Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bệnh thoái hóa khớp ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.82 KB, 5 trang )

Bệnh thoái hóa khớp

Nấu cơm, dọn nhà, đi chợ những công việc nhỏ nhặt này cũng có
thể là cực hình nếu bạn bị thoái hóa khớp. Bệnh thường tấn công người già
và phụ nữ, gây nên các cơn đau dữ dội và có thể dẫn đến tàn phế.
Thoái hóa khớp là tình trạng hư hỏng phần sụn đệm giữa hai đầu
xương, kèm theo phản ứng viêm và giảm thiểu lượng dịch nhầy giúp bôi
trơn ma sát ở điểm nối giữa hai đầu xương. Tình trạng này gây đau nhức và
cứng khớp, hạn chế cử động khớp. Tuy không gây tử vong như cao huyết áp,
tiểu đường nhưng bệnh ảnh hưởng nặng nề đến sinh hoạt do triệu chứng đau,
tê, hạn chế cử động
Thoái hóa khớp không phải là bệnh của riêng người lớn tuổi. Nó có
thể phát triển từ những tháng đầu tiên của cuộc đời. Khoảng 30% người trên
35 tuổi, 60% người trên 65 và 85% người trên tuổi 80 có nguy cơ mắc bệnh.
Khoảng 2/3 số bệnh nhân là phụ nữ. Sau tuổi 45, tỷ lệ nữ giới mắc bệnh cao
hơn nam giới (gấp khoảng 1,5- 2 lần). Thoái hóa khớp hay tấn công phụ nữ
trẻ sau thời kỳ mang thai và sinh nở, gây các cơn đau đớn.
Thoái hóa khớp ở người cao tuổi phần lớn không có nguyên nhân rõ
rệt. Các yếu tố thúc đẩy quá trình thoái bao gồm tuổi tác, tình trạng béo phì,
chấn thương nhẹ và mạn tính ở khớp. Nhiều nghiên cứu cho thấy, trong quá
trình lão hóa, chức năng chống đỡ của sụn bị suy giảm và dễ hư hỏng khi
khớp cử động. Thêm vào đó, các chấn thương nhẹ nhưng kéo dài nhiều năm
do khuân vác đồ nặng cũng làm tăng gánh nặng cho các khớp, khiến sự thoái
hóa thêm trầm trọng. Ngoài ra, yếu tố di truyền và di chứng từ các bệnh lý
khác cũng góp phần làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Thoái hóa khớp thường tiến triển chậm. Vào giai đoạn khởi phát,
người bệnh chỉ cảm thấy đau nhức sau một vài động tác nhỏ. Một số trường
hợp còn không cảm thấy đau đớn ở giai đoạn này. Chỉ có khoảng 1/3 bệnh
nhân có biểu hiện bệnh trên phim X-quang.
Thông thường, bệnh nhân có các biểu hiện sau: đau âm ỉ ở phần tiếp
nối giữa hai đầu xương và cứng khớp (xảy ra theo định kỳ như khi vừa ngủ


dậy hoặc đứng lên), sưng tấy tại một hoặc nhiều khớp, có tiếng lạo xạo, lụp
cụp khi co duỗi khớp gối, càng vận động càng đau nhiều. Nếu có cảm giác
nóng, đỏ và sưng tại các khớp nghĩa là thoái hóa khớp đi kèm một căn bệnh
khác.
Thoái hóa khớp thường xảy ra ở những vị trí sau:
- Ngón tay: Thường do di truyền. Tỷ lệ thoái hóa khớp ngón tay ở phụ
nữ cao hơn đàn ông (đặc biệt là phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh). Các cục bướu
nhỏ, cứng xuất hiện tại điểm cuối của các đốt ngón tay, khiến ngón tay bị to
và biến dạng, thô thiển, đi kèm cơn đau.
- Cột sống thắt lưng: Hay gặp từ đốt sống thắt lưng trở xuống, đôi khi
ảnh hưởng đến thần kinh tọa, khiến người bệnh có cảm giác đau rất mạnh từ
lưng xuống chân, như có luồng diện chạy từ trên xuống. Giai đoạn đầu, bệnh
nhân thấy đau nhiều vào buổi sáng, khi mới ngủ dạy.
Cơn đau diễn ra tối đa 30 phút thì giảm. Sau một thời gian, hiện tượng
đau lưng sẽ kéo dài cả ngày, tăng lên khi làm việc nhiều nặng và giảm dần
lúc nghỉ ngơi.
- Cột sống cổ: Biểu hiện bằng cảm giác đau mỏi ở phía sau gáy, lan
đến cánh tay ở bên có dây thần kinh bị ảnh hưởng.
- Gót chân: Bệnh nhân có cảm giác bị thốn ở gót chân vào buổi sáng,
lúc bước chân xuống giường và đi vài bước đầu tiên. Sau khi đi được vài
chục mét, cảm giác đau giảm nhiều, bệnh nhân đi đứng bình thường.
- Khớp gối: Người bệnh ngồi xổm và đứng dậy rất khó khăn, nhiều
khi phải níu vào một vật khác để đứng dậy; nặng hơn sẽ thấy tê chân, biến
dạng nhẹ khớp gối.
- Khớp háng: Người bệnh đi lại khó khăn ngay từ đầu vì khớp háng
chịu sức nặng cơ thể nhiều nhất.
Nếu thấy đau nhức ở các khớp và khó di chuyển trong hai tuần, bạn
nên đi khám bác sĩ để xác định loại thoái hóa khớp. Việc chẩn đoán và điều
trị sớm sẽ giúp giảm thiểu đáng kể cơn đau và nguy cơ tàn phế.
Hiện có hai phương pháp điều trị: dùng thuốc và không dùng thuốc.

Trong điều trị không dùng thuốc (thường được chỉ định cho trường hợp
nhẹ), bác sĩ áp dụng các phương pháp vật lý trị liệu như chườm nóng, chiếu
đèn hồng ngoại, dùng máy phát sóng ngắn hay siêu âm, xung điện giảm đau.
Vận động liệu pháp cũng có hiệu quả trong giai đoạn cơn đau đã
thuyên giảm. Lúc đau nhiều, bệnh nhân cần nghỉ ngơi, tránh cho khớp phải
hoạt động.
Nếu việc điều trị bằng phương pháp trên không còn hiệu quả tích cực,
bác sĩ sẽ kê một số thuốc có tác dụng kháng viêm - giảm đau và thuốc giãn
cơ.
Nhờ sự tiến bộ của y học, những năm gần đây, nhiều thế hệ thuốc
kháng viêm - giảm đau mới đã ra đời, được gọi chung là nhóm ức chế COX-
2. Ngoài khả năng kháng viêm, giảm đau, nhóm dược liệu này còn giúp hạn
chế 60-70% tác dụng phụ ảnh hưởng nghiêm trọng đến dạ dày (xuất huyết
hoặc thủng).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×