Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

CHÂM CỨU HỌC - NGUYÊN TẮC XỬ DỤNG HUYỆT pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.77 KB, 29 trang )

CHÂM CỨU HỌC
NGUYÊN TẮC XỬ DỤNG HUYỆT
1- NHÓM HUYỆT
a - Nhóm Ngũ Du Huyệt
a.1- Huyệt TỈNH
(Thiên ‘Bản Du ‘ ghi: ”Mùa đông nên thủ các huyệt Tỉnh” (LKhu 2,
121).
(Thiên ‘Quan Châm’ ghi: “Bệnh ở tại mạch, khí bị thiểu cần phải
được châm bổ, trường hợp này nên dùng kim Đề Châm, châm vào các huyệt
Tỉnh, huyệt Huỳnh thuộc các đường kinh” (LKhu 7, 14).
(Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: “Mùa đông thủ huyệt Tỉnh, Vinh, và tất
phải châm sâu mà lưu kim lâu” (LKhu 19, 6).
(Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: “Bệnh ở tại
tạng: châm huyệt Tỉnh” (LKhu 44, 26).
(“Tỉnh huyệt chủ trị Tâm hạ bị mãn” (Nan Kinh 68). Ngu-Thứ chú
giải điều 68 Nan Kinh: "Huyệt Tỉnh lấy phép ở Mộc để ứng với Can. Vị trí
của Tỳ là ở dưới Tâm, nay nếu tà khí ở Can, Can sẽ thừa lên Tỳ, làm cho
dưới Tâm bị mãn "
(Tỉnh huyệt chủ trị ‘Tâm hạ no hơi’ (Châm Cứu Đại Thành).
(Tỉnh huyệt thường dùng trong các bệnh thần kinh, dễ xúc động
(Châm Cứu Học Thượng Hải).
(Sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise'
nêu ra hướng dẫn xử dụng huyệt Tỉnh trong các trường hợp sau:
“1- Có dấu hiệu thực (đầy) ở vùng dưới tim (Tâm hạ no hơi).
2- Bệnh về thần kinh (bệnh về tinh thần và ý chí).
3- Khí tràn vào các kinh.
Thí dụ: Kinh Cân Phế và Đại trường bị rối loạn gây ra đau mặt trước
vai, tay khó nâng lên được. Đây là do kinh khí của kinh Cân bị bế tắc. Đau ở
đây là do khí lan tỏa ra vùng liên hệ. Phải điều chỉnh khí này bằng cách làm
cho nó quay về các kinh liên hệ, nghĩa là châm huyệt Tỉnh của kinh Phế và
Đại trường”.


a.2- Huyệt VINH (Huỳnh)
(Thiên ‘Bản Du’ ghi: “Mùa Xuân nên thủ huyệt ở các lạc mạch, các
huyệt Huỳnh” (LKhu 2, 117).
(Thiên ‘Tà Khí Tạng Phủ Bệnh Hình’ ghi: “Huyệt Vinh và huyệt Du
trị ngoại kinh” (LKhu 4, 98).
(Thiên ‘Thọ Yểu Cương Nhu ‘ ghi: “Cho nên mới nói rằng nếu Âm
bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Huỳnh và huyệt Du thuộc Âm ” (LKhu
6, 6).
(Thiên ‘Quan Châm’ ghi: “Bệnh ở tại mạch, khí bị thiểu cần phải
được châm bổ, trường hợp này nên dùng kim Đề châm, châm vào các huyệt
Tỉnh, huyệt Huỳnh thuộc các đường kinh” (LKhu 7, 14).
(Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: “Mùa đông thủ huyệt Tỉnh, huyệt Vinh, và
tất phải châm sâu mà lưu kim lâu” (LKhu 19, 6).
(Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: Bệnh biến ở sắc:
châm huyệt Huỳnh” (LKhu 44, 26).
( Nan 68 (Nan Kinh) ghi: “Huyệt Vinh chủ về thân bị nhiệt”. Ngu-
Thứ chú: "Huyệt Vinh thuộc hoả nhằm lấy phép ở Tâm. Phế thuộc Kim, bên
ngoài chủ về bì mao. Nay nếu tâm hoả nung đốt Phế Kim sẽ làm cho cơ thể
bị nhiệt. Đó là tà khí ở tại Tâm vậy".
(Huyệt Vinh dùng trong các bệnh sốt (Châm Cứu Đại Thành + Châm
Cứu Học Thượng Hải).
(Sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise'
(Quyển 3) nêu ra hướng dẫn xử dụng huyệt Vinh như sau: “Châm huyệt
Vinh để điều chỉnh nhiệt hoặc hàn tùy theo kinh Âm hoặc kinh Dương, để trị
bệnh hàn hoặc nhiệt đồng thời kích thích các kinh vận hành.
Thí dụ: Đau vùng thái dương liên hệ đến Thiếu dương (Tam Tiêu và
Đởm). Trường hợp này, đau là do inh khí của thủ Thiếu dương và túc Thiếu
Dương không tương thông được với nhau. Không chỉ châm huyệt ở vùng
thái dương mà còn phải điều hòa kinh khí của thủ và túc Thiếu dương bằng
cách châm các huyệt Vinh của kinh Tam Tiêu (Dịch Môn) để chuyển kinh

khí lên đầu và huyệt tỉnh của Đởm là Túc Lâm Khấp để đưa kinh khí xuống
chân” ('Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise'
(Livre 3 (631).
a.3- Huyệt DU
(Thiên ‘Bản Du’ ghi: “Mùa hạ nên thủ các huyệt Du” (LKhu 2, 119).
(Thiên ‘Tà Khí Tạng Phủ Bệnh Hình’ ghi: “Huyệt Vinh và huyệt Du
trị ngoại kinh” (LKhu 4, 98).
(Thiên ‘Thọ Yểu Cương Nhu’ ghi: “Cho nên mới nói rằng nếu Âm
bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Huỳnh và huyệt Du thuộc Âm ” (LKhu
6, 6).
(Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: “Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du ” (LKhu
19, 5).
(Thiên ‘Hàn Nhiệt Bệnh’ ghi: “huyệt Kinh, Du trị bệnh ở cốt tủy”
(LKhu 21, 34).
(Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: “Bệnh lúc
ngưng lúc nặng: châm huyệt Du” (LKhu 44, 26).
(Nan thứ 68 Nan Kinh ghi: “Huyệt Du chủ về thân mình nặng nề, các
khớp đau nhức”. Ngu-Thứ chú : "Huyệt Du lấy phép ở Thổ nhằm ứng với
Tỳ, nay tà khí ở tại Thổ hì Thổ sẽ phạt Thuỷ. Thuỷ thuộc Thận, chủ về
xương, cho nên khi phát bệnh thì các khớp xương bị đau nhức. Dó là tà khí ở
tại Thổ.Thổ bị bệnh làm cho cơ thể bị nặng nề. Bệnh này nên châm huyệt
Du".
(Huyệt Du trị mình nóng, khớp xương đau (Châm Cứu Đại Thành).
+Huyệt Du trị các bệnh tê thấp (Châm Cứu Học Thượng Hải).
( Sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise'
(Quyển 3) hướng dẫn : “Châm huyệt này để tả tà khí, ngăn cản và giáng tà
khí xuống, nói cách khác là nâng cao chính khí để chống lại tà khí.
(Thí dụ 1: Can Hư. Do huyết hư hoặc do Thận không âm không nuôi
dưỡng được Can Mộc: biểu hiện chứng hoa mắt, quáng gà, tai ù, nửa đầu
đau, mạch Huyền, Tiểu, Trầm, Nhược. Điều trị phải theo gốc: bổ huyết hoặc

bổ Thận. Nhưng trước hết, phải thông Can khí bằng cách châm huyệt Vinh
và Du của Can kinh (Hành Gian và Thái Xung). Huyệt Du (Thái Xung) ở
đây được dùng để bổ Khí chứ không phải là để tả tà khí.
(Thí dụ 2: Đau nhức mặt trước khủy tay do Phong, Hàn, Thấp:
Trường hợp này châm huyệt Du của kinh Phế (Thái Uyên) + huyệt Hợp của
kinh Đại Trường (Khúc Trì) vì:
. Đối với kinh Âm: Du = cuối mùa hạ = thấp = thổ.
. Đối với kinh Dương: Hợp = cuối mùa hạ = thấp = thổ.
Điều trị theo gốc không đủ, phải thêm điều trị ở huyệt Kinh nữa”
(‘Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise' (Livre 3
(633).
a.4- Huyệt KINH
(Thiên ‘Thọ Yểu Cương Nhu’ ghi: “Cho nên mới nói rằng nếu Âm
bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Huỳnh và huyệt Du thuộc Âm, nếu
Dương bệnh ở tại Dương phận thì châm huyệt Hợp thuộc Dương, nếu
Dương bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Kinh thuộc Âm” (LKhu 6, 6).
(Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: “Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du ” (LKhu
19, 5).
(Thiên ‘Hàn Nhiệt Bệnh’ ghi: “huyệt Kinh, Du trị bệnh ở cốt tủy”
(LKhu 21, 34).
(Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: “Bệnh có thay
đổi ở âm thanh: châm huyệt Kinh” (LKhu 44, 26).
(Nan 68 Nan Kinh ghi: “ Huyệt Kinh chủ về ho suyễn, hàn nhiệt”.
Ngu-Thứ chú: "Huyệt Kinh lấy phép ở Kim để ứng với Phế, nay tà khí ở tại
huyệt Kinh ắt Phế sẽ bị bệnh. Phế bị hàn sẽ gây ra ho, Phế bị nhiệt sẽ gây ra
suyễn. Nay tà khí ở tại Kim sẽ phạt Mộc. Mộc thuộc Can, chí của Can là sự
giận dữ. Giận dữ thì khí sẽ nghịch lên và thừa lên Phế, gây thành suyễn. Tại
sao như vậy? Đó là vì chi biệt của Can, đi từ Can để xuyên qua hoành cách
mô lên trên và rót vào Phế. Thiên 'Mạch Yếu Tinh Vi Luận'(TVấn 17) ghi:
"Khi huyết ở tại dưới sườn sẽ làm cho người ta bị suyễn nghịch".

(Huyệt Kinh trị ho hen, lạnh nóng (Châm Cứu Đại Thành).
(Huyệt Kinh trị các bệnh ho, suyễn và họng (Châm Cứu Học Thượng
Hải).
(Sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise'
hướng dẫn: “Châm huyệt Kinh để tăng cường kinh khí chống lại tà khí ở
vùng bệnh.
Đối với huyệt Kinh, có 2 trường hợp:
1- Khi tà khí kích thích kinh Âm thì phần dương của cơ thể (Vệ Khí)
ở huyệt này bị suy yếu và mất đi ở vùng lân cận (xương, cơ ).
2- Khi tà khí kích thích kinh Dương thì phần dương của cơ thể (Vệ
Khí) tiếp tục chuyển đến huyệt Hợp và tụ tập lại trước khi xâm nhập vào phủ
hoặc vùng lân cận (xương, cơ ).
Biểu đồ sau đây giới thiệu tác dụng của huyệt Kinh, theo sách
'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise' (Livre 3
(637).
Khi bệnh, Doanh khí từ huyệt Kinh đi theo Vệ khí đến huyệt Hợp,
theo kinh âm hoặc dương tùy trường hợp bệnh rồi ảnh hưởng đến tạng phủ,
gân cơ
Thí dụ: Ngón chân cái sưng đau, châm huyệt Kinh và Du của kinh
Can và Tỳ vì:
+ Châm huyệt Du của kinh Âm để làm giảm tà khí (phong, hàn, thấp).
+ Châm huyệt Kinh, để kích thích vệ khí chuyển đến vùng bệnh để
chống lại tà khí.
a.5- Huyệt HỢP
(Thiên ‘Bản Du ‘ ghi: “Mùa thu nên thủ các huyệt Hợp” (LKhu 2,
120).
(Thiên ‘Tà Khí Tạng Phủ Bệnh Hình’ ghi: “Huyệt Hợp trị nội phủ”
(LKhu 4, 98).
(Thiên ‘Thọ Yểu Cương Nhu ‘ ghi: “Cho nên mới nói rằng nếu Âm
bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Huỳnh và huyệt Du thuộc Âm, nếu

Dương bệnh ở tại Dương phận thì châm huyệt Hợp thuộc Dương, nếu
Dương bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Kinh thuộc Âm” (LKhu 6, 6).
(Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: “Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du, khí tà ở tại
phủ thì thủ huyệt Hợp” (LKhu 19, 5).
(Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: “Kinh mạch bị
mãn vì huyết, đó là bệnh ở Vị, cùng với chứng bệnh do ăn uống không điều
tiết: châm huyệt Hợp” (LKhu 44, 26).
(Nan thứ 68 Nan Kinh ghi: “ Huyệt Hợp chủ về nghịch khí và tiêu
chảy”. Ngu-Thứ chú: "Huyệt Hợp lấy phép ở Thủy dể ứng với Thận. Thận
khí bất túc sẽ làm thương đến Xung Mạch, làm cho khí nghịch mà lý cấp.
Thận chủ khai khiếu ở nhị âm, nay nếu Thận khí không còn bị cấm nữa sẽ
thành chứng tiêu chảy. Tà khí ở Thủy, Thủy sẽ thừa Hoả, Hoả thuộc Tâm.
Tạng Tâm, theo đúng phép thì không thể bị bệnh Can Mộc là mẹ của Tâm
Hoả, đồng thời là con của Thận Thủy. Nay, trước hết, Can lo âu vì mẹ bị thọ
tà, rồi lại lo vì con mình bị khắc. Chí của Can là sự giận dữ, mà khi ưu tư thì
giận dữ, giận dữ thì khí nghịch. Đây là ngũ hành tương thừa và tương khắc
nhau tạo thành chứng bệnh khác nhau ".
(Huyệt Hợp trị trong mình nóng mà tiêu cha?y (Châm Cứu Đại
Thành).
(Huyệt Hơp trị bệnh ở dạ dầy, ruột và các bệnh ở Phu? (Châm Cứu
Học Thượng Hải).
(Sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise'
hướng dẫn:
+ Châm huyệt Hợp để kích thích nguồn khí ở sâu bên trong.
Thí dụ:
1- Trong tất cả các bệnh về Vị, huyệt Hợp Túc Tam Lý (Vi.36) là
huyệt điều trị căn bản.
2-Trong tất cả các bệnh đau nhức do phong, hàn, thấp, trên các kinh
dương, phải châm các huyệt Hợp vì theo thiên ‘Tứ Thời Khí ‘ thì: “ Mùa
thu tà khí ở tại phủ thì thủ huyệt Hợp” (LKhu 19, 5). ('Pathogéni Et

Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise' (Livre 3, (638).
Tóm tắt việc dùng Ngũ Du Huyệt theo sách Linh Khu:
Tà Khí Tại Huyệt Châm
Tạng (Âm của phần âm) Huyệt Vinh và Du của kinh và
Tạng đó.
Xương, cơ (Âm của phần
dương )
Huyệt Kinh của vùng bị bệnh.
Phủ (Dương của phần âm) Huyệt Hợp của kinh hoặc phủ
đó.
Giải Thích và Ứng Dụng NGŨ DU HUYỆT
Sách ‘Châm Cứu Đại Thành’ quyển 7 có giới thiệu chi tiết phối hợp
mạch chứng trong việc áp dụng Ngũ Du Huyệt như sau:
* Giả sử bắt được mạch Huyền, thấy người bệnh có tính sạch sẽ (Đởm
là phủ thích sự sạch sẽ), mặt xanh, hay nổi giận, đây là chứng bệnh do Đởm
gây ra:
+ Nếu dưới Tâm bị mãn: châm huyệt Tỉnh là Túc Khiếu Âm (Đ.44).
+ Nếu thân bị nhiệt, châm huyệt Vinh là huyệt Hiệp Khê (Đ.43).
+ Nếu thân mình nặng nề, châm huyệt Du là Túc Lâm Khấp (Đ.41).
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt, châm huyệt Kinh là Dương Phụ (Đ.38).
+ Nếu nghịch khí và tiêu chảy, châm huyệt Hợp là Dương Lăng
Tuyền (Đ.38)
Sau đó, châm tổng kết huyệt Nguyên là Khâu Khư (Đ.40).
* Giả sử bắt được mạch Huyền, thấy người bệânh tiểu gắt, tiểu khó,
chân tay co rút, đầy trướng, phía trên rốn có động khí, đây là chứng bệnh do
Can gây ra:
+ Nếu dưới Tâm bị mãn: châm huyệt Tỉnh là Đại Đôn (C.1).
+ Nếu thân nhiệt: châm huyệt Vinh là Hành Gian (C.2).
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Thái Xung (C.3).

+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Trung Phong (C.4).
+ Nếu bị nghịch khí và tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Khúc Tuyền
(C.8).
* Giả Sử bắt được mạch Phù, Hồng, thấy người bệnh mặt đỏ gay,
miệng khô, hay cười, đây là bệnh của Tiểu Trường gây ra:
+ Nếu dưới Tâm bị mãn: châm huyệt Tỉnh là Thiếu Trạch (Ttr.1).
+ Nếu thân nhiệt, châm huyệt Vinh là Tiền Cốc (Ttr.2)
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Hậu
Khê (Ttr.3)
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Dương Cốc (Ttr.5)
+ Nếu bị khí nghịch, tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Tiểu Hải (Ttr.8).
Rồi châm tổng kết huyệt Nguyên là Uyển Cốt (Ttr.4).
* Giả sử bắt được mạch Hồng, Phù, người bệnh thấy tâm phiền, tâm
thống, lòng bàn taynóng, lòng bàn chân nóng, vùng trên rốn có khí động, đó
là bệnh do Tâm gây ra:
+ Nếu dưới Tâm bị mãn: châm huyệt Tỉnh là Thiếu Xung (Tm.9).
+ Nếu thân nhiệt, châm huyệt Vinh là Thiếu Phủ (Tm.8).
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Thần Môn (Tm.7).
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Linh Đạo (Tm.4).
+ Nếu bị khí nghịch, tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Thiếu Hải (Tm.3).
* Giả sử bắt được mạch Phù Hoãn, người bệnh có sắc da vàng, thường
hay ợ, hay suy tư, thích ca hát, đây là bệnh của Vị gây nên:
+ Nếu dưới Tâm bị mãn: châm huyệt Tỉnh là Lệ Đoài (Vi.45)
+ Nếu thân nhiệt, châm huyệt Vinh là Nội Đình (Vi.44).
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Hãm
Cốc (Vi.43).
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Giải Khê (Vi.41).

+ Nếu bị khí nghịch, tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Túc Tam Lý
(Vi.36).
Rồi châm tổng kết huyệt Nguyên là Xung Dương (Vi.42).
* Giả sử bắt được mạch Phù Hoãn, bụng đầy, ăn không tiêu, cơ thể
nặng nề, các khớp đau nhức, không muốn hoạt động, chỉ thích nằm, chân tay
mỏi, vùng rốn có khí động, lấy tay đè vào thấy cứng, hơi đau, đây là bệnh
chứng của Tỳ:
+ Nếu dưới Tâm bị đầy: châm huyệt Tỉnh là Ẩn Bạch (Ty.1).
+ Nếu thân nhiệt, châm huyệt Vinh là Đại Đô (Ty.2).
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Thái Bạch (Ty.3).
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Thương Khâu (Ty.5)
+ Nếu bị khí nghịch, tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Âm Lăng Tuyền
(Ty.9).
* Giả sử bắt được mạch Phù, sắc da trắng bệnh, thường hắt hơi, không
vui, chỉ muốn khóc. Đây là bệnh của Đại Trường:
+ Nếu dưới Tâm bị đầy: châm huyệt Tỉnh là Thương Dương (Đtr.1).
+ Nếu thân nhiệt, châm huyệt Vinh là Nhị Gian (Đtr.2).
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Tam
Gian (Đtr.3).
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Dương Khê (Đtr.5).
+ Nếu bị khí nghịch, tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Khúc Trì (Đtr.11).
Rồi tổng châm huyệt Nguyên là Hợp Cốc (Đtr.4).
* Giả sử bắt được mạch Phù, ho suyễn nhiều, nóng lạnh, khí động
ở phía bên phải rốn, ấn tay vào thấy cứng, đó là bệnh của Phế:
+ Nếu dưới Tâm bị đầy: châm huyệt Tỉnh là Thiếu Thương (P.11).
+ Nếu thân nhiệt, châm huyệt Vinh là Ngư Tế (P.10).
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Thái

Uyên (P.9).
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Kinh Cừ (P.8).
+ Nếu bị khí nghịch, tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Xích Trạch (P.5).
*Giả sử bắt được mạch Trầm Trì, sắc mặt đen sạm, hay lo sợ, hay
ngáp, đây là bệnh do Bàng quang gây ra:
+ Nếu dưới Tâm bị đầy: châm huyệt Tỉnh là Chí Âm (Bq.67).
+ Nếu thân nhiệt, châm huyệt Vinh là Thông Cốc (Bq.66)
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Thúc
Cốt (Bq.65).
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Côn Lôn (Bq.60).
+ Nếu bị khí nghịch, tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Uỷ Trung (Bq.40).
Rồi tổng châm huyệt Nguyên là Kinh Cốt (Bq. 64).
* Giả sử bắt được mạch Trầm Trì, khí nghịch lên, bụng dưới đau, tiêu
chảy, từ gối xuống chân lạnh, động khí dưới vùng rốn, ấn tay vào thấy cứng
và hơi đau, đó là bệnh của Thận:
+ Nếu dưới Tâm bị đầy: châm huyệt Tỉnh là Dũng Tuyền (Th.1).
+ Nếu thân nhiệt, châm huyệt Vinh là Nhiên Cốc (Th.2).
+ Nếu thân mình nặng nề, các khớp xương đau nhức: châm huyệt Du
là Thái
Khê (Th.3).
+ Nếu ho suyễn, hàn nhiệt: châm huyệt Kinh là Phục Lưu (Th.6).
+ Nếu bị khí nghịch, tiêu chảy: châm huyệt Hợp là Âm Cốc (Th.9).
Sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise'
hướng dẫn:
Xử dụng Ngũ Du Huyệt có thể dựa vào 3 yếu tố sau:
a.1) Theo Vị Trí Bệnh Chứng
* Bệnh có thể ở :
+ Phần Lý: ở Tạng là Âm, ở Phủ là Dương, vì vậy thiên ‘Thọ Yểu
Cương Nhu’ (LKhu 6) có nhắc đến trường hợp tà khí ở phần Âm trong Âm

hoặc Dương trong Âm
+ Phần Biểu: ở bì phu thuộc Dương, gân xương thuộc Âm, vì vậy
thiên ‘Thọ Yểu Cương Nhu’ (LKhu 6) có nhắc đến trường hợp tà khí ở phần
Dương trong Dương hoặc Âm trong Dương
Vì vậy, thiên ‘Thọ YểuCương Nhu’ ghi:
(“Cho nên mới nói rằng nếu Âm bệnh ở tại Âm phận [tà khí ở Tạng]
thì châm huyệt Huỳnh (Vinh) và huyệt Du thuộc Âm ” (LKhu 6, 6), tức là
huyệt Huỳnh và huyệt Du của đường kinh liên hệ với Tạng đó.
(“Cho nên mới nói rằng nếu Âm bệnh ở tại Dương phận [tà khí ở gân
xương] thì châm huyệt Kinh thuộc Âm ” (LKhu 6, 6) tức là châm huyệt
Kinh của đường kinh vùng bệnh.
(“Cho nên mới nói rằng nếu Dương bệnh ở tại Âm phận [tà khí ở Phủ]
thì châm huyệt Hợp thuộc Dương ” (LKhu 6, 6) tức là châm huyệt Hợp
của đường kinh liên hệ với Phủ đó.
(“Cho nên mới nói rằng nếu Dương bệnh ở tại Dương phận (tà khí ở
bì phu) thì châm Lạc Mạch ” (LKhu 6, 6). Tức là châm A Thị Huyệt của
kinh Cân.
a.2) Theo Nguyên Nhân Gây Bệnh
Thiên ‘Điều Kinh Luận’ ghi: “Phàm bệnh tà sinh ra bởi âm hoặc
dương. Do dương thường là do phong, vũ, hàn, thử (LKhu 62, 50), từ đó,
sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise' giải
thích như sau:
1) Mùa Xuân: châm huyệt Tỉnh và A Thị Huyệt của kinh Cân. Ở đây,
mùa xuân có ý nghĩa là phần bì phu và là phong khí (khí của mùa xuân).
Theo nguyên tắc này thì: Khi nguyên nhân gây bệnh là phong tà (phong hàn,
phong táo, phong thử, phong thấp) ở bì phu, phải châm huyệt Tỉnh và A Thị
Huyệt của kinh Cân vùng bệnh.
Vì vào mùa xuân, khí Âm của cơ thể, giống như Địa khí hãy còn
mạnh, vì vậy khí âm ở trong kinh mạch (TVấn 64, 9). Khí dương của cơ thể
giống như Thiên khí, bắt đầu phát triển, vì vậy khí dương ở bì phu, cơ nhục,

nghĩa là, trong kinh Cân. Do đó, khí dương ở trong nhánh của kinh Cân và ở
huyệt Tỉnh của kinh.
Tà khí xâm nhập vào bì phu, theo khí dương của cơ thể đến huyệt
Tỉnh. Nó không thể tiến sâu hơn vì khí Âm hãy còn mạnh trong kinh đó là lý
do tại sao vào mùa xuân phải châm huyệt Tỉnh và các lạc mạch (Kinh cân).
Chúng ta có công thức sau:
A Thị Huyệt + Tỉnh Huyệt +
Huyệt Bổ
(Kinh Cân) (Kinh tương ứng)
2) Mùa Hạ: Châm huyệt Du của đường kinh.
Theo nguyên tăc này: khi tà khí của mùa Hạ (Thử khí) ở phần nhục
phải châm huyệt Du của đường kinh bệnh.
Giải thích: Vào mùa Hạ, khí của Tâm mạnh nhưng kém hơn dương
khí của cơ thể. Khí dương ở mặt ngoài trong mùa xuân, đến mùa hạ thì vào
phần nhục và vào kinh, ở huyệt Vinh. Sự xâm nhập này theo con đường bình
thường của kinh Cân ở huyệt Tỉnh, rồi vào huyệt Vinh và vào ngay huyệt
Du. Vì khí Dương rất mạnh nên nó không chỉ ở kinh
Cân mà còn ở trong Lạc mạch nữa. Từ Lạc mạch, theo đường riêng tà
khí xâm nhập vào kinh chính. Sau đó, tà khí theo khí Dương đến và khí
dương cũng ở trong đường kinh qua Lạc mạch và kinh Cân. Đó là ý nghĩa
câu: “Mùa hạ nên thủ các huyệt Du” (LKhu 2, 119).
3) Mùa Thu:
Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: “Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du, tà khí ở tại
phủ thì thủ huyệt Hợp” (LKhu 19, 5).
Nên nhớ rằng: mùa Thu = Gân cơ.
Khí của mùa Thu = Táo khí.
Và: đầu mùa Thu = Thử Táo
cuối mùa Thu = Phong Táo.
Như vậy ta có công thức sau:
Khi bệnh do Thử Táo hoặc Phong Táo ở gân cơ, phải châm huyệt

Kinh và Du của đường kinh bệnh.
Giải Thích: Vào mùa Thu, khí Âm của cơ thể, giống như địa khí, bắt
đầu làm chủ, nhưng không hoàn toàn.khí Dương của cơ thể, giống như thiên
khí, rất mạnh vào mùa Hạ bắt đầu giảm. Dương khí của cơ thể xâm nhập vào
kinh chính qua con đường thông thường ( qua kinh Cân) ở huyệt Kinh. Vì
thế có thể xảy ra:
a-Khi vào kinh Âm, dương khí giảm dần ở huyệt Kinh và biến mất ở
vùng lân cận (cơ, xương).
b-Khi vào kinh Dương, dương khí tiếp tục tiến về huyệt Hợp và tụ lại
trước khi nhập vào trong Phủ, sẽ tản ra vùng lân cận (cơ, xương).
Tà khí theo dương khí ở huyệt Kinh vào huyệt Hợp và có thể vừa ảnh
hưởng đến Phủ vừa ảnh hưởng đến gân cơ, xương hoặc tủy. Đó là ý của
thiên ‘Tứ Thời Khí’: “Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du, tà khí ở tại phủ thì thủ
huyệt Hợp” (LKhu 19, 5).
Tại sao lại phải dùng cùng lúc cả 2 huyệt Kinh và Du ?
Vì huyệt Du là cửa ngõ của tà khí và Vệ khí, Châm huyệt Kinh và Du,
là để nâng Vệ khí lên, không chỉ là để ngăn cản không cho tà khí tiến vào mà
còn để đưa Vệ khí đến vùng bệnh.
Như vậy, đây là công thức quan trọng để trị bệnh ở gân cơ, xương và
tủy, nghĩa là bệnh Âm ờ phần Dương.
Ghi Chú: Vào mùa Thu, khi tà khí xâm nhập vào huyệt Kinh:
- Nếu tác động vào kinh Âm: tà khí sẽ chuyển vào vùng lân cận.
- Nếu tác động vào kinh Dương: tà khí sẽ chuyển vào huyệt Hợp.
4) Mùa Đông:
+ Thiên ‘Bản Du’ ghi: “Mùa đông nên thủ huyệt Tỉnh, huyệt Du, đó là
vì muốn lưu kim lâu hơn để thủ khí ở sâu hơn (LKhu 2, 121).
+ Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: Mùa đông thủ huyệt Tỉnh, Vinh, và tất
phải châm sâu mà lưu kim lâu” (LKhu, 19, 6).
+ Thiên ‘Hàn Nhiệt Bệnh’ ghi: mùa đông thủ huyệt Kinh, huyệt Du”
(LKhu 20, 33).

Nguyên tắc này có 2 điểm khác biệt:
1-Mùa đông: âm khí làm chủ, ngược lai, mùa hạ dương khí làm chủ.
2-Mùa đông: xương, tủy, khí hàn.

×