Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN sử THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.91 KB, 25 trang )

1. Lí do chọn đề tài
Trong sách giáo khoa lịch sử hiện nay kiến thức lịch sử không chỉ tập trung ở kênh
chữ mà còn cả ở kênh hình. Như vậy kênh hình trong dạy học lịch sử hiện nay không chỉ
được sử dụng giới hạn ở việc minh hoạ cho nội dung bài học mà là một trong những nguồn
cung cấp kiến thức lịch sử quan trong cho học sinh.
Do đó, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy
học lịch sử nói riêng đã được đề cập và đặt ra trong thực tiễn trong suốt nhiều năm gần đây
và đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, quản lí giáo dục cũng như các
giáo viên trực tiếp đứng lớp. Tất cả đều khẳng định phải đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh.
Trong dạy học lịch sử, khai thác và sử dụng kênh hình là biện pháp quan trong tích
cực để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, gây hứng thú học tập hơn cho học sinh. Đối
với giáo viên khai thác sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa, không chỉ làm cho bài
giảng trở nên sinh động, hấp dẫn mà còn góp phần quan trong trong việc tạo biểu tượng,
hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh; phát triển ở học sinh kĩ năng quan sát, trí tưởng
tượng, tư duy ngôn ngữ; giáo dục tư tưởng cảm xúc, cảm nghĩ ở học sinh. Đối với học sinh
thông qua “làm việc” với bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ các em sẽ hiểu sâu sắc hơn bản chất của
sự kiện lịch sử, nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội, nhớ kỹ, hiểu sâu những hình
ảnh, những kiến thức lịch sử. Hỉnh ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ là hình
ảnh thu nhận bằng trực quan
Tuy nhiên vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để phát huy nâng cao hiệu quả bài
học lịch sử, phát huy tính tích cực học tập của học sinh, đó là một trong những vấn đề đòi
hỏi các nhà giáo dục hiện nay cần thực hiện để đạt hiệu quả cao. Vấn đề đặt ra là sử dụng
kênh hình trong sách giáo khoa nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch
sử góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
Mặc dù việc khai thác sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa là biện pháp quan
trong để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, nhưng hiện nay vấn đề này vẫn chưa được
quan tâm một cách đầy đủ. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, song chủ yếu là:
- Chúng ta mới chỉ chú ý đến kênh chữ của sách giáo khoa và coi đây là nguồn cung
cấp kiến thức lịch sử duy nhất trong dạy – học lịch sử mà không thấy rằng kênh hình không
chỉ là nguồn kiến thức quan trọng cung cấp một lượng thông tin đáng kể, mà còn là phương


Trang
1
tiện trực quan có giá trị giúp bài học lịch sử trở nên sinh động hấp, dẫn hơn, gây hứng thú
học tập hơn cho học sinh.
- Không ít giáo viên chưa hiểu rõ xuất sứ nội dung ý nghĩa của kênh hình trong sách
giáo khoa. Trong các đợt bồi dưỡng thay sách, giáo viên hầu như chỉ được giải thích về cấu
tạo chương trình, những điểm mới về nội dung sách giáo khoa mà không được chú trong bồi
dưỡng về việc khai thác sử dụng kênh hình, mặc dù số lượng kênh hình trong sách giáo khoa
hiện hành tăng lên đáng kể so với trước.
- Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị, nội dung của kênh hình nhưng lại ngại sử
dụng và sợ mất thời gian hoặc nếu có sử dụng phần nhiều vẫn mang tình hình thức minh hoạ
cho bài giảng.
Chính vì vậy mà để phát huy tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu kiến thức lịch
sử của học sinh, phát huy tính tích cực học tập của học sinh thì kênh hình trong sách giáo
khoa có một ý nghĩa rất quan trọng trong giảng dạy lịch sử. Kênh hình sẽ giúp cho học sinh
có được những biểu tượng lịch sử, qua đó hình thành các khái niệm lịch sử trên cơ sở trực
tiếp quan sát, khắc phục tình trạng, hiện đại hoá lịch sử của học sinh. Qua hệ thống kênh
hình sẽ giúp cho học sinh hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, hiểu sâu kiến thức lịch
sử.
Từ những vấn đề đã nêu trên đây, đó là lí do em chon đề tài “sử dụng các tài liệu
tham khảo và kênh hình trong dạy học “các quốc gia cổ đại phương đông”
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung
1. Tác dụng của việc sử dụng tài liệu tham khảo và kênh hình trong bài học
lịch sử ở trường THCS.
Trong việc sử dụng tài liệu tham khảo và kênh hình trong bài học lịch sử ở trường
THCS, để nắm vững được những nội dung cũng như những cách thực hiện mang lại hiệu
quả tốt nhất trong giảng dạy ngươi giáo viên trước tiên cần nắm vững những kiến thức cơ
bản nhưng rất quan trọng, nó là tiền đề là bước khởi đầu cho sự thành công trong công tác
giảng dạy lịch sử trong thời kì công nghệ thông tin hiện đại như ngày nay.

1.1 Khái niệm về quá trình dạy học .
Trang
2
Theo quan niệm cổ truyền : quá trình dạy học là tập hợp những hành động liên tiếp,
thâm nhập vào nhau của giáo viên và của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhằm
làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống những cơ sở khoa học và trong quá trình đó,
phát triển những năng lực nhận thức và năng lực hành động, hình thành thế giới quan và
nhân sinh quan. Như vậy quá trình dạy học được hiểu là một tập hợp những hoạt động của
thây và trò, dưới sự hướng dẫn chủ đạo của giáo viên nhằm giúp trò phát huy được nhân
cách và nhờ đó mà đạt tới mục đích dạy học .
Theo quan niệm hiện nay, quá trình dạy học là một quá trình tương tác ( hợp tác)
giữa thầy và trò, trong đó thầy chủ đạo nhờ các hoạt động tổ chức, lãnh đạo, điều chỉnh hoạt
động nhận thức của học sinh, còn trò tự giác, tích cực, chủ động thông qua việc tổ chức, tự
điều chỉnh hoạt động nhận thức của bản thân nhằm đạt tới mục đích dạy học. Khái niệm nêu
trên về quá trình dạy học sẽ được phân tích kỹ nhờ những cách tiếp cận mới để vạch rõ bản
chất của khái niệm.
1.2 Bản chất của quá trình dạy học .
Sự hiểu biết của con người chỉ có thể trở nên sâu sắc và có hiệu quả khi sự hiểu biết
đó không chỉ dừng lại ở những dấu hiệu mang tính hình thức bên ngoài của sự vật hiện
tượng khiến ai cũng có thể cảm nhận được bằng trực giác, mà cái khó hơn chính là nhận
biết, phát hiện được thực chất bên trong những gì cấu thành sự vật và hiện tượng đó, quy
định sự tồn tại, phát triển và tiêu vong của chúng.
a. Những cơ sở để xác định bản chất của quá trình dạy học .
Để xác định bản chất của quá trình dạy học, cần căn cứ vào mối quan hệ giữa hoạt
động nhận thức của loài người với hoạt động học tập của học sinh và mối quan hệ giữa
hoạt động dạy với hoạt động của học trong quá trình dạy học.
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, con người muốn tồn tại và
phát triển thì phải không ngừng nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan, không ngừng
tích luỹ, hệ thống hoá, khái quát hoá kinh nghiệm, những tri thức và truyền đạt lại cho các
thế hệ kế tiếp.

Trong xã hội diễn ra hoạt động nhận thức của loài người và hoạt động dạy học cho
thế hệ trẻ trong đó hoạt động nhận thức của loài người đi trước theo con đường vòng nhằm
tìm tòi phát hiện những cái mới khách quan, còn hoạt động học của học sinh cũng là quá
Trang
3
trình nhận thức nhằm lĩnh hội những cái mới chủ quan được diễn ra trong môi trường sư
phạm, có sự hướng dẫn, có vai trò chủ đạo của giáo viên.
Khi xác định bản chất của quá trình dạy học cần xem xét mối quan hệ giữa hoạt động
dạy và hoạt động học. Dạy và học phản ánh tính hai mặt của quá trình dạy học, chúng thống
nhất biện chứng với nhau. Thầy đóng vai trò chủ đạo, trò tích cực, tự giác, chủ động lĩnh hội
tri thức kỹ năng và tự làm phong phú vốn hiểu biết của mình.
b. Những đặc điểm cơ bản của quá trình dạy học hiện nay.
Hoạt động học tập của học sinh được tích cực hoá trên cơ sở nội dung dạy học ngày
càng hiện đại hoá.
Thực tiễn quá trình dạy học đang tồn tại một mẫu khá phổ biến, một bên là nội dung
dạy học không ngừng đổi mới theo hướng hiện đại hoá, nội dung thì quá tải- mà thời gian
học tập thì quá hạn, phương pháp, phương tiện dạy học lại lạc hậu, lỗi thời
Trong quá trình dạy học hiện nay, học sinh có vốn sống và năng lực nhận thức phát
triển cao hơn so với trẻ cùng độ tuổi.
Do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay , được sống trong môi trường tri thức
ngày càng phong phú học sinh thường xuyên được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin rất đa
dạng.
So với trẻ cùng độ tuổi ở các thế hệ trước, học sinh ngày nay có năng lực nhận thức
và vốn sống phát triển hơn, thông minh hơn, năng động hơn
Vì vậy hoạt động dạy học phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triển năng lực và phẩm
chất trí tuệ, tạo nên sự biến đổi về chất trong hoạt động nhận thức.
Trong quá trình học tập, học sinh có xu hướng vượt ra khỏi nội dung tri thức, kỹ năng
do chương trình đã qui định.
Nhìn chung đa số học sinh không thoả mãn với nội dung những gì các em được học
trong chương trình, các em luôn nhạy cảm với cái mới, muốn học thêm, tự tìm tòi, phát hiện

cái mới muốn liên hệ lí luận với thực tiễn, muốn phát hiện và giải quyết vấn đề bằng nhiều
con đường, cách thức, phương án khác nhau, muốn được học thêm những môn tự chọn, tuỳ
chọn
Quá trình dạy học hiện nay được tiến hành trong điều kiện cơ sở vật chất và các
phương tiện kỹ thuật dạy học ngày càng hiện đại.
Trang
4
Cùng với sự đổi mới nội dung và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực
học tập của học sinh, các nhà trường hiện nay cũng đã được trang bị khá đầy đủ các phương
tiện dạy học, nhờ vậy mà gây hứng thú cho học tập cho học sinh, giúp họ lĩnh hội nhanh dễ
dàng hơn những tri thức và vận dung linh hoạt sáng tạo tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống.
Từ sự phân tích các cơ sở trên, chúng ta nhận thấy, hoạt động học tập của học sinh
được tiến hành trong những điều kiện sư phạm nhất định có sự tổ chức , điều khiển, hướng
dẫn cụ thể của giáo viên thông qua việc lựa chọn nội dung, việc vận dụng phối hợp các
phương pháp, phương tiện và các hình thức tổ chức dạy học. Quá trình nhận thức của học
sinh trong học tập không phải diễn ra theo đường vòng, những thử nghiệm sai lầm, những
thất bại tất yếu thường xảy ra như trong nhận thức khoa học
Vậy quá trình dạy học, về bản chất là quá trình nhận thức đặc biệt của học sinh do
giáo viên tổ chức, điều khiển nhằm chiếm lĩnh nội dung học vấn phổ thông. Nói cách khác,
dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm
thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ dạy học.
1.3 Thực trạng quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
Trong thời gian qua, nhất là từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, coi giáo
dục là quốc sách hàng đầu thì vai trò, vị trí của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông đã không
ngừng được củng cố và nâng cao .
Thực tế kết quả việc dạy và học môn lịch sử đã thể hiện rõ việc hoàn thành nhiệm
vụ của môn ở những điểm cơ bản sau.
Đã góp phần xứng đáng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện đức dục, trí
dục, thể dục và mĩ dục. Đặc biệt với lợi thế bộ môn đã góp phần quan trọng trong việc giáo
dục tư tưởng, chính trị và hình thành nhân cách thế hệ trẻ. Bộ môn lịch sử đã góp phần xứng

đáng trong việc xây dựng những con người và thế hệ tha thiết gắn bó với lý tưởng cao quý
của Đảng. Đó là lớp người có đạo đức trong sáng, có ý trí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Đó là lớp người hiểu rõ cội nguồn dân tộc, hiểu rõ công lao của tổ tiên, của các vị anh
hùng, liệt sĩ đã dũng cảm , thông minh sáng tạo xây dựng và bảo vệ tổ quốc qua các thời đại
lịch sử nên họ có đủ cơ sở để hiểu tại sao phải biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá
Trang
5
của dân tộc. Đó là lớp người có năng lực làm chủ tri thức khoa học, xứng đáng là người kế
thừa sự nghiệp cách mạng vinh quang của Đảng, của dân tộc.
Chất lượng dạy và học bộ môn lịch sử không ngừng được nâng cao. Qua các hội thi
số giáo viên dạy giỏi các cấp ngày càng nhiều và chất lượng ngày càng nâng cao. Chất
lượng bài làm của học sinh qua các kỳ thi tốt nghiệp THCS, THPT và các kỳ thi học sinh
giỏi quốc gia ngày càng xuất hiện nhiều học sinh đạt điểm khá, giỏi.
Do kết quả giáo dục về nhiều mặt của bộ môn, đã không ngừng củng cố và nâng cao
địa vị bộ môn. Môn lịch sử ngày càng chứng tỏ rằng nó không thể thiếu được trong việc
giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, tác phong trong việc hình thành nhân cách cho thế
hệ trẻ. Yêu thích bộ môn lịch sử là xu hướng lành mạnh đang thu hút ngày càng nhiều học
sinh ở các trường phổ thông hiện nay.
Có được các thành tích trên là do các nguyên nhân cơ bản sau:
- Được Đảng, nhà nước, các cấp quản lí giáo dục và nhân dân quan tâm, đánh giá
cao vai trò tác dụng của bộ môn lịch sử, trong việc giáo dục toàn diện thế hệ trẻ.
- Nhận thức được vai trò, vị trí của bộ môn Lịch sử trong sự nghiệp giáo dục, bản
thân người giáo viên Lịch sử đã không ngừng tự học, tự đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ,
đến nay hầu hết đã chuẩn hoá , một số còn vươn lên trình độ cao hơn để đáp ứng nghiệp vụ ,
yêu cầu ngày càng cao của bộ môn . Địa vị của người giáo viên Lịch sử trong trường phổ
thông ngày càng có uy tín, được xã hội và học sinh tôn vinh.
- Bản thân học sinh ngày càng nhận thấy vai trò tác dụng của bộ môn trong việc học
tập, rèn luyện để trở thành con người có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết để đáp ứng yêu
cầu của nhiệm vụ đổi mới và hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh hoàn thành nhiệm vụ của bộ môn đã nêu trên chúng ta phải thừa nhận rằng

kết quả đó còn thấp so với yêu cầu ngày càng cao của xã hội, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Do điều kiện khách quan và chủ quan chất lượng bộ môn lịch sử còn có những biểu
hiện giảm sút, thể hiện ở những điểm sau :
Không nhớ các sự kiện lịch sử hoặc nếu có nhớ thì không chính xác là hiện tượng
không chỉ ở một số ít học sinh. Không ít học sinh rất khó khăn trong việc nhớ lịch sử dân
Trang
6
tộc, nhưng lại rất nhạy bén trong việc nhớ tiểu sử, tính cách, thành tích của một vận động
viên, một ca sĩ mà các em yêu thích.
Cho đến nay, đa số học sinh vẫn còn quan niệm rằng học sử chỉ cần học thuộc lòng,
nên đã dẫn tới hậu quả đáng buồn. Khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp và khả năng tìm
hiểu nguyên nhân, bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử khả năng xâu chuỗi các sự kiện
lịch sử để tìm ra nét truyền thống, những bài học còn bị hạn chế rất nhiều, do đó làm hạn chế
hiệu quả giảng dạy và học tập của bộ môn .
Sự biết và hiểu lịch sử của học chủ yếu là lịch sử đấu tranh bảo vệ tổ quốc, phần biết
về lịch sử văn hoá, phong tục tập quán, lối sống của dân tộc qua các kỳ thi lịch sử quả là còn
hạn chế rất nhiều .
Có tình trạng nêu trên là do các nguyên nhân sau đây:
* Nguyên nhân khách quan
Cấu trúc của chương trình nhiều chỗ còn chưa hợp lí . Nhiều bài còn quá nặng kiến
thức trong khi đó số tiết lại cắt giảm
Việc sử dụng kênh hình đôi khi còn chưa phù hợp. Có giáo viên còn ngại sử dụng
kênh hình trong sách giáo khoa vì phần chưa hiểu rõ bản chất, nội dung của kênh hình, phần
còn sợ mất thời gian, một phần nghĩ không cần thiết mà chỉ để minh hoạ, nên nó góp phần
làm giảm chất lượng giảng dạy.
Bên cạnh đó hệ thống kênh hình hiện nay không có màu vì vậy sẽ rất khó khăn cho
việc mô tả, kiểm tra nhận thức của học sinh.
Cơ sở vật chất và thiết bị cho việc dạy học bộ môn còn thiếu rất nhiều, các tài liệu
tham khảo, tranh ảnh, tạp chí ở thư viện nhà trường về lịch sử hầu như rất ít

Chưa tận dụng được các hình thức dạy học khác như tổ chức thăm quan di tích lịch
sử, di tích cách mạng, các hình thức ngoại khoá, hội thảo Do đó quá trình dạy học trở nên
đơn điệu không phát huy được hết vai trò và tác dụng của bộ môn .
Một số địa phương còn thiếu giáo viên bộ môn chính ban , một số trường còn bố trí
giáo viên bộ môn văn, địa sang dạy lịch sử. Hậu quả là việc dạy bộ môn lịch sử bị xem
thường, kết quả học tập còn bị hạn chế.
* Nguyên nhân chủ quan
Trang
7
Khả năng chuyên môn nghiệp vụ của một số giáo viên bị sói mòn, một số chưa có ý
thức rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ .
Kết quả học tập của học sinh bị hạn chế nhiều mặt:
Kỹ năng học tập bộ môn không được rèn luyện việc việc ghi nhớ đơn thuần về các
sự kiện, hiện tượng lịch sử của học sinh tỏ ra không ổn, hiện tượng ghi nhớ không chính
xác, nhầm lẫn sự kiện này với sự kiện kia và nhớ không nhiều
Một số giáo viên còn dạy chay, nên nó làm tăng thêm sự hạn chế trong việc nhận
thức lịch sử của học sinh.
1.4 Tính tích cực học tập của học sinh trong hoạt động học tập
a. Quan niệm về tính tích cực học tập.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử xem tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người
trong đời sống . Khác với động vật, con người không chỉ tiếp thu những gì sẵn có trong tự
nhiên mà còn chủ động cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội, sáng tạo ra nền văn hoá
ở mỗi thời đại.
Hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục nhằm tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng,
có thể xem tính tích cực như là một điều kiện, là kết quả của sự phát triển nhân cách trẻ
trong quá trình giáo dục.
Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động khác nhau: lao động, học tập,
TDTT, vui chơi giải trí, các hoạt động xã hội.
Tính tích cực là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự gắng sức cao về nhiều mặt

trong hoạt động học tập (L.V. Relrôra). Học tập là một trường hợp riêng của sự nhận thức,
một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự chỉ đạo của giáo
viên (P.V. Grđơnier). Vì vậy nói tới tính tích cực học tập, thực chất là nói tới tính tích cực
của nhận thức.
Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động nhận thức của học sinh tập trung ở
khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức . Khi
nắm vững kiến thức, học sinh sẽ thông hiểu và ghi nhớ những gì đã trải qua trong nhận thức
tích cực của mình, trong đó các em đã phải có cố gắng trí tuệ.
Trang
8
b. Những dấu hiệu và cấp độ biểu hiện tích cực học tập.
Học sinh khao khát, tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các
câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu ra.
Học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên trình
bày chưa rõ.
Học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức
các vấn đề mới.
Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới lấy từ
những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài phạm vi bài học, môn học.
Ngoài những biểu hiện nói trên mà giáo viên dễ nhận thấy còn có những biểu hiện về
mặt xúc cảm, khó nhận thấy hơn, như thờ ơ hay hào hứng, phớt lờ hay ngạc nhiên, buồn
chán trước một nội dung nào đó của bài học hoặc khi tìm ra lời giải thích hay cho một bài
tập khó .
c. Ý nghĩa của vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước ta chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần dưới sự quản lí của nhà nước.
Học sinh và cha mẹ học sinh đã dần thích ứng với quan niệm học để có công ăn việc
làm , chấp nhận làm việc trong cả khu vực kinh tế tập thể và tư nhân chứ không chỉ tập
chung vào khu vực nhà nước như trước kia.

Trên con đường thích ứng với cơ chế thị trường chắc chắn trong thanh niên sẽ có
những chuyển biến mạnh mẽ. Nếu như trước đây còn có tư tưởng ỉ lại, không cần học giỏi,
học tốt miễn là có công ăn việc làm thu nhập cao là được, thì hiện nay học sinh, thanh niên
sẽ phải chuyển biến mạnh mẽ về động cơ, mục đích học tập, thái độ học tập của mình. Thay
cho mục đích trước kia là học để trở thành cán bộ nhà nước, có việc làm ổn định suốt đời sẽ
là học để chuẩn bị cho cuộc sống có việc làm ngày càng tốt hơn. Thay cho tâm lí ỉ lại sẽ là
sự tháo vát tự xoay sở, sự năng động tự tạo việc làm. Cùng với những điều chỉnh trong xã
hội về sử dụng lao động, tiền lương, đãi ngộ, khắc phục tiêu cực ô dù, móc ngoặt thanh
niên sẽ có ý thức được rằng học giỏi trong nhà trường hứa hẹn thành đạt trong cuộc đời,
phấn đấu trong học tập để có trình độ thực lực là con đường tốt nhất để mỗi thanh niên đạt
Trang
9
tới vị trí kinh tế xã hội phù hợp với năng lực của mình. Với một tâm lí như vậy họ sẽ chủ
động lao vào học tập không biết mệt mỏi. Một đối tượng như vậy sẽ đòi hỏi nhà trường phải
thay đổi nhiều về nội dung phương pháp giáo dục để có những sản phẩm đào tạo với chất
lượng ngày càng cao hơn, cung cấp cho thị trường lao động.
1.5 Tác dụng của việc sử dụng tài liệu tham khảo và kênh hình trong bài
học lịch sử ở trường THCS.
Trong phương pháp dạy học lịch sử, nội dung của một sự kiện lịch sử được học sinh
nhận thức thông qua việc tạo nên hình ảnh của quá khứ bằng những hoạt động của tri giác
và cảm giác. Trong sách giáo khoa lịch sử cũ kênh hình hầu như không được chú trọng nếu
có cũng chỉ để minh hoạ cho nội dung kênh chữ. Vì vậy khi giảng dạy lịch sử người giáo
viên chủ yếu sử dụng lời nói để tái tạo lại các sự kiện, hiện tượng lịch sử nên giờ học thường
trở nên nhàm chán và khô cứng.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn Lịch sử và yêu cầu đổi mới
giáo dục, cũng như thực tiễn dạy học bộ môn, việc biên soạn sách giáo khoa lịch sử trung
học cơ sở có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp. Sách giáo khoa lịch sử hiện nay
được biên soạn không chỉ là tài liệu giảng dạy của giáo viên mà còn là tài liệu học tập ở lớp
và ở nhà của học sinh theo định hướng mới. Đó là, học sinh không phải học thuộc lòng sách
giáo khoa mà cần phải tìm tòi, nghiên cứu những sự kiện có trong sách giáo khoa dưới sự tổ

chức, hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Từ đó, các em tự hình thành cho mình những hiểu
biết mới về Lịch sử. Do đó, những thông tin trong sách giáo khoa một mặt được trình bày
dưới dạng nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ. Mặt khác, kèm theo những thông tin là những
câu hỏi, bài tập yêu cầu học sinh thực hiện các hoạt động học tập khác nhau, trong đó đặc
biệt là sự giảm tải 25% số lượng kênh chữ, tăng đáng kể số lượng kênh hình. Kênh hình
trong sách giáo khoa không chỉ minh họa, làm cơ sở cho việc tạo biểu tượng Lịch sử mà còn
là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó, một số bài viết trong sách giáo
khoa còn có nhiều nội dung để ngỏ, chưa viết hết, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với
tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, sẽ tìm tòi, khám phá những kiến thức cần thiết liên quan đến nội
dung bài học mà tác giả sách giáo khoa muốn truyền tải đến học sinh.
Hiện nay, sách giáo khoa bên cạnh việc khai thác nội dung lịch sử thông qua kênh
chữ, bên cạnh đã rất chú trọng đến kênh hình. Điều đó được thể hiện thông qua số lượng
Trang
10
kênh hình tăng lên đáng kể so với trước, hơn nữa kênh hình trong sách giáo khoa hiện hành
không chỉ giới hạn ở việc minh hoạ cho nội dung bài học mà nó thường chứa đựng những
kiến thức lịch sử quan trọng đòi hỏi học sinh phải nắm được thông qua “làm việc” với kênh
hình. Vì vậy, khi giảng dạy lịch sử đòi hỏi người giáo viên không chỉ sử dụng lời nói mà còn
sử dụng những hình ảnh trực quan của quá khứ để tái tạo lại lịch sử nên giờ học trở nên sinh
động và hấp dẫn hơn đối với học sinh. Đó cũng là những yêu cầu đòi hỏi người giáo viên
thời buổi công nghệ phải đáp ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng trong dạy học.
a. Vị trí, ý nghĩa của kênh hình sách giáo khoa trong dạy học lịch sử.
Xuất phát từ thực tế đổi mới giáo dục hiện nay, SGK lịch sử THCS được biên soạn
có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp. SGK lịch sử không chỉ là tài liệu giảng dạy
của giáo viên mà còn là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học sinh. Đó là, học sinh không
phải học thuộc lòng SGK mà cần tìm tòi nghiên cứu những sự kiện có trong sách giáo khoa
dưới sự tổ chức, giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên. Từ đó, các em hình thành cho mình
những hiểu biết mới về lịch sử. Do đó những thông tin trong SGK một mặt được trình bày
dưới dạng nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, mặt khác kèm theo những thông tin là những
câu hỏi, bài tập yêu cầu học sinh thực hiện các hoạt động học tập khác nhau trong đó đặc

biệt là sự giảm tải 25% số lượng kênh chữ tăng đáng kể số lượng kênh hình.
Kênh hình trong sách giáo khoa không chỉ minh hoạ, làm cơ sở cho việc tạo biểu
tượng lịch sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó, một số
bài viết trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để ngỏ, chưa viết hết, yêu cầu học sinh
thông qua làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ…. Sẽ tìm tòi, khám phá những kiến thức
cần thiết liên quan đến nội dung bài học mà tác giả sách giáo khoa muốn chuyển tải đến học
sinh.
Kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử gồm nhiều loại : bản đồ, sơ đồ, hình vẽ, tranh
ảnh lịch sử. Mỗi loại có một phương pháp sử dụng riêng. Song tựu trung lại, có thể sử dụng
trong bài kiến thức mới , củng cố kiến thức đã học, ra bài tập về nhà và trong kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của học sinh. Riêng đối với hình vẽ, tranh ảnh lịch sử lại có hai dạng:
dùng để minh hoạ cho kênh chữ hoặc với tư cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức cho
người học.
Trang
11
Do đặc điểm của học tập lịch sử là không trực tiếp quan sát các sự kiện nên vì vậy đồ
dùng trực quan nói chung và kênh hình trong sách giáo khoa nói riêng có vai trò ý nghĩa rất
quan trọng.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp sử dụng kênh hình góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục được tình trạng “hiện đại hoá”
lịch sử của học sinh .
Kênh hình là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, hình thành khái
niệm lịch sử, nắm vững của sự phát triển của xã hội .
Kênh hình trong sách giáo khoa còn có vai tro to lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ,
hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững trắc
trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan.
Cùng với góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm, kênh hình còn góp phần
vào việc phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ của học sinh.
Nhìn vào kênh hình học sinh sẽ hình dung ra được quá khứ lịch sử được phản ánh,
minh hoạ như thế nào. Học sinh suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác có hình

ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
Kênh hình còn góp phần to lớn trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, cảm xúc thẩm
mĩ trong học sinh.
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, kênh hình góp phần to
lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử gây hứng thú học tập cho học sinh, nó là chiếc cầu
nối giữa quá khứ và hiện tại.
Do vậy khi sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử đòi hỏi giáo viên khi sử
dụng phải linh hoạt, sáng tạo . Vì vậy giáo viên phải chuẩn bị chu đáo và nhất là phải có
phương pháp phù hợp với từng loại kênh hình sao cho phù hợp với từng kiểu bài khi lên lớp
.
b. Các loại kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử ở THCS
Kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử ở THCS gồm các loại sau:
* Bản đồ lịch sử.
Trang
12
- Bản đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không gian
xác định Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng
lịch sử về mối quan hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình lịch sử,
giúp các em củng cố ghi nhớ những kiến thức đã học.
-Về hình thức bản đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết về điều kiện tự nhiên mà cần
có nhiều ký hiệu, biên giới, quốc gia, sự phân bố dân cư, thành phố, vùng kinh tế, địa điểm,
minh hoạ trên bản đồ phải đẹp chính xác, rõ ràng.
Về nội dung: bản đồ chia làm hai loại chính:
+ Bản đồ tổng hợp
+ Bản đồ minh hoạ
* Sơ đồ lịch sử.
Sơ đồ nhằm cụ thể hoá nội dung, sự kiện bằng những hình học đơn giản, diễn tả tổ
chức một cơ cấu xã hội một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử. Ví dụ
như sơ đồ: “Bộ máy công xã Pari 1871”
* Hình vẽ lịch sử.

Hình vẽ có giá trị như một tư liệu lịch sử, cung cấp hiểu biết về tư liệu lịch sử
* Tranh ảnh lịch sử
Tranh ảnh lịch sử lấy chủ đề về lịch sử như chân dung các nhân vật lịch sử, quang
cảnh lịch sử nhằm tạo biểu tượng, khôi phục lại hình ảnh con người, đồ vật, biến cố, sự kiện
một cách cụ thể, sinh động và khá sát thực .
2. Phương pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử nhàm phát
huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS.
Muốn đổi mới cách học thì trước hết phải đổi mới cách dạy, phải xác định rõ vai trò
của thầy và trò trong dạy – học. Trong phương pháp đổi mới phải có sự kết hợp, hợp tác của
thầy – trò và có sự phối hợp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Tăng
cường vận dụng các phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn lịch sử để phát huy tính tích
cực của học sinh.
Trong sách giáo khoa lịch sử kênh hình gồm nhiều loại: Lược đồ, sơ đồ, tranh ảnh,
hình vẽ, … Trong một bài học có thể có một hoặc nhiều kênh hình vì vậy giáo viên cần căn
Trang
13
cứ vào mục đích yêu cầu của bài học, xác định loại kênh hình để có những cách khai thác sử
dụng phù hợp và có hiệu quả.
* Phương pháp sử dụng bản đồ, sơ đồ lịch sử.
Bản đồ, sơ đồ lịch sử là những kênh hình không thể thiếu được trong dạy học lịch
sử. Nhờ có bản đồ, sơ đồ mà học sinh có biểu tượng đúng đắn về hình ảnh địa lí, địa điểm
xảy ra sự kiện lịch sử. Vì vậy khi giảng bài, giáo viên có thể không trình bày tất cả nội dung
trong sách giáo khoa mà lên hướng dẫn học sinh nhận biết các sự kiện qua việc quan sát bản
đồ. Giáo viên có thể đặt ra câu hỏi cho học sinh, những câu hỏi mà chỉ có thể đọc được bản
đồ mới trả lời được.
Như vậy bản đồ, sơ đồ giúp học sinh có lựa chọn đúng đắn về không gian, hoàn cảnh
địa lí xảy ra sự kiện, ghi nhớ địa danh gắn liền với những đặc điểm điều kiện tự nhiên, cụ
thể hoá sự kiện lịch sử. Bản đồ còn góp phần phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, tư duy
và ngôn ngữ cũng như tính tích cực hoạt động của học sinh. Nhìn vào bất cứ bản đồ lịch sử
nào học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung những hiện tượng lịch sử được

phản ánh, suy nghĩ và diễn đạt bằng lời nói chính xác, rõ ràng, cụ thể những hiện tượng lịch
sử đã qua.
Lược đồ gợi ý học sinh quan sát, khai thác nội dung bằng những câu hỏi gợi ý để học
sinh nắm được nội dung lịch sử trên lược đồ. Cuối cùng giáo viên lược thuật một cách ngắn
gọn để học sinh hiểu nội dung lịch sử trên lược đồ.
*PhƯơng pháp sử dụng tranh ảnh, hình vẽ, chân dung lịch sử.
Hình vẽ, tranh, ảnh trong sách giáo khoa là một phần của đồ dùng trực quan trong
quá trình dạy học. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là phương tiện trực quan có giá trị
giúp bài học trở nên sinh động, hấp trong sách giáo khoa là phương tiện trực quan rất quan
trọng trong dạy học lịch sử. Nó không chỉ góp phần quan trọng tái tạo lại cho học sinh
những hình ảnh lịch sử với các nét điển hình đặc trưng nhất mà còn khắc phục được tình
trạng nhầm lẫn, hiện đại hoá lịch sử của học sinh. Trên lược đồ các sự kiện luôn được thể
hiện trong một không gian, thời điểm, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định. Đối với
học sinh việc sử dụng lược đồ không những chỉ để ghi nhớ, xác định vị các địa điểm lịch sử
mà còn để hiểu rõ nội dung của lược đồ. Hiểu lược đồ không chỉ là biết các chú dẫn, các kí
hiệu mà cần thấy sau các điều quy ước ấy, những hiện tượng lịch sử sinh động.
Về cách sử dụng lược đồ giáo viên cần lưu ý:
Trang
14
Trước hết phải giới thiệu cụ thể tên lược đồ và giải thích rã cho học sinh các kí hiệu
ghi trên lược đồ. Sau đó hướng dẫn học sinh quan sát, khai thác nội dung lịch sử được thể
hiện trên lược đồ theo hai cách sau:
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, quan sát lược đồ và lên bảng trình bày
ngắn gọn nội dung lịch sử có trên lược đồ. Sau đó giáo viên lược thuật một cách ngắn gọn
nội dung.
Tranh ảnh, hình vẽ lịch sử có ý nghĩa to lớn là nguồn kiến thức lịch sử, có tính giáo
dục tính cách, phát triển tư duy học sinh. Sử dụng tốt loại kênh hình này sẽ phát huy được
tính tích cực học tập của học sinh tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận thức. Vì vậy khi
sử dụng kênh hình tranh ảnh, hình vẽ giáo viên cho học sinh quan sát tranh ảnh, hình vẽ
tương ứng với nội dung kiến thức có liên quan và đồng thời nên sử dụng câu hỏi miêu tả

hoặc tường thuật kiến thức lịch sử biểu hiện trong đó. Tuy nhiên cũng cần dành thời gian để
học sinh quan sát tranh ảnh, hình vẽ và động viên các em nói lên những suy nghĩ, nhận thức
của mình , qua quan sát tranh ảnh qua đó giáo viên uốn nắn, hướng dẫn học sinh nhận thức.
Trong những điều kiện có thể gợi ý, tạo ra các cuộc thảo luận, tranh luận của các em khi
quan sát một bức tranh hay hình vẽ nào đó.
Đối với các tranh ảnh về nhân vật lịch sử chúng ta cần hướng cho học sinh khi quan
sát và tạo nên các biểu tượng về nhân vật. Giúp các em không chỉ ở việc miêu tả bề ngoài
( áo quần, hình dáng…) mà cần chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi, vai trò của
nhân vật đó. Sử dụng chân dung phải nhằm mục đích giáo dưỡng, giáo dục. Đối với các
nhân vật chính diện cần khơi dậy ở các em lòng kính trọng, cảm phục, biết ơn với những
cống hiến cũng như tài trí của họ.
Đối với nhân vật phản diện hướng cho học sinh nhận xét những biểu hiện của tính
gian ác, tham lam, xảo huyệt của nhân vật ấy, không nên để học sinh bị thu hút về hình thức
của nhân vật mà quên đó là nhân vật phản diện.
Trong khi sử dụng chân dung, giáo viên phải phân tích, giải thích, hướng dẫn cho học
sinh không những hiểu được vai trò của nhân vật trong lịch sử, qua đó các em tự đánh giá
được nhân vật đó.
Trang
15
II. Sử dụng tài liệu tham khảo và sử dụng kênh hình trong dạy học
bài “Các quốc gia cổ đại phương Đông”
1. Thiết kế bài giảng “Các quốc gia cổ đại phương Đông”
Tiết 4: CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI PHƯƠNG ĐÔNG
I-MỤC TIÊU BÀI HỌC :
1.Kiến thức:
Học sinh cần nắm
- Sau khi xã hội nguyên thủy tan rã, xã hội có giai cấp và nhà nước ra đời.
- Những nhà nước đầu tiên đã được hình thành ở phương Đông, bao gồm Ai Cập,
Lưỡng Hà, An Độ và Trung Quốc từ cuối thiên niên kỷ IV – đầu thiên niên kỷ III Tr.CN
- Nền tảng kinh tế, thể chế nhà nước ở các quốc gia này.

2. Về tư tưởng, tình cảm:
- Xã hội cổ đại phát triển cao hơn xã hội nguyên thuỷ nhưng cũng là thời đại bắt đầu
cố giai cấp.
- Bước đầu ý thức về sự bất bình đẳng, sự phân chia giai cấp trong xã hội và về nhà
nước chuyên chế.
3.Về kỹ năng:
Bước đầu hình thành các khái niệm về các quốc gia cổ đại.
4.Trọng tâm:
- Nhà nước ra đời từ bao giờ ?
- Xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
- Những thành tựu văn hoá và kiến trúc thời cổ đại.
II- ĐỒ DÙNG DẠY HỌC :
- Những công trình kiến trúc thời cổ đại.
- Lược đồ các quốc gia cổ đại phương Đông.
- Tư liệu thêm (nếu có)
- Hướng dẫn học sinh vẽ hoặc phôtô (tô màu các quốc gia) dán vào tập học (trang 14)
III. HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC :
Trang
16
1. Ổn định lớp.
2.Kiểm tra bài cũ.
- Bầy người nguyên thuỷ sống như thế nào?
- Đời sống của Người tinh khôn có những điểm nào tiến bộ hơn so với Người tối cổ?
- Công cụ bằng kim loại đã có tác dụng như thế nào?
3.Giảng bài mới:
A. Phần mở bài:
Khi công cụ kim loại ra đời  sản xuất phát triển thì xã hội nguyên thuỷ tan rã, xã
hội có giai cấp và nhà nước ra đời. Những nhà nước đầu tiên đã được hình thành ở phương
Đông, các quốc gia này đều được hình thành trên lưu vực của những con sông lớn có điều
kiện thuận lợi và hình thành một loại hình xã hội riêng biệt, xã hội cổ đại phương Đông.

B. Giảng nội dung bài mới:
Hoạt động của Thầy Hoạt động của Trò Nội dung
a. Hoạt động 1: Các quốc
gia cổ đại phương Đông đã
được hình thành ở đâu và
từ bao giờ?
Giáo viên hướng dẫn học
sinh quan sát bức tranh,
đồng thời giới thiệu cho học
sinh thấy những hình ảnh
khắc trên tường đá lăng mộ.
Sau đó giáo viên đặt ra một
số câu hỏi và yêu cầu học
sinh trả lời
F Các quốc gia ấy ra đời ở
đâu? Từ bao giờ?
F Tại sao lại ra đời ở các
Học sinh quan sát, kết hợp
lời giáo viên giảng với quan
sát bức tranh, hình ảnh khắc
trên lăng mộ và trả lời các
câu hỏi giáo viên đặt ra
- Các lưu vực sông lớn (cuối
thiên niên kỷ IV đầu thiên
niên kỷ III Tr.CN)
- Đất đai màu mỡ nước có
đủ quanh năm.
1. Các quốc gia cổ
đại phương Đông đã
được hình thành ở

đâu và từ bao giờ?
- Hình thành trên lưu
vực các con sông lớn.
- Hình thành vào cuối
thiên niên kỷ IV –
Trang
17
dòng sông lớn?
F Họ sống bằng nghề nào là
chính?
F Muốn cho nông nghiệp
đạt năng suất cao họ đã phát
huy khả năng gì?
- Nhờ có đất phù sa màu mỡ
và nước tưới đầy đủ, sản
xuất nông nghiệp cho năng
suất cao, lương thực dư
thừa.
F Vấn đề gì đã phát sinh?
F Kể tên các quốc gia cổ
đại phương Đông ?
b. Hoạt động 2: Xã hội cổ
đại phương Đông bao gồm
những tầng lớp nào?
Trước tiên giáo viên chi học
sinh quan sát hình ảnh bia
khắc luật Ham-mu-ra-bi
trong sách giáo khoa. Sau đó
giáo viên giới thiệu đôi nét
về bộ luật này và đặt ra các

câu hỏi yêu cầu học sinh trả
lời
F Xã hội cổ đại có những
tầng lớp nào?
- Trồng lúa.
- Làm thuỷ lợi: đắp đê, đào
kênh, máng dẫn nước và
ruộng.
- HS tả lại cảnh làm ruộng
của người Ai Cập (trồng lúa,
đập, gặt, nộp thuế)
Học sinh quan sát hình ảnh
mà giáo viên hướng dẫn
khai thác kiến thức kết hợp
trả lời các câu hỏi giáo viên
đã đặt ra
- Nông dân công xã, quý tộc
và nô lệ.
đầu thiên niên kỷ III
TCN.
2. Xã hội cổ đại
phương Đông bao
gồm những tầng lớp
nào?
Có 3 tầng lớp cơ bản:
- Nông dân công xã:
chiếm số đông, giữ
vai trò chủ yếu trong
Trang
18

- Cư dân chủ yếu làm nghề
nông  bộ phận đông đảo
nhất và là lực lượng sản xuất
chính của xã hội.
F Nghĩa vụ của nông dân ?
F Cuộc sống của họ phụ
thuộc vào ai?
F Đứng đầu quan lại là ai?
F Hầu hạ vua, quý tộc là ai?
- Cho HS quan sát hình 9 và
tìm hiểu về bộ luật hamurabi
và thần Samat đang trao bộ
luật cho vua Hamuarabi.
F Em có nhận xét gì về đạo
luật này?
F Qua đạo luật,em nghĩ gì
về người cày có ruộng?
- Sự quan tâm của nhà nước
 khuyến khích sản xuất
nông nghiệp.
- Cày thuê ruộng phải có
trách nhiệm và nghĩa vụ đối
với ruộng cày cấy.
c. Hoạt động 3: Nhà nước
chuyên chế cổ đại phương
Đông
F Các nhà nước cổ đại
- Nhận ruộng đất công xã
cày cấy  nộp một phần thu
hoạch, lao dịch không công

cho quý tộc.
- Quý tộc, quan lại có nhiều
của cải, quyền thế.
- Đứng đầu là Vua có quyến
lực tối cao trong các lĩnh
vực.
- Nô lệ.
- HS giải thích các từ : Công
xã, lao dịch, quý tộc, Samat
trong SGK.
- Người cày có ruộng.
- HS đọc 2 điều luật 42, 43
để rút ra 2 ý chính là sự
quan tâm của nhà nước,
quyền lợi và nghĩa vụ của
nông dân.
- Vua nắm quyền hành và
sản xuất.
- Quý tộc: có nhiều
của cải và quyền thế.
- Nô lệ: phục dịch
cho quý tộc.
 nô lệ, dân nghèo
nhiều lần nổi dậy
(Lưỡng Hà 2300
Tr.CN, Ai Cập 1750
Tr.CN)
3. Nhà nước chuyên
chế cổ đại phương
Đông

- Vua nắm mọi quyền
Trang
19
phương Đông do ai đứng
đầu đất nước ?
F Vua có quyền hành gì?
- Giải thích: ở mỗi nước vua
được gọi dưới các tên gọi
khác nhau:
+ Trung Quốc: thiên tử
+ Ai Cập: Pharaon
+ Lưỡng Hà: Ensi
F Giúp việc cho vua là tầng
lớp nào?
F Nhiệm vụ của quý tộc?
 Họ tham gia vào việc
chính trị và có quyền hành,
thậm chí lấn quyền vua.
F Em có nhận xét gì về bộ
máy hành chính của các
nước phương Đông?
được cha truyền co nối.
- Đặt ra luật pháp, chỉ huy
quân đội, xét xử những
người có tội, được coi là đại
diện thánh thần.
-Tầng lớp quý tộc.
-Thu thuế, xây dựng cung
điện, đền tháp và chỉ huy
quân đội.

- Bộ máy hành chính từ
trung ương đến địa phương
còn đơn giản và do quý tộc
nắm giữ.
hành chính trị (chế độ
quân chủ chuyên chế)
- Giúp việc cho vua là
tầng lớp quý tộc.
 Bộ máy hành
chính còn đơn giản và
do quý tộc nắm giữ.
C. Kết luận toàn bài:
Trang
20
Cũng do nhu cầu sản xuất nông nghiệp và trị thuỷ các dòng sông mà ở phương
Đông đã xuất hiện các quốc gia chuyên chế cổ đại, trong đó vua là người đứng đầu, do
các yếu tố về kinh tế – xã hội, chính trị đã tạo thành một xã hội riêng biệt – xã hội cổ đại
phương Đông.
4. Củng cố:
- Kể tên các quốc gia cổ đại phương Đông ?
- Xã hội cổ đại phương Đông bao gồm những tầng lớp nào ?
- Ở các nước phương Đông, nhà vua có quyền hành gì ?
- Thế nào là chế độ quân chủ chuyên chế ?
5. Dặn dò:
- Học bài kỹ, trả lời các câu hỏi trong SGK
- Phôtô bản đồ và tô màu các quốc gia cổ đại dán vào trong tập.
- Xem trước bài: “Các quốc gia cổ đại phương Tây”
2. Các tài liệu tham khảo và kênh hình đưa vào trong bài dạy và lí do
đưa vào tài liệu, kênh hình đó
Hình 8 – Tranh khắc trên tường đá một lăng mộ ở Ai Cập thế kỉ XIV TCN

Nội dung
Thông qua những bức phù điêu trên vách đá các hầm mộ, trên tường Kim Tự Tháp
miêu tả sinh động các hoạt động, sinh hoạt đời thường của con người. Trong đó có cả cảnh
làm ruộng của người Ai Cập cổ xưa ở lưu vực sông Nin.
Kì lên - xuống của dòng sông Nin cũng là chi kì lao động của người Ai Cập cổ đại.
Hằng năm vào khoảng tháng 11 đến tháng 2 năm sau, khi nước lũ sông Nin rút đi, để lại
những lớp phủ sa màu mỡ, cũng là lúc bắt đầu mùa gieo hạt. Người ta dung cày gỗ do cừu
kéo để làm đất, người tra hạt di sau,tra vào các lỗ do chân cừu tạo nên hoặc dung một cọc gỗ
tạo lỗ cho một người tra hạt. Cảnh này chúng ta có thể quan sát khá rõ ở góc bên trái, phía
trên của bức tranh. Đến mùa thu hoạch, cư dân dùng liềm cắt lúa cho vào sọt do hai người
khiêng. Toàn bộ nửa dưới bức tranh miêu tả nội dung này. Gặt hái xong, lúa được đem về
nhà đập, xảy hạt lép,phơi khô và cất giữ để ăn dần
Trang
21
Từ việc đọc và phân tích bức tranh đá này kết hợp với những bức tranh khác, có thể
khẳng định ở cuối thế kỉ XVI TCN, kĩ thuật làm ruộng của người Ai Cập đã đạt đến trình độ
cao hơn. Vì vậy nâng suất lao động tăng lên và đại bộ phận dân cư đều tham gia hoạt động
sản xuất nông nghiệp-nền kinh tế chủ đạo của cư dân Ai Cập cổ đại nói riêng và cư dân
phương Đông nói chung.
Hình 9 – Bìa đá khắc luật Ham-mu-ra-bi (Lưỡng Hà)
Thông qua cách trình bày người giáo viên góp phần giúp cho học sinh nắm rõ nội
dung của hình ảnh
Nội dung
Năm 1901-1902, các nhà khảo cổ học Pháp đang khai quật ở một khu vực hoang tàn
của thành phố cổ Su-dơ, một người công dân đã cuốc phải một tảng đá. Họ đã cẩn thận đào
tảng đá đó lên. Đó là một cái cột tròn bằng đá lửa, cao gần 2 mét được các nhà khoa học xác
định là bìa đá khắc bộ luật của vua Ham-mu-ra-bi trị vì ở Babilon từ năm 1792 đến năm
1750 TCN.
Bia được chia thành hai phần rõ rệt. Phần trên là hình trạm nổi khắc hình vua Ham-
mu-ra-bi mặc áo dài, đầu vấn khăn như người Ba Tư cổ, đứng trước vị thần Mặt Trời. Vị

thần ngồi trên ngai, đội mũ có sừng đang phê chuẩn bộ luật do vua Ham-mu-ra-bi đặt ra và
cho phép nhà vua thay mặt các vị thần thi hành pháp luật. Phần dưới của bia chia làm nhiều
ô khắc những điều luật do vua Ham-mu-ra-bi đặt ra cho Babilon.
Nội dung của bộ luật gồm 282 điều, đề cập đến hầu hết các vấn đề kinh vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hóa của Vương quốc Babilon. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến
quyền lực của nhà vua và công tác thủy lợi cũng như sản xuất nông nghiệp. Đồng thời bộ
luật cũng thể hiện sự công bằng, bình đẳng giữa con người với con người.
Phương pháp
3. Minh họa việc sử dụng
Hình 8 – Tranh khắc trên tường đá một lăng mộ ở Ai Cập thế kỉ XIV TCN
Ở hình này giáo viên sử dụng để giảng dạy mục 1- Các quốc gia cổ đại phương Đông
được hình thành ở đâu và từ bao giờ? Đặc biệt là khi dạy về đời sống kinh tế của các quốc
gia này.
Trang
22
Để thực hiện được một cách tốt nhát giáo viên cần làm những công việc như sau:
Trước tiên, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức tranh, đồng thời giới thiệu cho
học sinh thấy những hình ảnh khắc trên tường đá lăng mộ không chỉ khẳng định về mặt văn
hóa mà còn là nguồn tư liệu quý giá giúp chúng ta khôi phục lại lịch sử thế giới thời cổ đại.
Giáo viên tiến hành miêu tả kết hợp với phân tích khái quát để học sinh thấy
được đây là bức tranh miêu tả tiến trình sản xuất nông nghiệp của cư dân Ai Cập thời cổ đại.
Cuối cùng, giáo niên hỏi học sinh một vài câu hỏi để học sinh rút ra kết luận như:
Những hình ảnh khắc trên lăng mộ phản ánh điều gì?
Tại sao kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước lại phát triển ở các quốc gia cổ đại
phương Đông?
Những thuận lợi và khó khăn của con người khi sinh sống ở lưu vực các con sông?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên tóm tắt và kết luận.
Hình 9 – Bìa đá khắc luật Ham-mu-ra-bi (Lưỡng Hà)
Trong bức ảnh này giáo viên dung để giảng dạy ở mục 2-Xã hội cổ đại phương Đông
bao gồm những tầng lớp nào ? và được thực hiện cụ thể như sau:

Trước tiên giáo viên chi học sinh quan sát hình ảnh bia khắc luật Ham-mu-ra-bi trong
sách giáo khoa. Sau đó giáo viên giới thiệu đôi nét về bộ luật này
Để học sinh thấy được giá trị của bộ luật Ham-mu-ra-bi, giáo viên yêu cầu học sinh
đọc đoạn chữ in nghiêng trong sách giáo khoa và trả lời các câu hỏi gợi mở như:
Qua hai điều luật trên, theo em người cày thuê ruộng phải làm việc như thế nào?
Những ưu điểm của bộ luật này ?
Bộ luật Ham-mu-ra-bi đã khẳng định quyền hành của nhà vua như thế nào ?
Sau đó giáo viên tiến hành miêu tả, phân tích và kết luận.
C. KẾT LUẬN
Thông qua bài tập nghiên cứu khoa học này giúp sinh viên chúng em có nhiều cảm
xúc và nhiều bài học kinh nghiệm hơn trong nghề dạy học của mình.
Bộ môn lịch sử đã được xác định từ lí luận cũng như thực tiễn vai trò, ý nghĩa của nó
trong giáo dục thế hệ trẻ. Nhân dân ta đã có nhiều kinh nghiệm, quý giá trong việc giáo dục
truyền thống dân tộc. Qua thực tế soạn giảng cũng như công tác giảng dạy mới thấy được
Trang
23
tầm quan trong của môn lịch sử, càng ngày càng khẳng định lịch sử không phải là môn học
phụ chỉ mang tính chất học cho biết mà cần phải nắm vững học lịch sử phải vừa biết vừa
hiểu và vận dụng những kiến thức mà mình đã tiếp thu vào trong thực tiễn và giải thích các
sự kiện hiện tượng lịch sử cho thế hệ sau hiểu rõ.
Do vậy, trong những năm gần đây việc giáo dục lịch sử đã có nhiều tiến bộ, điều đó
được thể hiện trong nhận thức của học sinh qua các kỳ thi.
Tuy nhiên kết quả giáo dục lịch sử cũng còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề cần đề cập
đến. Điều này phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan, chủ quan như những tác động của
cơ chế thị trường, sự thiếu sót trong chương trình, sách giáo khoa, sự quản lí, chỉ đạo bộ
môn,… Trong đó nổi lên là vấn đề đổi mới phương pháp trong dạy học lịch sử.
Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử đòi hỏi phải tiến hành trên
nhiều cơ sở khoa học, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm và cải tiến cho phù hợp với
yêu cầu, nội dung dạy học hiện nay.
Với trách nhiệm của một người giáo viên lịch sử , thiết nghĩ mỗi giáo viên lịch sử hãy

làm cho mình và hiểu rõ sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ, nội dung, đặc trưng của lao động
giảng dạy lịch sử. Trong thời đại hiện nay đòi hỏi người giáo viên lịch sử cần có chuyên
môn sâu hơn, tinh tế hơn, sâu sắc hơn.
Giảng lịch sử là giảng về quá khứ xã hội loài người, quá khứ dân tộc, quá khứ đó lại
có liên quan mật thiết với hiện tại và tương lai. Trong bài giảng, bài học lịch sử tình cảm và
tư duy của giáo viên và học sinh về những gì gần gũi đó là những con người thật việc thật.
Vì vậy để giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, giáo viên phải là tấm gương về giáo dục, có
sự thống nhất sâu sắc giữa lí trí và tình cảm đúng đắn nếu giáo viên đòi hỏi học sinh học
nghiêm túc mà bản thân không nghiêm túc trong giảng dạy thì tác dụng giáo dục của giáo
viên không thể có hiệu quả.
Để có hiệu quả giáo dục, giáo viên lịch sử cần biết vận dụng các biện pháp sư phạm
trong đó có việc gắn liền với dạy học lịch sử với đời sống bên ngoài nhà trường. Song tri
thức lịch sử phải hợp lí không máy móc, không gò bó, nhạy cảm trong nhận thức quan điểm,
đường lối của Đảng và vận dụng có kết quả quan điểm, đường lối của Đảng vào hoạt động
giảng dạy.
Trang
24
Để giảng dạy đạt hiệu quả tốt, người giáo viên cần phải có những cái riêng, giữa cái
riêng, giữa các giáo viên lịch sử, cái riêng về phong cách, về sự sáng tạo trong phương pháp
về cấu trúc bài giảng, về cách diễn đạt lịch sử.
Để trau dồi năng lực nghiệp vụ sư phạm, GV lịch sử cần phải coi trọng vai trò của sự tích
luỹ, của việc tham khảo, sự cải tiến đổi mới của việc tự kiểm tra đánh giá mình, trình độ, chuyên
môn, khả năng nghiệp vụ. Và nhất là trong giai đoạn hiện nay khi vấn đề đổi mới giảng dạy nói
chung và đổi mới dạy học lịch sử nói riêng nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thì phương
pháp sử dụng tài liệu và kênh hình SGK lịch sử càng đóng góp một phần rất to lớn trong việc đổi
mới giảng dạy lịch sử. Bởi vì kênh hình ngoài việc cung cấp những thông tin về lịch sử, còn có tác
dụng giáo dục, rèn luyện kỹ năng rất lớn đối với học sinh. Vì vậy phương pháp sử dụng tài liệu và
kênh hình SGK là một nội dung quan trọng -
Trang
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×