Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Con mình phải có tên thật hay! pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.78 KB, 7 trang )

Con mình phải có tên
thật hay!

Anh A là một giảng viên
đại học về ngôn ngữ học
nên rất tự tin trong việc tìm
cho con một cái tên. Ngay
khi vợ mang bầu, anh đã
bắt đầu công cuộc tìm
kiếm cái tên cho con. Với
mong muốn con có một cái
tên mà ai nghe thấy cũng
phải “ngước nhìn” nên anh
lôi từ điển Hán Việt ra tra
nghĩa của các từ. Không
tìm được cái tên nào ưng ý,
anh tiếp tục vào mạng rồi

Nguồn ảnh: Inmagine.com
liệt kê những nhân vật lịch sử của đất nước và thế giới.
Cuối cùng càng tìm anh càng thấy rối, không biết chọn tên
nào là hợp tình hợp lý nhất. Anh mang nỗi lòng ra thổ lộ
với các đồng nghiệp và lấy ý kiến trưng cầu về những cái
tên nhưng mỗi người một ý nên rút cuộc tới ngày sinh của
vợ mà anh vẫn chưa chọn được cái tên nào. Lúc y tá gọi
anh lên hỏi tên bé để viết giấy khai sinh, anh thật thà chưa
biết đặt tên gì, chị y tá tủm tỉm cười rồi bảo: Sao phải cầu
kỳ thế. Anh mong muốn con anh sau này như thế nào thì
đặt tên là thế như muốn nó giỏi giang thì đặt tên là Tài,
muốn nó đức độ thì tên là Đức… Nghe thấy vậy anh như
tỉnh cả người và quyết định đặt tên con là Hiếu vì anh


mong con sẽ hiếu thảo với bố mẹ và gia đình, là một người
sống có tình cảm.
Trên thực tế, đặt tên cho con liên quan tới rất nhiều vấn đề
như văn tự học, âm vần học, dân tộc học, sử học, văn hoá
tông pháp và nhiều tri thức khoa học hiện đại, chính vì thế
nó đã phát triển thành một môn mệnh danh học.
Khi đặt tên cần tuân thủ các nguyên tắc:
 Âm vần của tên gọi phải hay, đẹp: đặt tên là để người
khác gọi, vì thế phải hay, kêu, tránh thô tục, không trúc
trắc.
 Tiếp đến là tránh họ và tên cùng vần cùng chữ, tránh
dùng nhiều chữ để dễ gọi.
 Khi đặt tên cần chú ý sự thống nhất hài hòa giữa họ và
tên.
 Tên gọi phải có ngụ ý hay: điều quan trọng nhất của
việc đặt tên là chọn chữ nghĩa sao cho hay và lịch sự. Vì
thế phải căn cứ vào thẩm mỹ, chí hướng, và sở thích để
chọn chữ nghĩa.
Những điều chú ý khi đặt tên:
 Hạn chế đặt tên đơn, vì tên đơn dễ bị trùng tên.
 Khi đặt tên không nên chạy theo thời cuộc chính trị
rồi đặt tên gọi mang mầu sắc chính trị.
 Khi đặt tên không nên dùng những từ cầu lợi, làm cho
người khác có cảm giác đó là sự nghèo nàn về học vấn.
 Khi đặt tên không nên cuồng tín, nông cạn quá… Đặt
tên gọi tuyệt đối quá, cực đoan quá sẽ làm cho người khác
không có ấn tượng tốt.
 Không nên đặt tên nam nữ, âm dương trái ngược nhau,
nữ không nên đặt tên Nam, nam không nên đặt tên Nữ để
người khác dễ phân biệt.

 Tránh các tên dễ bị chế giễu khi nói lái như Tiến Tùng
ra Túng Tiền.
 Các bạn ở nước ngoài nên tránh những tên gọi khi viết
không dấu mang những nghĩa khác của địa phương như
chữ Phúc và Dũng trong tiếng Anh.
 Không nên tùy tiện đổi tên.
Phương pháp đặt tên
 Có nhiều cách đặt tên, nhưng thường theo một mô
thức nhất định:
 Lấy họ mẹ làm tên gọi hay chữ đệm.
 Kỷ niệm ngày tháng năm sinh: Mậu Dần, Thu Hương,
Xuân Mai…
 Nữ giới thường đặt tên các loài hoa như Lan, Huệ,
Quỳnh, Mai, Đào; bằng tên các loài chim như Yến,
Khuyên, Mi; bằng mầu sắc như Hồng, Thanh, Lam; bằng
các chữ trữ tình như Huệ, Nhàn, Vân, Hà, Diễm, Phương…
bằng các chữ thể hiện đạo đức của nữ giới như Trinh, Thục,
Ái, Mỹ Linh, Khiết Tâm…
 Nam giới khi đặt tên nên thể hiện được sự cương trực,
kiên cường, trung hiếu, ý chí và hoài bão, ví dụ các chữ
Đức, Lương, Công, Nghị, Quang, Hiền thể hiện tính cách,
đạo đức; các chữ Trường Giang, Sơn Hải, Vạn Lý… thể
hiện phong độ oai phong lẫm liệt, tư tưởng quyết thắng của
các tướng soái; các chữ Hiếu, Trung, Nghĩa, Chính thể hiện
khí tiết con người; Chí Kiên, Hướng Tiền thể hiện sự sáng
suốt, ý chí kiên cường.
Tên con cháu thường do ông bà hoặc người có vai vế trong
họ đặt cho. Tục lệ này thể hiện rõ nét tính liên tục và tính
truyền thống của văn hóa gia đình. Ông bà hay những
người có vai vế thường là người hiểu biết rộng hoặc nắm

được hệ thống tên của những thành viên trong dòng họ, tên
các vị cao niên trong làng, thậm chí tên thành hoàng làng,
thần thánh… Nhờ đó, việc đặt tên con cháu sẽ phù hợp với
hệ thống, lại tránh trùng lặp mắc tội "phạm húy". Chính
điều này quyết định việc đặt tên thường được tiến hành
trước khi đứa trẻ ra đời. Trong lúc người mẹ mang thai, ông
bà cha mẹ hầu như đã chuẩn bị đặt tên bé. Nhiều gia đình
chọn ngay những cái tên có giá trị "nối tiếp" với tên cha
hoặc tên mẹ. Chẳng hạn, tên cha là Khải, tên con là Hoàn;
tên mẹ là Thuần, tên con là Thục… Những gia đình phong
kiến thường chọn cách đặt tên theo cung cách vua quan
xưa, tức là chuẩn bị một dãy tên để "đặt dần". Thực tế đã có
nhiều gia đình đặt đúng và đủ các tên trong dãy.
Ngày nay, cách đặt tên đã có những thay đổi đáng kể. Mặc
dù ảnh hưởng của ông bà cha mẹ vẫn rất lớn, nhưng phải
thừa nhận rằng cách nhìn nhận về việc đặt tên đã thoáng
hơn nhiều. Cách đặt tên con để thể hiện nguyện vọng của
gia đình vẫn còn. Bên cạnh đó, người ta có thể dùng ghép
tên quê cha và mẹ để đặt tên con. Thí dụ: cha quê Thái
Bình, mẹ quê Hà Nội, tên con là Thái Hà.
Trước đây, ngoài việc tránh đặt tên con cái trùng với tên
ông bà tổ tiên, việc đặt tên con trùng với bạn bè, người thân
cũng hết sức tránh. Nay quan niệm này có đổi khác. Trừ
ông bà tổ tiên, những người thân của cha mẹ, những người
mà cha mẹ hâm mộ cũng thường được cha mẹ lấy tên đặt
cho con.
Các dấu hiệu giới tính trong tên gọi như "Văn" cho tên con
trai và "Thị" cho tên con gái dường như không còn là yếu
tố bắt buộc nữa.
Là một hiện tượng ngôn ngữ – văn hóa tồn tại lâu bền với

thời gian, cách đặt tên luôn là một vấn đề gây nhiều tranh
luận thú vị và chắc chắn sẽ luôn có một vị trí nhất định
trong đời sống văn hóa và ngôn ngữ của người Việt chúng
ta.

×