Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

SÁCH TỐ VẤN - Thiên sáu mươi lăm pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.18 KB, 5 trang )

SÁCH TỐ VẤN
Thiên sáu mươi lăm: TIÊU BẢN LUẬN

Hoàng Đế hỏi:
Bệnh có tiêu (ngọn), bản (gốc), thích có nghịch có tùng (thuận), nghĩa
đó như thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Về phương pháp thích, phải phân biệt âm dương, trước sau cùng ứng,
nghịch tùng đều hợp, tieuâ bản cùng thay đổi (1) [2].
Cho nên nói rằng: có khi ở tiêu, mà cầu nó ở tiêu, có khi ở bản, mà
cầu nó ở bản, có khi ở bản mà cầu nó ở tiêu, có khi ở tiêu mà cầu nó ở bản
[3].
Cho nên về phương pháp điều trị, có khi lấy ở tiêu mà được, có khi
lấy ở bản mà được, có khi nghịch thủ mà được, có khi tùng thủ mà được [4].
Vậy nếu biết nghịch với tùng đó là chính pháp không còn gì hơn, biết
được tiêu bản muôn làm muôn đứng, không biết tiêu bản, làm càn ra chi (2).
[5]
Nói về cái đạo âm dương, nghịch tùng, và tiêu bản mới nghe nhỏ,
mà sau thật lớn, nói một điều mà biết được cái hại của trăm bệnh [6].
Ít mà là nhiều, nóâng mà là sâu, có thể nói một mà biết được trăm [7].
Do nóâng mà biết được sâu, xét gần mà biết được xa. Nói tiêu với bản,
không nên tương phản [8].
Trị “phản” là nghịch, trị “đắc” là tùng (1). Trước mắc bệnh mà sau
nghịch, trị ở bản; trước nghịch mà sau mắc bệnh, trị ở bản 2 [9]. Trước hàn
mà sau sinh bệnh, trị ở bản, trước mắc bệnh mà sau sinh hàn, trị ở bản 3
[10]. Trước nhiệt mà sau mắc bệnh, trị ở bản, trước nhiệt mà sau xin trung
mãn, trị ở tiêu (4) [11]. Trước mắc bệnh mà sau tiết tả, trị ở bản, trước tiết tả
mà sau thêm bệnh khác, trị ở bản, hãy điều hòa trước đã, rồi hãy trị bệnh
khác (5) [12]. Trước mắc bệnh mà sau sinh chứng phiền tâm, trị ở bản. Bởi ở
trong thân thể con người, có khách khí, lại có đồng khí (6) [13]. Tiểu, đại
không lợi, trị ở tiểu, tiểu, đại lợi, trị ở bản (7) [14]. Bệnh phát sinh mà hữu


dư, bản mà là tiêu, trước hãy trị bản, rồi mới trị tiêu bệnh phát sinh mà bất
túc, tiêu mà là bản, trước hãy trị tiêu, rồi mới trị bản (8) [15]. Cẩn thận xét
xem “gian” hay “Thậm”, lấy ý của mình để điều trị. Nếu “gian” thời tính
hành, “thậm” thời độc hành. Tỉ như: trước tiểu, đại không lợi, mà rồi mới
sinh bệnh khác, phải trị ở bản (9) [16].
Bệnh có tương truyền, tỉ như Tâm bệnh, trước Tâm thống qua một
ngày thời phát chứng Khái, qua ba ngày Hiếp chi thống: qua năm ngày vít
lấp không thông, thân đau mình nặng, qua ba ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa
Đông chết về nửa đêm, mùa Hạ chết về đúng trưa (1). [17]
Bệnh ở Phế, suyễn khái, qua ba ngày mà hiếp chi mãn và thống, lại
qua một ngày mà thân nặng mình đau, lại qua năm ngày mà trướng. Lại qua
mười ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về lúc mặt trời lặn, mùa hạ
chết về lúc mặt trời mọc (1). [18]
Bệnh ở Can, đầu váng mắt hoa, Hiếp chi mãn, qua ba ngày, mình
nặng, thân đau, qua năm ngày, sẽ phát trướng, lại qua ba ngày, yêu, tích và
thiếu phúc đau, ống chân nhức, lại qua ba ngày không khỏi, sẽ chết. Mùa
Đông chết về lúc mặt trời lặn, mùa Hạ chết về sáng sớm (1) [19].
Bệnh ở Tỳ, thân đau, mình nặng. Qua một ngày mà Trướng, qua hai
ngày, thiếu phúc, yêu, tích đau, xương ống chân nhức, qua ba ngày, bối, lữ
và cân thống, tiểu tiện bế, qua mười ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông,
chết về lúc người đi ngủ yên; mùa Hạ, chết về lúc nửa buổi (1) [20].
Bệnh ở Thận, Thiếu phúc và yêu, tích thống, xương ống chân, rức,
qua ba ngày, bối, lữ, cân thống, tiểu tiện bế, qua ba ngày, phúc trướng, qua
ba ngày lưỡng hiếp chỉ thống, lại qua ba ngày, không khỏi, sẽ chết Mùa
Đông, chết về lúc sáng rõ, mùa Hạ, chết về lúc tối đã lâu (1) [21].
Bệnh ở Vị, trướng mãn, qua năm ngày, thiếu phúc và yêu tích thống,
xương ống chân nhức; qua ba ngày, bối, lữ, cân thống, tiểu tiện bế, qua năm
ngày thân thể nặng nề, qua sáu ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa đông chết về
nửa đêm, mùa Hạ chết về xế chiều (1) [22].
Bệnh ở Bàng quang, tiểu tiện bế; qua 5 ngày, Thiếu phúc trướng, yêu

tích thống, xương ống chân nhức, qua một ngày, phúc trướng, lại qua một
ngày thân thể thống, lại qua hai ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông, chết
về gà gáy, mùa Hạ, chết về chiều tà (1) [23].
Các bệnh ở trên do sự “thắng, khắc” mà truyền đều có cái trường hợp
chóng chết, dù có phép thích cũng không sao cứu chữa được. Hoặc
tương truyền đến cách một Tàng, thời thôi, không truyền sang Tàng khác
nữa, như thế mới có thể thích. Tỉ như: Tâm bệnh truyền Can, Can bệnh
truyền tỳ, đó là con đi lấn mẹ Đến Can Tàng, Tỳ Tàng thời thôi, không lại
do sự “thắng, khắc” để truyền sang Tàng khác. Như thế mới có thể dùng
phép thích. Lại tỉ như: Tâm bệnh truyền Tỳ, Phế bệnh truyền Thận, đó là mẹ
đi lấn con, nhờ được cái sinh khí của mẫu tàng, còn là chứng không đến nóãi
chết. Lại như Tâm bệnh truyền Thận, Phế bệnh truyền tâm, Can tàng truyền
Phế v.v Đó là do nơi “sở bất thắng” mà lại, bệnh nhẹ, cũng có thể dùng
phép thích [24].

×