g, Chi tử (sao), Long đởm thảo, Hạ khô thảo, Cúc hoa, Câu đằng, Sài
hồ, Đơn bì, Xa tiền tử đều 9g.
(Hoàng cầm, Chi tử, Long đởm thảo, Hạ khô thảo, Cúc hoa, Câu đằng
thanh Can, tả hoả; sài hồ sơ Can, giải uất, hoá ứ; Cát căn giải cơ, thanh
nhiệt, chuyên dùng trị đau cơ vùng cổ gáy).
Ngủ nhiều thêm Thạch xương bồ, Uất kim, Viễn chí đều 9g để hoá

đờm, khai khiếu. Nói khó thêm Hoàng liên 9g để thanh Tâm hoả. Liệt chi
thêm Rang chi 30g, Ngưu tất 15g, Địa long 9g để khu phong, thông kinh lạc.
Co giật thêm Thiên ma, Cương tằm, Câu đằng đều 9g, Toàn yết 6g để khu
phong, chỉ thống.
Châm Cứu: Thái xung, Huyền chung, A thị huyệt bên đau, Não hộ,
Hậu đỉnh, Tứ thần thông, Tiền đỉnh, Thượng tinh.
(Thái xung, Huyền chung thanh Can, tả hoả; Thái xung cũng bình Can
để ngừa Can uất hoá hoả; Huyền chung là huyệt hội của tuỷ, châm để tả tuỷ
hải. A thị huyệt bên đau, Não hộ, Hậu đỉnh, Tứ thần thông, Tiền đỉnh,
Thượng tinh thông kinh lạc, giảm đau ở đầu. Cũng có thể châm ra máu các
huyệt A thị. Nếu xuất huyết ít, chọn A thị huyệt vùng bệnh, còn nếu xuất
huyết nhiều, chọn huyệt vùng bệnh trên mạch Đốc. Cũng có thể vừa dùng A
thị huyệt vừa dùng huyệt trên mạch Đốc).
Ngủ nhiều thêm Tam gian. Khó nói thêm Á môn. Co giật thêm Hợp
cốc.
Bệnh Án Xuất Huyết Dưới Màng Nhện
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q. Hạ)
Triệu XX, nữ, 11 tuổi. Vào viện ngày 10-11-1973. Giữa trưa hôm đó
bệnh nhi muốn ra ngoài chơi, đột nhiên hôn mê ngã lăn ra đất, nên, vội vàng
đưa đến bệnh viện cấp cứu. Khám thấy: thân nhiệt 3607 C, mạch đập 98
lần/phút, huyết áp 110/60 mmHg, bạch cầu 32.400/mm3, đang trong trạng
thái hôn mê, sắc mặt trắng bệch, phản xạ với ánh sáng chậm, cổ cứng, chân
tay lạnh, tim phổi gan lách không có gì khác thường. Cho tiêm Penixillin,
Gentamyxin và truyền dịch. Ngày thứ ba sau khi vào viện, bệnh tình vẫn
chưa đỡ, vẫn ở trạng thái nửa hôn mê, thân nhiệt 38,3 độ C, đồng tử bên phải
to hơn bên trái, phản xạ với ánh sáng chậm, rãnh mũi mép phía bên phải
nông, cổ cứng rõ rệt, Kerning và Brudzinski đều dương tính, phía bên phải
rõ rệt. Sau khi vào viện 4 ngày, tiến hành chọc ống sống, dịch não tuỷ có
máu, phần trên trong, có màu vàng nhạt, chẩn đoán lâm sàng là xuất huyết
dưới màng nhện. Đông y nhận định rằng chủ yếu là ứ huyết nội trở, tràn ra

thành bệnh, cần phải hành khí hoạt huyết, khử ứ sinh tân. Sau khi khám cho
dùng ‘Huyết Phủ Trục ? Thang’ (Đương quy 9g, Sinh địa hoàng 15g, Đào
nhân 15g, Hồng hoa 9g, Chỉ thực 9g, Xích thược 15g, Sài hồ 6g, Cam thảo
3g, Cát cánh 4,5g, Xuyên khung 4,5g, Ngưu tất 9g. Sắc uống, mỗi ngày 1
thang) Dùng thêm ít thuốc trấn tĩnh Aminazin, Luminal. Uống được 10
thang giảm nhiều đau đầu, các triệu chứng kích thích màng não đã hết, tinh
thần khá lên. Xét nghiệm lại dịch não tuỷ, các chỉ tiêu đều trở về bình
thường. Tiếp tục chăm sóc thì tình trạng cháu bé ổn định, bệnh khỏi. Ngày
17-12-1973 ra viện.
Bàn luận: Bài thuốc ‘Huyết Phủ Trục ? Thang’ nguyên lấy từ ‘Y Lâm
Cải Thác’, có tác dụng hoạt huyết hoá ứ, chủ trị ứ huyết ngng trở, kiêm can
khí uất trệ, có các triệu chứng như đau ngực, đau mạn sườn, đau đầu mất
ngủ, tim đập hồi hộp, hay tức giận, trong y văn đã ghi lại không ít người
dùng bài thuốc này để trị đau thắt ngực, các di chứng sau chấn động sọ não,
đều có kết quả tốt. Chúng tôi điều trị xuất huyết dưới màng nhện, đã quan
sát trên lâm sàng nhiều năm, thấy kết quả khả quan. Từ thực tế đó nhận thấy
rằng nếu bệnh ở giai đoạn đầu, thoạt tiên nên dùng ‘Tê Giác Địa Hoàng
Thang Gia Giảm’ để Lương huyết cầm máu, chờ bệnh tình ổn định, lại cho
dùng ‘Huyết Phủ Trục Ưù Thang’, thì kết quả sẽ lý tuởng.

×