Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - XƠ GAN ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.81 KB, 29 trang )

BỆNH HỌC THỰC HÀNH
XƠ GAN
Xơ gan là một bệnh mạn tính toàn thân tổn thương chủ yếu là cấu trúc
của gan bị biến dạng do sự tăng sinh và xơ hóa của tổ chức gan, hình thành
các cục tại mô gan. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chức năng gan giảm và
một loạt triệu chứng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Căn cứ vào các triệu
chứng lâm sàng khác nhau mà y học cổ truyền thường mô tả trong các
chứng: ‘Tích Tụ’, ‘Cổ Trướng’, ‘Phúc Trướng’ [Linh Khu], 'Thủy cổ" (Cảnh
Nhạc Toàn Thư)
Nguyên Nhân
Những nguyên nhân thường gặp theo y học hiện đại là:
l. Viêm gan do vi rút.
2. Nhiễm bệnh hấp huyết trùng (gặp nhiều ở Trung Quốc).
3. Dinh dưỡng kém và nghiện rượu.
4. Nhiễm độc hóa chất như Thạch tín Hoặc do tắc mật kéo dài gây
xơ gan, thường rất ít gặp.
Theo y học cổ truyền thì sự hình thành của xơ gan có liên quan đến 3
tạng Can, Tỳ và Thận. Nguyên nhân chính là do khí trệ, huyết ứ, thủy thấp ứ
đọng trong cơ thể dẫn đến làm hư tổn thận âm, thận dương. Có thể giải thích
cơ chế các triệu chứng bệnh lý như sau: Chứng hoàng đản và tích tụ trực tiếp
ảnh huởng đến tạng Can. Can tàng huyết, thích sơ tiết, bệnh lâu ngày, Can
không được thông điều sinh ra can khí uất sẽ ảnh hưởng đến chức năng của
tỳ vị (can vị bất hòa, tỳ vị hư nhược). Trên lâm sàng thường có các triệu
chứng như ngực sườn đầy tức, ợ hơi, nôn, buồn nôn, chán ăn, tiêu lỏng
bệnh lâu ngày khí trệ sinh ra huyết ứ, biểu hiện các triệu chứng mạn sườn
đau tức tăng cố định, môi lưỡi tím thâm, các hội chứng ứ huyết, xuất huyết.
Mặt khác, nếu do ăn uống thiếu thốn thất thường, nghiện rượu quá độ cũng
làm tổn thương tỳ vị, chức năng tỳ vận hoá kém nội sinh thấp nhiệt, tân dịch
bị tổn thương. Nếu cảm nhiễm trùng độc hoặc hóa chất độc hại cũngđều do
tác hại can tỳ mà sinh bệnh. Bệnh lâu ngày sẽ tổn hại thận, thận dương hư
tiểu khó khăn, phù


và cổ trướng nặng hơn, thận âm hư dẫn tới can thận âm hư, can hỏa
vượng, can huyết hao tổn, can phong động sinh co giật hôn mê Tóm lại
bệnh xơ gan giai đoạn đầu chủ yếu là tổn thương can tỳ, khí ứ, huyết trệ, vào
glai đoạn cuối tạng thậân cũng bị tổân thương sinh ra tỳ thận dương hư và
can thâïn âm hư, bệnh trầm trọng và khó trị.
Triệu Chứng
- Giai đoạn bắt dầu: Chức năng gan còn bù trừ, triệu chứng lâm sàng
thường không rõ hoặc rất nhẹ, chủ yếu triệu chứng rối loạn tiêu hóa như ăn
không biết ngon, tiêu lỏng, người bệnh cảm thấy mệt mỏi, đau nhẹ, hơi tức
vùng bụïng trên bên phải hoặc đầy bụng, nôn hoặc buồn nôn. Khám gan hơi
to (có thể không to), có bệnh nhân lách to. Chức năng gan bình thường hoặc
hơi suy giảm, có thể khám kỹ phát hiện điểm ứ huyết, mạch sao mà xác định
bệnh.
- Giai đoạn toàn phát: Chức năng gan suy giảm rõ. Lâm sàng biểu
hiện triệu chứng rối loạn tiêu hóa tăng, mạn sườn bên phải đau rõ, sụt cân,
da xạm, có bệnh nhân vàng da, vàng mắt, điểm ứ huyết, mạch sao ở mặt,
ngực, tay, vai, cổ . hoặc có hiện tượng giãn mao mạch, bàn tay, đầu ngón
tay đỏ mập lên, chân răng, mũi, trĩ, xuất huyết, tiêu có máu, phụ nữ kinh
nguyệt nhiều kéo dài, hoặc có triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp,
ít ngủ, chân tay tê dại, ngứa, tiểu ít, hoặc tiểu khó, cổ chân phù, bụng có
nước nhẹ. Khám gan thấy có thể eo nhỏ hoặc to dưới bờ sườn, bờ sắc cứng.
- Giai doạn cuối: Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch rõ: cổ trướng, da
bụng bóng, tuần hoàn bàng hệ, tiểu rất ít hoặc vô niệu, khó thở, người gầy,
sắc mặt xạm tối, da mặt vàng đậm, bệnh nặng có xuất huyết tiêu hóa, tinh
thần lờ đờ, buồn ngủ hoặc hưng phấn, hốt hoảng, hôn mê gan
Chẩn Đoán
Chủ yếu là cần có sự chẩn đoán sớm qua những lần khám sức khỏe có
định kỳ, chú ý những người có tiền sử bệnh gan vàng da, điều kiện dinh
dưỡng kém, nghiện rượu, sống ở vùng có bệnh sốt rét, giun móc, công việc
có tiếp xúc với hóa chất độc

Chẩn đoán xơ gan căn cứ vào các mặt sau:
1. Tiền sử bệnh: Mắc bệnh viêm gan vi rút, hấp huyết trùng, sốt rét,
bệnh gan mật, vàng da, điều kiện dinh dưỡng kém, nghiện rượu, suy tim
phải kéo dài.
2. Gan lách to lúc mới mắc, gan to, mặt vùng gan nhẵn, hơi cứng, thời
kỳ cuối gan co nhỏ, cứng, bề mặt lồi lõm, có hòn cục, thường ấn đau không
rõõ rệt, lách to hoặc rất to nếu có xuất huyết tiêu hóa thường lách nhỏ lại.
3. Chức năng gan suy giảm.
4. Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
5. Kết quả sinh thiết: cấu trúc gan biến dạng, tăng sính tổ chức và sự
hình thành các cục ở mô gan.
Căn cứ vào nguyên nhân xơ gan trên lâm sàng thường chia gan do
viêm gan, xơ gan do rượu, xơ gan do mật, xơ gan do tim, xơ gan do sắc tố,
xơ gan do hấp huyết trùng, do sốt rét
Một số kết quả xét nghiệm và các phương pháp kiểm tra khác có thể
tham khảo trong chẩn đoán.
a. Số lượng tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu đều giảm, tế bào non
của tủy tăng.
b. Nước tiểu có anbumin và trụ niệu.
c. Albumin huyết thanh giảm, Globulin huyết thanh tăng, tỷ lệ A/G
giảm hoậc nghịch đảo, điện di protein có gamma-globulin tăng cao, bêta-
globulin tăng vừa, albumin nhất là anbumin tiền huyết thanh giảm.
d. Phản ứng kết tủa và lên bông: EnTT, CCFT, TTT, TFT đều dương
tính, bilirubin huyết thanh cao quá 2mg%, SGPT và SGOT đều tăng đều
có thể giúp chẩn đoán nhưng không có tính đặc hiệu.
e. Đối với xơ gan do mật, Cholesteron tăng cao, bình thường hoặc hơi
thấp, nếu Cholesteron thấp rõ nói lên tiên lượng là không tốt.
f. Tiền hôn mê gan, Ammoniemia cao, vào giai đoạn cuối xơ gan thời
gian prothrombin kéo dài rõ.
g. Trong bệnh xơ gan, AFT tăng cao.

h. Lúc cần và có điều kiện làm thêm siêu âm gan, chụp thực quản, soi
dạ dày ổ bụng. để giúp chẩn đoán.
Điều Trị
Theo sự phân tích về cơ chế sinh bệnh và theo y học cổ truyền thì
trong bệnh xơ gan, bệnh lý chủ yếu là can huyết ứ trệ, cho nên phép chữa
chính là hoạt huyết hóa ứ và trong quá trình điều trị cần phân biệt rõ các mặt
tiêu bản, hư thực, hoãn cấp để chọn phép chữa thích hợp, chủ yếu theo 3 giai
đoạn bệnh mà biện chứng luận trị.
l- Giai Đoạn Đầu: Bệnh mới bị, bệnh nhân còn khỏe.
Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ kiêm điều can lý tỳ. Dùng bài Huyết Phủ
Trục Ứ Thang gia giảm: Đương quy 12- 16g, Xuyên Khung 8g, Chỉ xác 8g,
Xuyên sơn giáp (nướng) 12g, Sinh địa hoàng 12g, Đào nhân 8 - 12g, Sài hồ
8- 12g, Ngũ linh chi 6-8g, Xích thược 8- 12g, Hồng hoa 6- 10g, Đơn sâm
12g, Miết giáp 12- 16g.
Gia giảm: Mệt mỏi nhiều, thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật,
Bạch linh để ích khí kiện tỳ. Ăn ít, bụng đầy, bỏ Miết giáp thêm Mạch nha,
Sơn tra, Thần khúc để tiêu thực. Miệng khô, tiêu ít, vàng, da nóng, vàng da,
rêu lưỡi vàng dày, mạch Sác có triệu chứng thấp nhiệt, bỏ Miết giáp, Đào
nhân, Hồng hoa thêm Nhân trần, Chi tử, Liên kiều, Xa tiền, Trạch tả Có
triêïu chứng hư nhiệt như sốt lòng bàn chân, bàn tay nóng, lưỡi thon đỏ,
mạch Tế Sác, bỏ Đào nhân, Hồng hoa thêm Tri mẫu, Địa cốt bì, Hạn liên
thảo, Mạch môn, Ngũ vị tử để thanh hư nhiệt. Ngủ kém thêm Táo nhân
sao, Bá tử Nhân để dưỡng tâm, an thần.
2. Giai Đoạn Toàn Phát: Chức năng gan suy giảm, cơ thể bệnh nhân
yếu, đau hoặc không nhưng có phù, bụng đầy, có nước, vùng gan đầy tức
bệnh biểu hiện hư thực lẫn lộn.
Điều trị: Sơ can, hoạt huyết, kiện tỳ, lợi thủy. Dùng bài Tiêu Dao Tán
thêm Ngũ Bì Ẩm gia giảm: Sài hồ 12 - 16g, Bạch truật 12g, Đan sâm 12g,
Đại phúc bì 8 - 10g, Đương qui 12 - 16g, Bạch linh 12g, Chỉ thực 8g, Tang
bạch bì 12g, Xích thược 10g, Đảng sâm 12g, Trần bì 8g, Gừng tươi 3 lát.

Gia giảm: Mạn sườn đau nhiều, gan lách to, có nốt ứ huyết thêm
Đương quy vĩ, Xuyên sơn giáp, chế Hương phụ, Uất kim để tăng thêm tác
dụng hành khí, hoạt huyết. Có triệu chứng huyết hư thêm Bạch thược, Thục
địa, Hà thủ ô, Kỷ tử, Hoa hòe để bổ huyết, chỉ huyết. Can thận âm hư, sốt
nhẹ, lòng bàn chân tay nóng, chất lưỡi thon đỏ, mạch Huyền Tế cần thêm
thuốc tư dưỡng can thận như Sa sâm, Mạch môn Ngũ vị tử, Sinh địa, Nữ
trinh tử, Câu kỷ tử, Bạch thược, Hạn liên thảo
3. Giai đoạn cuối: Đến giai đoạn cuối thì cơ thể người bệnh đã quá
suy yếu do chính khí hư nhưng cổ trướng lại tăng (tà khí thực) nên phép
chữa phải dùng vừa công vừa bổ, cần chú ý nắm nguyên tắc ‘cấp trị tiêu,
hoãn trị bản’, phép trị bản chủ yếu bổ khí huyết, sơ Can, kiện tỳ. Trị tiêu chủ
yếu là công trục cổ trướng
Phép trị: Bổ khí huyết. Dùng bài Bát Trân Thang, Thập Toàn Đại Bổ
gia giảm tùy tình hình bệnh.
Đảng sâm 12g, Bạch truật 30-60g, Kỷ tử 12-20g Đơn sâm 12-20g,
Hoàng kỳ 12g, Đương quy 12-20g, Sơn dược 12- 16g, Xa tiền tử 12-20g,
Bạch phục linh 12g, Bạch thược 12-20g, Ý dĩ nhân 12-20g Chích thảo 4-8g.
Gia giảm: Tỳ thận dương hư, ăn kém, tiêu lỏng, mặt xạm, lưng đau,
bàn chân phù, chân tay lạnh, lưỡi bệu, rêu trắng, mạch Trầm, Trì, Huyền,
cần ôn bổ tỳ thận, dùng bài thuốc gồm các vị chế Phụ tử, Nhục quế, Xuyên
ngưu tất, Phòng kỷ, Can khương, Bạch linh, Bạch truật, Trạch tả Trường
hợp can thận âm hư, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, mắt khô, ít ngủ, lưỡi đỏ, ít
rêu, mạch Huyền Tế Sác cần tư dưỡng can thận, dùng bài thuốc gồm các
vị: Hà thủ ô, Kỷ tử, Sinh địa, Mạch môn, Sa sâm, Thạch hộc, Đan sâm, Kê
huyết đằng, Quy bản, Miết giáp Trường hợp xuất huyết nhiều (nôn ra máu
hoặc tiêu ra máu, hôn mê gan, cần xử trí cấp cứu kết hợp Đông Tây Y).
Trường hợp cổ trướng nặng gây nên khó thở cần công trụïc cổ trướng,
có thể dùng một trong những bài sau: Bị Cấp Hoàn (Ba đậu bỏ vỏ, ép hết
dầu, Đại hoàng, Can khương, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột mịn, luyện
mật ong, làm viên), mỗi lần uống 1-2g với nước ấm. Ngũ Công Tán (Khiên

ngưu tử 120g, Tiểu hồi hương 30g, tán bột, làm viên. Mỗi lần uống l,5-3g,
nuốt ngày 1-2 lần. Gia Vị Thập Táo Thang: Đại kích (chế dấm), Nguyên
hoa, Cam toại, Hổ phách, Trầm hương, Hắc Bạch sửu, lượng bằng nhau, tán
bột mịn, trộn đều) mỗi lần uống l,5-3g với nưóc sắc Táo tàu. Chu Xa Hoàn
(Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, Đại hoàng, Hắc sửu, Mộc hương, Trần bì,
Thanh bì, Khinh phấn, Binh lang). Mỗi lần uống 07,5 – 1g.
Chú ý đối với những bệnh nhân có xuất huyết, có bệnh tim, người
bệnh quá suy kiệt, không nên dùng phép trục thủy. Lúc dùng phép trục thủy
nên kết hợp Tây y truyền dịch để tránh được trạng thái mất nước tổn hại
chân âm. Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểâu Đậu Thang: Cá chép 1 con
500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu
chín nhừ lọc qua vải lấy nước uống, ngày uống 1 thang, uống liền trong 2-3
tuần có kết qủa tốt.
MỘT SỐ BÀI THUỐC KINH NGHIỆM TRỊ XƠ GAN
+ Kiện Tỳ Hoạt Huyết Thang (Lưu Hào Giang, bệnh viện Ung thư
Nam Thông, tỉnh Giang Tô): Sơn dược, Biển đậu, Ý dĩ, Đơn sâm, Xích
thược đều 30g, Thần khúc, Cốc nha, Mạch nha, sinh Bồ hoàng đều 10g, Tam
lăng, Nga truật đều 15-30g, sắc uống (trị xơ gan giai đoạn đầu).
Khí hư thêm Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 10g. Huyết hư thêm Thục địa,
Đương qui đều 10g. Âm hư thêm Nam sa sâm, Mạch môn đều 10g. Dương
hư thêm Thục phụ phiến 10g, Can khương 3g. Vùng gan đau thêm Kim linh
tử, Diên hồ sách đều 10g. Nôn, buồn nôn thêm Đại giả thạch 30g, Tuyền
phúc hoa 10g. Chảy máu mũi thêm Tiên hạc thảo 30g, Trắc bá diệp sao cháy
10g.
Kết quảù lâm sàng: Trị 42 ca, khỏi 22 ca, kết quả tốt 11 ca, tiến bộ 5
ca, không kết quả 4 ca, tỷ lệ kết quả 90,5%.
+ Hộ Can Thang (Hình Bỉnh Vinh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc): Bạch
truật, Hoàng kỳ, Hổ trượng, Bình địa mộc đều 20g, Sơn dược, Sinh ý dĩ,
Biển đậu, Đơn sâm, đều 30g, Sao Mạch nha, sao Thần khúc sao Sơn tra đều
10g, Quy vĩ 15g, sắc uống.

Âm hư thêm Hà thủ ô 30g, Mạch môn 20g. Huyết hư thêm Thục địa
15g, Kê huyết đằng 30g. Khí hư thêm Đảng sâm 20g, Thái tử sâm 30g.
Dương hư thêm Phụ phiến 10g, Can khương 3g. Xuất huyết thêm Mao căn
30g, Tiên hạc thảo 30g. Vùng gan đau thêm Kim linh tử 10g, tiêu Địa long
10g, Sài hồ 5g, Diên hồ sách 10g
- Kết quả lâm sàng: Trị 37 ca, sau 3-6 tháng, khỏi 18 ca, tốt 11 ca, có
kết quả 4 ca, không kết quảû 4 ca, tỷ lệ có kết qủa 88,57%.
+ Tiêu Trưng Hoàn (Vương Kiện Trung, tỉnh Hồ Bắc): Địa Miết trùng
100g, Bào sơn giáp 100g, Thủy điệt 75g, Đại hoàng 50g, tán bột, hồ làm
hoàn (có thể trộn nước làm hoàn).
Dùng bài thuốc theo biện chứng gia giảm, trường hợp có xuất huyết
uống thuốc cầm máu, hết xuất huyết tiếp tục dùng.
Kết quả lâm sàng: Trị 40 ca, khỏi 11 ca, cơ bản khỏi 13 ca, tiến bộ 12
ca, không khỏi 4 ca, tỷ lệ có kết quả 90%.
+ Hoạt Can Thang (Vương Thanh Chính, huyện Quý Định, tỉnh Quý
Châu): Kim tiền thảo, Phục linh đều 30g, Sơn giáp (nướng) 10g, Trạch Lan
10g, Đại phúc bì 12g, Đơn sâm, Sơn dược, Trạch tả, Hoàng kỳ đều 15g, sắc
uống.
Tỳ hư, thấp nặng thêm Thương truật, Hậu phác, Ý dĩ. Can khí uất bỏ
Hoàng kỳ thêm Sài hồ, Bạch thược, Chỉ xác, Hương phụ. Khí trệ huyết ứ bỏ
Hoàng kỳ, Sơn dược thêm Tam lăng, Nga truật đều 2g, Miết giáp 30g, Đào
nhân 12g. Tỳ thận dương hư kết hợp bài Phụ Tử Lý Trung Thang.
- Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, tốt 35 ca, tiến bộ 14 ca, không kết quả 1
ca.
+ Kiện Tỳ Nhuyễn Can Thang (Chu Minh Liệt, bệnh viện nhân dân Sa
Thị số 3, tỉnh Hồ Bắc): Sài hồ, Bạch truật, Ngũ linh chi, Bạch linh, Địa long,
Đan sâm đều 15g, Thanh bì, Chỉ xác, Bồ hoàng đều 12, Thuyên thảo 10g,
Chích Miết giáp 20g, Kê nội kim 8g, Bạch mao căn 30g, Cam thảo 5g, sắc
uống.
Biện Chứng gia giảm: Bụng đầy, ăn ít thêm Sa nhân 10g, Sơn tra,

Mạch nha, Cốc nha 15g. Bụng có nước thêm bột Nhị sửu sao 10- 15g, sao
Sa nhân 8- 10g, Xa tiền tử 15-20g. Bụng có tuần hoàn bànb hệ (ứ huyết)
thêm Xích thược, Uất kim đều 15g, Tam lăng, Nga truật 12- 15g. Có mạch
sao và lòng bàn tay đỏ thêm Sinh địa 15g, Xích thược 15g, Đào nhân 2g,
Hồng hoa 10g, Kê huyết đằng 20g. Tiêu lỏng thêm Thương truật 15g, Hoắc
hương 10g, Thần khúc 15g, Trạch tả 12g. Gan lác to thêm Thổ miết trùng
10g, Quế chi 10g, Xạ can l2g.
- Kết quả lâm sàng: Trị 83 ca, hết triệu chứng lâm sàng, chức nâng
gan hồi phục bình thường.
Kiện Tỳ Phân Tiêu Thang (Lữ Vân Kiếm, bệnh viện Trung y Hạ Ấp,
tỉnh Hà Nam):
(1) Hoàng kỳ, Sơn dược, Đơn sâm đều 20g, Ý dĩ nhân, Xa tiền tử (bọc
sắc), Đại phúc bì đều 30g, Đảng sâm, Phục linh, Bạch truật, Tiên linh tỳ,
Miết giáp đều 15g, Uất kim, Thanh bì, Trần bì đều 12g, Phụï tử, Cam thảo
đều 6g sắc uống.
(2) Cam toại, Nhị sửu đều 6g, Phụ tử, Nhục quế đều 10g, Nước Gừng
tươi lượng vừa đủ, thuốc đều tán thành bột mịn, cho gừng trộn đều, cho vào
vải gạc, thêm nước gừng thành dạng hồ, đắp vào rốn bệnh nhân, mỗi ngày
thay 1 lần. 10 ngày là 1 liệu trình.
- Biện chứng gia giảm: Chỉ số hoàng đản tăng, dùng bột Tử ha xa, Lộc
nhung. Tiểu cầu giảm, thời gian máu đông, máu chảy kéo dài thêm Hạn liên
thảo, Nữ trinh tử, Tiên hạc thảo. Amoniac huyết tăng thêm Đại hoàng,
Xương bồ, Giáng hương. SGPT tăng cao thêm Bồ công anh, Hạ khô thảo.
HBsAg dương tính thêm Thổ phục linh, Hổ trượng, Quán chúng. Ăn kém
thêm sao Mạch nha, sao Thần khúc, sao Sơn tra, Kê nội kim. Âm hư thêm
Bắc sa sâm, Mạch đông, Cát căn, bỏ Phụ tử, Tiên linh tỳ.
Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, khỏi 8 ca, tốt 29 ca, có kết quả 10 ca,
không kết quả 3 ca, tỷ lệ có kết quả 94%.
Tam Giáp Phục Can Hoàn (Trương Húc Đông, bệnh viện Trung y
Chu Châu tỉnh Hồ Nam): Chích Miết giáp, bào Giáp châu, Quy bản, A giao,

Hoài sơn, Đương quy, Sinh hoàng kỳ, Ý dĩ, Phục linh đều 150g, Kê nội kim
100g, Trầm hương 75g, tất cả thuốc trên tán bột mịn, mật vừa đủ làm hoàn.
- Biện chứng gia giảm: Can khí uất trệ, dùng Tiêu Dao Tán gia giảm.
Huyết ứ, thủy trệ, dùng Đại Hoàng Miết Trùng Hoàn gia giảm. Thấp nhiệt ứ
trệ dùng Nhân Trần Tứ Linh Tán hợp Tam Nhân Thang gia giảm. Can thận
âm hư gia Lục Vị Địa Hoàng Hoàn gia giảm.
- Kết quả lâm sàng: Trị 40 ca, kết quả tốt 24 ca, tiến bộ 10 ca, không
kết quả 6 ca. Đối với xơ gan, bài này làm tăng tác dụng thuốc tây lợi tiểu.
Hoàng Kỳ Nga Truật Thang (Trung Y Tạp Chí (7) 1990): Hoàng kỳ
(sống) 20g, Nga truật 30g, Bạch truật (sao) 15g, Hồng hoa 20g, Sài hồ (tẩm
dấm) 10g, Bạch phàn 2g, Địa miết trùng 10g, Cam thảo (sống) 12g. Sắc
uống ngày 1 thang.
TD: Sơ Can lý khí, hoạt huyết hóa ứ. Trị xơ gan giai đoạn đầu.
Đã trị 78 ca, có hiệu qủ 37, chuyển biến tốt 33, không hiệu quả 8. Tỉ
lệ đạt kết quả là 89,7%.
Lợi Thủy Tiêu Trướng Thang (Thiểm Tây Trung Y (5) 1981): Bạch
truật, Thương truật, Sa nhân đều 10g, Thanh bì, Trần bì, Hâïu phác, Chỉ thực
đều 9g, Hương phụ, Mộc hương đều 6g, Phục linh, Đại phúc bì, Trư linh,
Trạch tả đều 15g, Ý dĩ nhân 6g, Sinh khương 3 lát.
TD: Nhu Can lý khí, kiện Tỳ lợi thấp. Trị xơ gan, bụng trướng nước.
Đã trị 20 ca đều có kết quả tốt.
Lý Khí Trục Thủy Thang (Hồ Bắc, Trần Đống Tổ Truyền Bí
Phương): Thanh bì, Trần bì, Chỉ xác, Mộc hương, Hậu phác, Binh lang
(phiến), Địa phu tử đều 9g, Phục linh 30g, Đại kích, Cam toại.
Thuốc sắc. Còn Đại kích, Cam toại, tán bột, trộn đều chia làm 4 phần,
lần đầu 1,5g, 3g,, 4,5g, 6g.
TD: Lý khí, trục thủy. Trị xơ gan giai đoạn đầu.
GC: Sau khi uống thuốc, có thể đi tiêu 3-5 lần, thường ra nước mầu
đen.
Đã trị hàng trăm ca đều có kết quả tốt.

Tiêu Trùng Ẩm (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đảng sâm,
Đương quy đều 15-20g, Bạch truật 30-100g, Phục linh 20-30g, Sài hồ 6g,
Xích thược, Đại phúc bì đều 10-15g, Địa khô lâu 40-60g. Sắc uống.
TD: Kiện Tỳ ích Can, hòa Can hoạt huyết, lý khí tiêu trướng, trục
thủy đạo trệ. Trị xơ gan, bụng trướng nước. Lâm sàng cho thấy đạt hiệu quả
khả quan.
Thanh Nhiệt Đạt Uất Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương):
Đại sinh địa 35g, Công đinh hương, Can khương, Viễn chí (sống), Hoàng
cầm, Quế chi, Bồ công anh đều 10g, Tri mẫu 20g, Cam thảo 8g, Đại táo 10
trái. Sắc uống.
TD: Bình điều âm dương, thanh nhiệt đạt uất. Trị xơ gan, bụng nước,
bế kinh, không thụ thai. Lâm sàng cho thấy đạt hiệu quả khả quan.
Bệnh Án Xơ Gan Giai Đoạn Đầu
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Hoạn X, nam, 42 tuổi, cán bộ. Bệnh nhân kể đã 6 năm có gan to, vùng
gan đau với bệnh viêm gan không rõ rệt. Có bộ mặt đau gan mạn tính, trên
mặt có các u mạch hình sao, củng mạc không nhiễm vàng, vùng lá gan và
bụng mềm, bờ gan ở dưới bờ sườn 2 khoát ngón tay, thể chất trung bình, mặt
gan nhẵn không gồ ghề, chưa sờ thấy lách, chưa có cổ trướng. Xét nghiệm
chức năng gan chưa thấy biến đổi rõ rệt, tỉ số albumin, globulin là 1,3/1.
Chẩn đoán lâm sàng là xơ gan giai đoạn sớm.
Hội chẩn đông y: thấy vùng gan đau, ăn không ngon, bụng đầy, miệng
khô, buồn nôn, trong lòng bứt rứt không yên, chân phù nhẹ, tiểu tiện vàng
đỏ, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch Tế Huyền hơi sác. Trị bằng
phép dưỡng âm nhu can, sơ can hoạt lạc. Cho dùng bài Nhất Quán Tiễn Gia
Vị (Sinh địa hoàng 15g, (Nam) Sa sâm 12g, (Thốn) mạch đông 9g, Qui thân
9g, Cam kỉ tử 9g, Xuyên luyện tử 6g, Tử đan sâm 6g, Quảng uất kim 9g,
Sinh mạch nha 12g, Sinh miết giáp 12g, Phấn trư linh 12g, Xuyên liên 3g.).
Tùy bệnh chứng mà gia giảm, trước sau dùng tất cả 35 thang, đồng thời
dùng phối hợp các thuốc tây bảo vệ gan, sau khi dùng thuốc thì cảm thấy các

chứng cơ bản đều hết, sắc mặt từ chỗ gụ xám trở thành có thần sắc, gan mềm
đi, điện di protein bình thường. Sau khi ra viện 2 năm, hỏi lại tình trạng cơ
thể vẫn giữ được ổn định, bệnh chưa phát triển lại.
Bệnh Án Xơ Gan Do Mỡ
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Vương X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Người bệnh thân thể béo như phù,
bụng to như cái chum, da thịt sờ như bông, đầu váng mắt hoa, sức yếu, lời
nói, sắc mặt trắng bệch, mắt màu đen xám, chất lưỡi non bệu, có điểm ứ
huyết mà xám xanh, rêu lưỡi trắng, dày mà cáu, tiếng nói hơi yếu. 5-6 năm
trước bị đau sườn bụng trên, tức ngực, hơi thở ngắn, rêu trắng dày cáu, ăn ít,
mệt nhọc, tim đập, sợ rét. Qua kiểm tra ở một bệnh viện, chẩn đoán là viêm
gan mạn tính kèm xơ cứng động mạch. Đã từng nằm viện điều trị nhiều lần,
thể trọng tăng, gan to xuống dưới bờ sườn 4 khoát ngón tay, huyết áp
140/100mmHg. Về sau vẫn tiếp tục điều trị, nhưng bệnh vẫn nặng lên. Lại đi
khám ở bệnh viện khác, chẩn đoán là xơ gan do mỡ kèm bệnh tăng huyết áp.
Chứng này là do can ứ, tì thấp, dương khí bất túc, mỡ đờm ứ kết mà thành
bệnh. Cách chữa phải sơ can kiện tì, hóa thấp tiêu mỡ, khử đờm, trợ dương.
Dùng bài thuốc Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị (Sơn tra sống, chín mỗi thứ
120g, Mạch nha sao 21g, Thanh bì, Trần bì mỗi thứ 9g, Khương hậu phác
12g, Trạch tả 15g, Quế chi non 9g, Hương phụ sao dấm 15g, Cam thảo 6g.).
Sau ba thang, trung tiện nhiều, thối, nước tiểu nhiều, vẩn đục, đi ngoài phân
như nước tương, bụng bớt sôi, bớt trướng, hết rêu lưỡi, lượng ăn tăng, người
cảm thấy thoái mái nhẹ nhõm. Còn các chứng khác vẫn như trước. Dùng tiếp
6 thang bài thuốc trên, tăng lượng Sơn tra lên đến 180g, thêm Phụ tử phiến
9g, uống xong người bệnh bớt béo bệu, bụng nhỏ bớt nhiều, tứ chi và bụng,
lưng trở nên ấm áp, tiểu tiện nhiều, đại tiện thông thoát, hết lưỡi nhợt, hết
rêu, mạch Trầm Hoãn. Đó là do tiêu đạo thái quá, sợ làm tổn thương trung
khí, nên dùng phép phù chính khử tà. Cho bài thuốc gồm: Đảng sâm 15g,
Bạch truật 18g, Vân phục linh 30g, Trần bì 9g, Bán hạ 9g, Hoàng kỳ 21g, Đ-
ơng qui 9g, Thăng ma 3g, Sài hồ 9g, Nhục quế 3g (uống với nớc thuốc),

Bạch thược 15g, Tiêu sơn tra 90g, Hương phụ 15g, Đan sâm 15g, Cam thảo
3g, Uống liền 3 thang, tinh thần phấn chấn, cử động mạnh mẽ, bớt váng đầu,
hết tim đập thở gấp, huyết áp 120/80mmHg, da cơ khỏe khoắn, ngủ tốt, lưỡi
hồng nhạt, hết điểm ứ huyết mạch Phù Hoãn. Nên "kiện tì lợi thấp, ôn hóa
đờm ẩm, giải cơ tiêu mỡ". Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, bỏ
Thần khúc, Mạch nha, Thanh bì, thêm Ma hoàng 3g, Khương bì 15g sắc n-
ước âm dương uống cho ra mồ hôi. Uống hết 2 thang chưa ra mồ hôi, sau
khi uống thang thứ 3, cho uống thêm 1 bát to Thông bạch thang nóng, mồ
hôi ra nhiều như dầu, dính, tanh, nặng mùi, ướt hết chăn đệm, trung tiện
nhiều. Hôm sau ngủ dậy, người nhẹ nhõm vô cùng, béo bệu giảm đi hơn một
nửa, bụng ngực hết đầy, nước tiểu nhiều, vẩn đục. Sờ gan chỉ còn dưới bờ
sườn nửa khoát ngón tay, cơn đói khát ăn tăng lên, sắc mặt trở nên nhuận
bóng, lưỡi đỏ hết rêu, mạch Hoãn Nhược, ngoài mệt mỏi ra các chứng bệnh
đều hết. Lại dùng Sài Thược Lục Quân Tử Thang, thêm Hoàng kỳ, Đương
qui, Đan sâm, Hương phụ, Quế chi, cho uống mấy thang để củng cố về sau.
Theo dõi nhiều năm sau khi khỏi bệnh, thấy vẫn công tác bình thường, sức
khỏe tốt.
Bàn luận: Đa số bệnh mạn tính cố tật thường chữa sai, dùng phương
dược sai, xơ gan do mỡ cũng do lúc đầu chữa không đúng nên bệnh kéo dài,
chữa khó khăn. Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, gia giảm theo tình
hình cụ thể của người bệnh đã chữa khỏi 2 ca xơ gan do mỡ, 4 ca béo bệu.
Bệnh Án Xơ Gan Sau Hoại Tử
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Vương X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Người bệnh thân thể béo như phù,
bụng to như cái chum, da thịt sờ như bông, đầu váng mắt hoa, sức yếu, lời
nói, sắc mặt trắng bệch, mắt màu đen xám, chất lưỡi non bệu, có điểm ứ
huyết mà xám xanh, rêu lưỡi trắng, dày mà cáu, tiếng nói hơi yếu. 5-6 năm
trước bị đau sườn bụng trên, tức ngực, hơi thở ngắn, rêu trắng dày cáu, ăn ít,
mệt nhọc, tim đập, sợ rét. Qua kiểm tra ở một bệnh viện, chẩn đoán là viêm
gan mạn tính kèm xơ cứng động mạch. Đã từng nằm viện điều trị nhiều lần,

thể trọng tăng, gan to xuống dưới bờ sườn 4 khoát ngón tay, huyết áp
140/100mmHg. Về sau vẫn tiếp tục điều trị, nhưng bệnh vẫn nặng lên. Lại đi
khám ở bệnh viện khác, chẩn đoán là xơ gan do mỡ kèm bệnh tăng huyết áp.
Chứng này là do can ứ tì thấp, dương khí bất túc, mỡ đờm ứ kết mà thành
bệnh. Cách chữa phải sơ can kiện tì, hóa thấp tiêu mỡ, khử đờm, trợ dương.
Dùng bài thuốc Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị. Sau ba tháng, trung tiện
nhiều, thối, nước tiểu nhiều, vẩn đục, đi ngoài phân như tương, bụng bớt sôi,
bớt trướng, hết rêu lưỡi, lượng ăn tăng, người cảm thấy thoái mái nhẹ nhõm.
Còn các chứng khác vẫn như trước. Dùng tiếp 6 thang bài thuốc trên, tăng
lượng Sơn tra lên đến 180g, thêm Phụ tử phiến 9g, uống xong người bệnh
bớt béo bệu, bụng nhỏ bớt nhiều, tứ chi và bụng, lưng trở nên ấm áp, tiểu
tiện nhiều, đại tiện thông thoát, hết lưỡi nhợt, hết rêu, mạch Trầm Hoãn. Đó
là do tiêu đạo thái quá, sợ làm tổn thương trung khí, nên dùng phép phù
chính khử tà. Cho bài thuốc gồm: Đảng sâm 15g, Bạch truật 18g, Vân phục
linh 30g, Trần bì 9g, Bán hạ 9g, Hoàng kỳ 21g, Đơng qui 9g, Thăng ma 3g,
Sài hồ 9g, Nhục quế 3g (uống với nớc thuốc), Bạch thược 15g, Tiêu sơn tra
90g, Hương phụ 15g, Đan sâm 15g, Cam thảo 3g, Uống liền 3 thang, tinh
thần phấn chấn, cử động mạnh mẽ, bớt váng đầu, hết tim đập thở gấp, huyết
áp 120/80mmHg, da cơ khỏe khoắn, ngủ tốt, lưỡi hồng nhạt, hết điểm ứ
huyết mạch Phù Hoãn. Nên "kiện tì lợi thấp, ôn hóa đờm ẩm, giải cơ tiêu
mỡ". Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, bỏ Thần khúc, Mạch nha,
Thanh bì, thêm Ma hoàng 3g, Khương bì 15g sắc nước âm dương uống cho
ra mồ hôi. Uống hết 2 thang chưa ra mồ hôi, sau khi uống thang thứ 3, cho
uống thêm 1 bát to Thông Bạch Thang nóng, mồ hôi ra nhiều như dầu, dính,
tanh, nặng mùi, ướt hết chăn đệm, trung tiện nhiều. Hôm sau ngủ dậy, người
nhẹ nhõm vô cùng, béo bệu giảm đi hơn một nửa, bụng ngực hết đầy, nước
tiểu nhiều, vẩn đục. Sờ gan chỉ còn dưới bờ sườn nửa khoát ngón tay, cơn
đói khát ăn tăng lên, sắc mặt trở nên nhuận bóng, lưỡi đỏ hết rêu, mạch
Hoãn Nhược, ngoài mệt mỏi ra các chứng bệnh đều hết. Lại dùng Sài Thược
Lục Quân Tử Thang, thêm Hoàng kỳ, Đương qui, Đan sâm, Hương phụ,

Quế chi, cho uống mấy thang để củng cố về sau. Theo dõi nhiều năm sau khi
khỏi bệnh, thấy vẫn công tác bình thường, sức khỏe tốt.
Bệnh Án Xơ Gan Do Tăng Áp Lực Tính Mạch Cửa
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Thôi XX, nam 41 tuổi, công nhân. Bệnh nhân từ năm 1973 phát hiện
thấy gan lách bị sưng to, chức năng gan khác thường. Năm 1975 chẩn đoán
là viêm gan mạn tính. Từ năm 1977 đến nay, lách ngày càng một to, đi khám
ở nhiều bệnh viện đều chẩn đoán là xơ gan do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, cư-
ờng lách, bệnh nhân được khuyên là mổ cắt lách, nhưng bệnh nhân không
đồng ý. Ngày 23-2-1979 đến viện điều trị. Khi vào viện, hai bên sờn bệnh
nhân đau nhói hoặc đau âm ỉ rất khó chịu, lợi bị chảy máu ít nhiều, còn ăn
uống được. Kiểm tra thấy: sức khoẻ nói chung còn tốt, gan to dưới bờ sườn
1,5 cm, lách to dưới bờ sờn 3cm, hơi cứng, ấn đau. Lưỡi đỏ tím, có điểm
huyết ứ, rêu mỏng, rià lưỡi ám đen, mạch Tế, Sáp. Xét nghiệm thấy: chức
năng gan bình thường, bạch cầu 3800/mm3, tiểu cầu 76000/mm3. Kiểm tra
siêu âm thấy lách dày 5 cm ở dưới bờ sờn 3cm, bờ trên của gan nằm ở gian
sườn thứ 6 (7cm), dưới bờ sườn 2 cm. Uống thuốc Barit để chụp phim cho
thấy tĩnh mạch thực quản ở đoạn dưới giãn nhẹ.
Chứng này là do huyết ứ nội trở gây ra. Điều trị phải loại huyết hóa ứ,
nhuyễn kiên tán kết. Cho dùng bài Nhuyễn Kiên Súc Tì Thang (Đương qui
15g, Xuyên khung 9g, Tam lăng (sao) 9g, Nga truật 9g, Đào nhân (sao) 9g,
Thổ nguyên 9g, Đan sâm 30g, Sài hồ 12g, Trần bì 12g.), mỗi thang sắc tới
còn 300ml, uống một lần vào buổi tối lúc đói. Hai tuần sau kiểm tra chức
năng gan, transaminase glutamic tăng cao đến 36 đơn vị (theo phương pháp
cải tiến), bèn ngừng bài thuốc trên, cho dùng bài Kiện Can Sinh Hóa Thang:
Đảng sâm 15g, Bạch truật (sao) 9-12g, Sơn dược (sống) 30g, Đương qui,
Thanh bì, Chỉ xác (sao) mỗi thứ 12g, Đan sâm 15-30g, Bạch thược (sống)
18g, Long đởm thảo, Xuyên liên mỗi thứ 6-9g, Sài hồ 9g, mỗi ngày sắc uống
một thang, cùng thuốc tây y loại bảo vệ gan. Sau nửa tháng, transaminase
glutamic trở lại bình thường. Tiếp tục uống Nhuyễn Kiên Súc Tì Thang,

uống thêm Súc Tì Tán (Ngũ linh chi 30g, Nga truật, Tam lăng mỗi thứ 60g,
Xuyên sơn giáp 90g, Sài hồ 45g, cùng tán bột mịn, mỗi lần uống 6g, ngày
uống hai lần sáng tối). Một tháng sau, gan lách đều thu nhỏ. Nằm viện 96
ngày, khi ra viện bệnh nhân tự thấy khỏi hết bệnh, lưỡi hơi tím nhạt, sáu
mạch Huyền hữu lực, chức năng gan bình thường, bạch cầu 5300/m3, tiểu
cầu 95.000/mm3. Kiểm tra bằng siêu âm: lách dày 3,5cm. Chụp phim sau
khi uống barit thấy hết giãn tĩnh mạch, thực quản. Ra viện tiếp tục điều trị.
Sau một tháng khám lại, tiểu cầu lại tăng đến 113.000/mm3. Theo dõi trong
4 tháng, tình trạng tốt, khỏi bệnh.
Bàn luận: Xơ gan do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, lách sng to, cường
lách thuộc phạm trù tích tụ trong đông y. Tích tụ chia ra chứng tích và chứng
tụ. Chứng tích phần lớn thuộc phần huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Đơn
thuốc Súc Tì Thang và Súc Tì Tán được cấu tạo theo phép này, ứng dụng
vào lâm sàng thu được hiệu quả mỹ mãn. Trong thời gian điều trị, liều lượng
thuốc phải từ ít đến nhiều, tăng dần liều lượng sao cho không tổn thương
chính khí (ý nói tình trạng chung và các chỉ tiêu chức năng gan, đôi khi phối
hợp uống với Súc Tì Tán để nâng cao hiệu quả điều trị, rút ngắn thời gian
chữa bệnh. Nhưng phải chú ý định kỳ kiểm tra chức năng gan và xét nghiệm
máu, nớc tiểu để nắm vững những thay đổi. Nếu bệnh nhên tự cảm thấy
chứng bệnh rõ rệt, chức năng gan bị tổn thương nghiêm trọng thì phải giảm
liều hoặc ngừng hẳn thuốc, chuyên sang dùng thuốc phù chính của đông y
hoặc thuốc bảo vệ gan của tây y để điểu chỉnh cũng có thể dùng bài thuốc
Kiện Can Sinh Hóa Thang để chữa, đợi chức năng gan chuyển biến tốt mới
tiếp tục công trị cho đến khi khỏi hẳn.
Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Thấp Nhiệt Ủng Trệ
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Phan XX, nam 45 tuổi, nông dân, Khám lần đầu ngày 18-5-1963.
Trong một tháng lại đây bụng mỗi ngày một to ra như cái trống, bệnh viện
chẩn đoán là xơ gan cổ trướng kèm lách to lên. Gan lách đều to 6cm. Sắc
mặt vàng, mặt có nếp nhăn, nướu răng chảy máut, ăn không được, nước tiểu

ít, đỏ, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn. Bệnh này thuộc chứng

×