Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

DDOI MOI PHUONG PHAP DAY TLV LOP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155 KB, 10 trang )

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong suốt thời gian day lớp, một vấn đề có tính nổi cộm đó là việc các em học sinh
từ lớp hai lớp năm thường rất ngán học môn Tập Làm Văn. Tại sao vậy?
Để làm được một bài tập làm Văn học sinh phải huy động vốn kiến thức từ nhiều
mặt như: các hiểu biết về cuộc sống, tri thức về văn học, khoa học, xã hội. Học sinh lại còn
phải biết kết hợp hài hòa nhiều kĩ năng như: dùng từ đặt câu, dựng đoạn, tạo văn bản, kĩ
năng phân tích đề, tím ý, lập dàn ý. Do đó Tập Làm Văn mang tính tích cực thành toàn
diên, tổng hợp. Ngoài ra Tập Làm Văn mang còn đòi hỏi mang tính sáng tạo của Học sinh.
Nhieu em không biết bắt đầu từ đâu, phải nói và viết những gì, viết như thế nào! Chính vì
vậy mà trong các tiết học phân môn này các em thường rất lúng túng có thì em viết lan
man không đúng trọng tâm đề yêu cầu, em thì ý nghèo nàn bài viết chỉ mang tính liệt kê
khô khan không biết liên kết câu và lồng cảm xúc của người viết vào và khi nhận được
bài trả thì với những con số khô khan 3,4 điểm chẳng nói lên được điều gì, có chăng chỉ là
một vài câu nhận xét quá cụt ngủn: lạc đề, văn nghèo ý, không biết liên hết câu, bài viết lan
man từ phí giáo viên mà thôi. Điều đó đã làm cho các em ngày càng chán nản, lo sợ, mất
tự tin, ngại nói và cuối cùng là học yếu môn này.
Thế thì nguyên nhân do đâu? Làm thế nào để khắc phục tình trạng này, giúp các em
lấy lại tự tin học tốt môn Tập Làm Văn? Đấy chính là lí do khiến tôi trăn trở.
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI TA DẠY TẬP LÀM VĂN:
1. Về phía học sinh:

Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu phục vụ cho
kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến tình trạng nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có
thể đưa bài văn vào viết.

Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ đông viên của phụ huynh.

Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học như : đọc
sách báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù hợp với lứa tuổi


nên vốn văn học rất hạn chế.
2.Về phía giáo viên:

Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn:
Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của HS giống nhau về ý tưởng, nội dung.

Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý
hay; tai hại thay một số giáo viên còn cho học sinh học thuộc những bài văn mẫu điều đó
đã làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tương phong phú của học sinh.

GV chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình như tổ chức dạy
học đơn điệu: GV hỏi – HS trả lời, chỉ những em khá giỏi mới có thể tham gia trả lời còn
những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến tên! Từ đó làm cho
HS cảm thấy nhàm chán, mất hứng thu học tập.

Chưa xử lý kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá
chưa đúng ý kiến của học sinh.

Trên đây là một số những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều GV khi day Tập Làm
Văn. Thế thì làm thế nào để lhắc phục hiện trạng trên. Cá nhân tôi sau nhiều lần thí nghiệm
tại lớp mình và nhân rộng một số lớp khác đã thấy rất khả thi.
* Sau đây là một số biện pháp giải quyết.
II. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Đối với Giáo viên:
* Người Giáo viên có vai trò rất quan trọngvà ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với HS vì
họ là những người chủ đạo tổ chức việc học của HS, chính vì thế bản thân người Giáo viên
cần phải:

Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cáo trình độ bản thân và nâng cao
tay nghề.


Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp.

Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy
bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của HS khi biểu đề tim ra ưu khuyết điểm chính của học
sinh để nhận xét tổ chức sửa chữa , góp ý đánh giá.

GV cũng cần rến cho HS kĩ năng nhận xét bài bạn để từ đó nhận biết được những
chỗ hay hoặc chưa hay khi làm bài của mình. Ví dụ chỉ cần rõ bài ban hay là vì ban biết
dùng từ ngữ liên kết câu, ban biết sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa , bạn biết lồng
cảm xúc của mình vào bài viết và điều quan trọng là GV cần phải giúp HS chỉ rõ ra những
từ ngữ, câu hay cho lớp tham khảo. Điều này vừa động viên được những em làm bài hay,
vừa khơi dậy chop HS những ý tưởng, sáng tạo mới, HS cảm thấy có thêm nguồn động
lựcđể thi đua học tập, để bài của mình được cô và các bạn đọc trước lớp như vậy. Bên cạnh
đó những hạn chế trong bài của HS, GV cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không
dùng những câu đại loại; ý nghéo nàn qu1, bài đủ ý, bài yếu hoặc em không có chuẩn bị
bài sao Điều đó sẽ làm cho các em như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Người GV cần thận
trọng, trước tiên cần tìm cho bằng được những ưu điểm trong bài làm của bé dù nó chỉ là
nhỏ nhoi để tuyên dương trước lớp rồi từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn
hay hơn, hoàn chỉnh hơn.

Người GV cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều HS cùng
được tham gia trình bày ý kiến của mình.
VD: Tổ chức học nhóm 4 để các em được nói cho nhau nghe ý kiến của mình ( vì có
những em rất ngại nói trước lớp và ngại nói cho GV nghe, trái lại khi cùng tham gia vói
các bạn mình thì các em rất tích cực ). Trong lúc này GV cần đến tận nơi, từng bàn để lắng
nghe và gợi ý, định hướng cho các em xây dựng bài Được tham gia phát biểu, dần dần
những em nhút nhát sẽ cảm thấy mạnh dạn và tự tin hơn khi đứng nói trước lớp. Bên cạnh
đó phương tiện trực quan, các hình thức tổ chức trò chơi, thi đua cũng không kém phần
lôi cuốn HS học tập tích cực hơn.


Khi chấm bài GV cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của HS để định
hướng cho HS khắc phục trong lần sau.

Nên tập cho các em có thói quenhọc tập các ý hay trong bài văn mẫu, đoạn hay, bài
làm hay của bạn, từ sách báo tham khảo và được tạo thói quen ghi chép lại trong sổ tay văn
học của mình.
2. Các giải pháp cụ thể:
a. Dạy Tập làm văn qua giờ Luyện từ & câu.
- Các em ít tham gia phát biểu trong giờ học TLV là do không biết thể hiện ý tưởng
của mình bằng những câu như thế nào bởi lẽ vốn từ của các em quá ít.
- Phạm vi vốn từ cần cung cấp cho học sinh ở tiểu học chủ yếu xoay quanh các chủ
đề về thế giớ xung quanh công việc của học sinh ở trường và ở nhà, tình cảm gia đình và
vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người chúng ta cần làm giàu nhận thức, mở rông
tầm mắt cho HS, giúp em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, dạy các
em biết yêu quí và trân trọng tình cảm đó.
- Ở chương trình SGK mới này không cung cấp sẵn vốn từ mới cho các em mà
thông qua hệ thống bài tập học sinh phải cùng suy luận và cùng nhau tìm tòi, bổ sung và
làm giàu vống từ cho mình. Sau đó GV có thể cung cấp thêm tư liệu cho HS ( tư liệu cung
capấ cần thực tế và gần gũi nằm trong sự hiểu biết của các em ). Sau đó GV cũng cần giúp
các em HS làm rõ một số từ cần thiết, đó là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ. Việc dạy nghĩa từ được tiến hành trên tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu cũng
cung cấp từ ngữ thì ở đó có dạy nghĩa của từ đòi hỏi GV phải nắm rõ nghĩa của từ và giải
thích cho phù hợp với ngữ cảnh, với nội dung bài học với hoàn cảnh thực tế với đối tượng
học sinh. Tuy nhiên việc giải nghĩa hết tất cả các từ là không thể và khong cần thiết, GV
phải có sự chọn lọc từ để giải nghĩa. Những từ được chọn lọc phải là những từ trung tâm có
vai trò quan trọng trong hoạt động nói của HS trên một đề tài đã xác định, phải để cho các
em giải nghĩa lấy ( kích thích tư duy HS làm cho HS lúc nào cũng cảm thấy mới lạ – Tạo
hứng thú cho HS trong học tập ) cũng cần lưu ý rằng: từ nào GV nắm rõ nghĩa thì hãy giải
thích còn nếu từ nào chưa rõ nghĩa thì không nên giải thích vì giải thích qua loa, sơ xài sẽ

làm cho HS chán nản vì không đáp ứng nhu cầu tò mò của trẻ thậm chí làm cho trẻ hiểu sai
lệch nghĩa của từ và khi vận dụng vào bài viết của mình sẽ không hiệu quả, làm sai lệch ý
muốn diễn đạt.
* GV có thể áp dụng một số phương pháp giải nghĩa của từ sau đây:
-
Giải nghĩa bằng trực quan: đưa ra các vật thật, hình ảnh, sơ đồ
-
Giải nghĩa thông qua ngữ cảnh: GV cần được giải nghĩa vào câu
hoàn chỉnh để làm rõ nghĩa từ đó.
-
Giải nghĩa bằng cách đối chiếu: GV so sánh nghĩa từ cần được
làm rõ nghĩa với từ khác.
VD: giải nghĩa từ “ ao” bằng cách so sánh với từ “hồ” -> ao nhỏ hơn hồ.
-
Giải nghĩa từ bằng cách tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
VD : Gần nghĩa với “lười biếng” là “biếng nhác”
Trái nghĩa với thông minh là “đần độn”
-
Giải nghĩa từ bằng cách phân tích từ thành các từ tố ( tiếng )
VD : giải nghĩa từ “tâm sự” – (tâm:lòng ; sự:nỗi ) -> tâm sự:nỗi lòng của một
người.
-
Giải nghĩa bằng định nghĩa: là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu
nội dung nghĩa, bằng một định nghĩa:
VD : Quê hương là nơi sinh mình ra và lớn lên.
b. Dạy tập làm văn qua giờ tập đọc:
Trong giờ tập đọc, GV phải làm cho HS hiểu nghĩa một số từ cần thiết trong bài.
Hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa “văn chương” của từ ngữ, điều này sẽ có ích cho
HS khi vân dụng từ. GV có thể kết hợp với những bài tập điền từ thích hợp.
VD : chọn từ “náo nức” hay từ “rộn ràng” điền vào chỗ trống cho thích hợp:

Chúng em chào đón ngày khai trường.
Trong phần tìm hiểu bài, GV gợi ý khuyến khích HS trả lời câu hỏi theo ý mình,
hạn chế dần cách trả lời rập khuôn câu văn trong SGK. Nhất là đối với những bài học dãng
thơ, nên cho HS sinh diễn đạt thành lời văn hoàn chỉnh ( nếu đề không yêu cầu tìm câu
thơ ). Điều này tạo điều kiện cho HS vận dụng tối đa vốn từ sẵn có của mình, đồng thời
giúp GV lắm được lượng từ có được ở mỗi HS để từ đó có biện pháp thích hợp cung cấp từ
mới cho các em.
c. Dạy Tập Làm Văn qua giờ Chính Tả
Để viết đúng chính tả HS phải nắm được nghĩa của từ.
Học sinh phải phân biệt được nghĩa của từ “lượng” và “lượn”
-
Lượn : bay lượn, lượn lờ
-
Lượng : trọng lượng, khối lượng, chất lượng
Giáo viên nên vận dụng những bài tập để mở rọng vốn từ cho HS. Ví dụ bài tập
ghép từ.
VD : Tìm từ ghép với “ mến” : mến yêu, mến thương, thân mến
Trong những giờ dạy Chính Tả so sánh là lúc GV khai thác và cung cấp thêm nguồn
từ mới cho HS. Đối với dạng bài này, HS càng phải nắm rõ nghĩa của từ để phân biệt
các từ phát âm sai của địa phương so với chuẩn.
VD : Người Hà Nội phát âm thiếu chính xác các cặp từ có âm đầu là l/n ; ch/tr;
d/gi/r
d. Dạy tập làm văn qua giờ kể chuyện:
Khi nghe chuyện HS phải hiểu truyện, muốn thế trước hết HS phải hiểu từ. Chỉ cố
diễn đạt câu truyện qua giọng nói, điệu bộ không thì chưa đủ mà GV cần cho HS nêu ra
những từ ngữcác em chưa hiểu và hãy để các em đi tìm câu giải đáp cho chính mình, tất
nhiên phải có sự gợi ý của GV. Nếu là những từ có nghĩa không rõ ràng GV có thể đưa vào
ngữ cảnh để từ đó HS có thể nắm được nghĩa của từ đó.
VD : Trong truyện “ Lời hứa của sâu róm” ( truyện đọc lớp 3 ), các em cần hiểu
nghĩa của các từ : sâu róm, kén, sửng sốt. GV có thể giải thích nghĩa của từ “ sửng sốt”

bằng cách đưa ra một câu trong đó có từ “ sửng sốt”.
- Tôi vô cùng sửng sốt về kết quả học tập của cậu ấy.
Từ VD này, HS sẽ dễ hiểu hơn nghĩa của từ “sửng sốt”: hết sức ngạc nhiên, lấy làm
lạ
e. Vận dụng các phương pháp theo hướng chủ động khi dạy Tập Làm văn:
- Sử dụng mạng ý nghĩa trong viết đoạn: Học sinh sẽ tìm ý dưới dạng sơ đồ hình
tròn. Mạng ý nghĩa thường dùng trong giai đoạn trước khi viết văn. Những từ ngữ học sinh
tìm được thường tập trung ở phần thân bài nên đây là một lợi điểm cho việc phát triển ý từ
thành đoạn văn hoàn chỉnh.
Ví dụ: Lá rập rình lay động
Cao lớn
Từng cánh Thân sần sùi bạc
hoa rực lửa phếch theo tháng năm
- Sử dụng sơ đồ khung trong viết đoạn : Thường được dùng trong miêu tả cây cối (tả
bộphận hay tả từng giai đoạn phát triển). Sơ đồ khung sẽ giúp cho học sinh dễ nhận ra cấu
trúc của mỗi kiểu bài.
- Dùng thẻ từ phối hợp với tranh ảnh : Thường được sử dụng khi học sinh lựa
chọn những chủ đề chưa tận mắt thấy hay chưa từng được quan sát.
- Trong bài “ Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật” thay vì trả lời đơn thuần các câu hỏi:
+ Tìm các phần mở bài, kết bài. Mỗi phần ấy nói điều gì?
+ Phần thân bài tả cái cối theo trình tự nào?
 Giáo viên sẽ dùng những thẻ từ cho HS ghi vào đó những từ chỉ đặc điểm của
từng phần trước khi nêu ý nghĩa của các phần đó.
- Giáo viên có thể kết hợp sơ đồ khung để xác định bài văn miêu tả đồ vật.
Cây
phượng
- Chúng ta thường đặt câu hỏi “Vì sao lại có những bài văn giống nhau?”ở đây
chúng ta không bàn đến vấn đề GV bắt học sinh học thuộc mà chúng ta sẽ phân tích theo
hai sơ đồ dưới đây :
+ GV nêu từ


Gợi ý đặt câu mẫu

Sản phẩm của học sinh đa phần sẽ giống nhau.
+ Học sinh tìm từ

Đặt nhiều câu khác nhau

Sẽ có nhiều đoạn văn khác nhau.
- So sánh hai cách làm trên, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy việc làm mẫu của giáo
viên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu nhầm đó là mẫu hay nhất. Tuy nhiên, không vì thế mà
giáo viên không làm mẫu, do đó phải yêu cầu và nhắc nhở học sinh khi tả chọn mẫu câu,
đề tài khác giáo viên.
- Giáo viên cần tập cho học sinh thí quen lập dàn ý trước khi viết bài và cần phải
viết nháp trước, sau đó chỉnh sửa trước khi viết bài hoàn chỉnh. Trên thực tế, vì sợ thiếu
giờ nên chính giáo viên không yêu cầu học sinh làm nháp. Điều này dễ làm mất khả năng
tư duy và khả năng nhớ của trẻ. Trong quá trình làm bài nháp, giáo viên cần luôn nhắc học
sinh chú trọng ý tưởng mới nảy sinh không quá tập trung vào lỗi chính tả, ngữ pháp ở giai
đoạn này.
- Quá trình chỉnh sửa nên tạo điều kiện cho học sinh làm theo nhóm đôi (hoặc có thể
làm theo trình độ của học sinh ) để các em phát huy hết khả năng nhận xét, cũng như có
điều kiện để giúp đỡ và học tập lẫn nhau. Học sinh được đọc nhiều đoạn văn khác, điều
này cũng sẽ làm nảy sinh ý tưởng mới cho các em khi được lắng nghe và đọc bài của bạn.
Giai đoạn này cần được trau dồi về ngữ pháp và trình bày bài viết để học sinh có thể lưu
trữ sản phẩm của mình.
- Việc tổ chức các phong trào hỗ trợ cho việc viết văn như dành một góc học tập để
các em có thể trưng bày những sản phẩm của mình (những bài văn hay) để cả lớp cùng
tham khảo.
- Rèn cho học sinh kỹ năng nó trong Tập Làm Văn rất quan trọng. Giáo viên cần
khuyến khích HS “tự do nói”, nghĩ được điều gì thoải mái diễn đạt ra điều ấy, điều này

giúp HS mạnh dạn phát biểu đưa ra ý kiến của mình. Thường thì các em mang nặng tâm lý
đứng lên lỡ nói sai sẽ bị cô mắng hoặc các bạn chê cười. Để giải tỏa gánh nặng tâm lý này,
tôi thường để các em tự do đưa ra ý kiến của mình dù cho ý kiến đó chưa sát với yêu cầu
của câu hỏi đặt ra. Đừng bao giờ phủ nhận sạch trơn những suy nghĩ của các em mà nên
động viên để các em tự tin hơn khi phát biểu.
Việc thực hiện “Sổ tay văn học” hay tạo “Thư viện nhỏ cho lớp” là rất cần và thiết
thực. Nó còn giúp các em hạn chế việc mắc lỗi chính tả khi làm bài. Có nhiều giáo viên đặt
ra câu hỏi tại sao có những em khi viết chính tả không hề mắc lỗi nào nhưng khi viết bài
văn lại sai nhiều lỗi như thế ? Nguyên nhân chính là do khi viết bài văn các em không được
nghe cô giáo phát âm từng tiếng như khi viết chính tả mà bản thân các em phải vận dụng tư
duy để diễn đạt lại thành ý (Đối với lứa tuổi của các em, nhất là HS lớp 2, 3 cùng một lúc
các em khó có thể tập trung làm tốt được nhiều việc), do đó, đa số các em thường viết theo
những ngôn ngữ phát âm giao tiếp hằng ngày, hoặc cũng có khi do viết vội, viết câu dài
gặp những từ khó thì lười đánh vần từ đó viết sai chính tả. Nếu được chuẩn bị bài trước ở
nhà (các em có thời gian kiểm tra chính tả, không bị khống chế thời gian làm bài) HS sẽ tự
tin hơn và đỡ sai chính tả hơn khi làm bài.
* Để hỗ trợ cho HS, chúng ta cũng cần cung cấp thêm cho các em một số từ (theo
dạng chủ đề đang học) để các em tham khảo.
VD1: Đối với dạng văn tả người
- Tả vóc dáng : cao, lùn, gầy, mảnh mai, bụ bẫm, lụ khụ, yểu điệu …
- Tả khuôn mặt, diện mạo : bầu bỉnh, rám nắng, xanh xao, trái xoan, hốc hác, đần
độn, ủ rủ, cau có …
- Tả làn da : nhăn nheo, xanh như tàu lá chuối, trắng trẻo, chai cứng, mốc thếch, da
bánh mật…
- Tả mắt : đen huyền, đen láy, bồ câu, ti hí, mắt ốc bươu…
VD2: Đối với dạng tả cây
- Thân cây: sần sùi, ram ráp, trơn lùi. Đầy gai …
- Lá cây: xanh thẳm, xanh mượt, xanh uá …
* Nói tóm lại, muốn giúp cho học sinh có được vốn từ tích cực, bền vững phải luyện
cho các em vận dụng từ ngữ vào những dạng bài tuân theo nguyên tắc xác định và phải vận

dụng thường xuyên trong cuộc sống.
3. Đối với học sinh:
- Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách tự lập
một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của đề.
- Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình.
- Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin bổ sung
cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn theo bài mẫu.
C. KẾT LUẬN
Chúng ta có thể dạy tốt – học tốt môn Tập Làm Văn khi có sự phối hợp đồng bộ
Giữa thầy và trò với những yêu cầu cần đạt đã nêu trên. Cũng cần lưu ý rằng, dạy các em
viết văn không có nghĩa là dạy các em trở thành nhà văn mà là dạy sao để các em có thể
viết được những điều mình nghĩ đến và những điều mình muốn nói một cách mạch lạc, gãy
gọn, hay nói cách khác là rèn cho HS kỹ năng xâu kết những ý nghĩ thành một đoạn văn
chặt chẽ thể hiện rõ ý mình muốn diễn đạt, đây là một công việc khá khó khăn, tuy nhiên
Bác Hồ đã từng nói:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền …”
* Sau cùng, tôi xin kết thúc bài viết của mình bằng một câu nói của giáo sư Roach
Van Allen để thay cho lời kết :
“Em có thể viết được những gì em nghĩ
Em có viết được những gì em nói
Em có thể đọc được những gì em viết và em có đọc được
những gì người khác viết cho em”
Đó chính là dạy cho học sinh cách làm Tập Làm Văn.
D. KẾT QUẢ
Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho
HS, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn này. Thành tích học tập của các em cao
hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn.
Bảng thống kê dưới đây đã chứng minh được điều đó:

Điểm
Thời gian
Tổng
số HS
Giỏi Khá TB
Dưới TB
Đầu năm 24 0 2 7 15
Giữa HKI 24 1 3 7 13
Cuối HKI 24 2 5 9 8
Giữa KHII 24 3 6 9 6
Như vậy, cho đến thời điểm này các em đã biết cách trình bày bài văn hợp lí về bố
cục, diễn đạt ý trọn vẹn, câu văn giàu hình ảnh. Một số các em yếu cũng đã diễn đạt khá tốt
ý của mình. Tuy còn một số bài viết còn mang tính liệt kê nhưng bước đầu các em đã biết
vận dụng các biện pháp tu từ đã được học để vận dụng vào bài viết của mình làm cho câu
văn trở nên sinh động hơn.
Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng
nghiệp gỡ rối trong công tác giảng dạy của mình (nhất là với phân môn Tập Làm Văn).
Triệu Trạch, ngày 20 tháng 3 năm 2010
Người viết


Phạm Thị Hương Lan

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×