"Thiên Trường vãn vọng" - Một tuyệt tác của Trần Nhân tông
Nguyễn Khắc Phi
Chương trình Ngữ văn cấp Trung học cơ sở (THCS) đã đưa vào thêm một
số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, trong đó có bài Thiên Trường vãn vọng của
Trần Nhân Tông. Có lẽ người làm chương trình đã cân nhắc nhiều khi phải chọn một
trong ba tác phẩm: Xuân hiểu, Hạnh Thiên Trường hành cung và Thiên trường vãn
vọng. Hạnh Thiên Trường hành cung là một tuyệt tác song hơi khó đối với học sinh
THCS. Xuân hiểu thật trong sáng, dễ hiểu, song lại không thể hiện được nhiều
phương diện tư tưởng và tình cảm của tác giả như Thiên Trường vãn vọng.
Người viết phần này ở Sách giáo khoa đã chọn bản dịch của Ngô Tất Tố:
Trước xóm sau thôn tựa bóng lồng,
Bóng chiều man mác có dường không.
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng
(1)
.
Bản dịch khá hay, tuy nhiên, khi có điều kiện, nên cân nhắc so sánh thêm với
bản dịch của Trần Lê Văn, ít nhất cũng nên cho học sinh đọc thêm bản dịch này:
Thôn trước thôn sau nhạt khói lồng,
Bóng chiều nửa có nửa hư không.
Đi trong tiếng sáo trâu về hết,
Cò trắng song song liệng xuống đồng
(2)
.
Xin ghi phiên âm nguyên văn bài thơ để tiện so sánh hai bản dịch và làm cơ sở
cho việc phân tích:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Bản dịch của Trần Lê Văn không lưu giữ được bóng dáng những chú mục đồng
như bản dịch của Ngô Tất Tố dẫu vẫn có thể cho thấy gián tiếp qua hình ảnh “Đi
trong tiếng sáo trâu về hết”. Tuy nhiên, nhìn chung, có lẽ bản dịch của Trần Lê Văn
sát và hay hơn.
Một trong những yếu tố tạo nên nhịp điệu êm ái, hài hòa ở thơ của Trần Nhân
Tông là việc sử dụng khá nhiều điệp ngữ, nhiều lúc còn kết hợp điệp ngữ và tiểu đối.
Chẳng hạn, ở bài Hạnh Thiên Trường hành cung, bài thơ chỉ có 56 chữ, tác giả đã
điệp đến 12 chữ: thanh, u, châu, bách, thiên, vô, sự, hữu, thu, dĩ, du, niên. Cả 8 câu
đều dùng tiểu đối toàn bộ hoặc bộ phận, trong 8 câu đã có đến 4 câu ngắt nhịp theo
mô hình 3/4, khác với lối ngắt nhịp thông thường ở thơ Đường luật:
Cảnh thanh u / vật diệc thanh u,
Nguyệt vô sự / chiếu nhân vô sự.
Thủy hữu thu / hàm thiên hữu thu,
Kim niên du / thắng tích niên du.
Trong Thiên Trường vãn vọng, ở 2 câu đầu, tác giả đã điệp 2 chữ thôn và bán,
đồng thời kết hợp với tiểu đối bộ phận (thôn hậu / thôn tiền: bán vô/ bán hữu). Bản
dịch của Trần Lê Văn đã giữ được gần như trọn vẹn những biện pháp tu từ ấy mặc dù
“thôn trước thôn sau” là chưa sát ý với “thôn hậu thôn tiền” (sau thôn, trước thôn). Ở
câu thứ nhất, Trần Lê Văn giữ được nghĩa chữ “đạm” (nhạt), Ngô Tất Tố giữ được
nghĩa chữ “tự” (tựa) nhưng cả hai đều phải thêm chữ “lồng” làm cho hình ảnh của cả
câu ít nhiều đã khác so với nguyên bản. Chữ yên trong thơ cổ rất khó dịch. Yên có
nghĩa là khói song cũng chỉ tất cả những gì mù mịt trong không trung giống như khói,
bởi vậy, dịch là “mờ tựa khói” như GS. Lê Trí Viễn có lẽ sát và ổn hơn
(3)
. Phải chăng
nên chỉnh câu thơ dịch của Trần Lê Văn bằng cụm từ này, thành Thôn trước thôn sau
mờ tựa khói? Trong thơ Đường luật, câu đầu có thể gieo vần hoặc không. Có như vậy
thì sự xuất hiện của cụm từ “bán vô bán hữu” ở câu tiếp theo mới được tự nhiên, hợp
lôgic. Ở câu thứ hai, Ngô Tất Tố đã thêm chữ “man mác”. Man mác có thể dùng để tả
cảnh song cảnh ấy thường nhuốm một nỗi buồn lâng lâng, lan tỏa, đặt ở đây e không
phù hợp với tâm cảnh tác giả và cũng không ăn khớp với hình ảnh được miêu tả ở hai
câu sau. Ở câu thứ ba, đi trong tiếng sáo rõ ràng là sát nghĩa, nên thơ hơn là sáo vẳng.
Ở câu cuối, song song hay từng đôi đều ổn, tuy sắc thái biểu cảm và tác dụng gợi cảm
cũng có khác nhau chút ít. Cuối cùng là việc dịch tên đề thơ, một vấn đề thường
không đơn giản. Ít nhất đã có ba cách dịch khác nhau. Bản ở Hợp tuyển: Ngắm cảnh
chiều ở Thiên Trường (Sđd, tr.96), bản ở SGK Ngữ văn 7: Buổi chiều đứng ở phủ
Thiên Trường trông ra, bản ở Đến với thơ hay: Từ cung Thiên Trường ngắm cảnh
đồng quê buổi chiều. Điểm nhìn ở cách dịch thứ nhất không rõ; đối tượng nhìn ở cách
dịch thứ hai thiếu xác định, ở cách dịch thứ ba lại quá cụ thể!
Đưa ra vài nhận xét trên đây, chúng tôi chỉ muốn bày tỏ một ước vọng: làm sao
có được bản dịch hay nhất của các tác phẩm ưu tú viết bằng chữ Hán của tiền nhân để
con em chúng ta có thể tiếp thu được đầy đủ tinh hoa của truyền thống văn hóa dân
tộc?
GS. Lê Trí Viễn cho rằng, ở bài Thiên Trường vãn vọng, “nhà thơ là thiền sư, con
mắt thế tục nhưng tâm thiền”. Tuy nhiên, với đối tượng là học sinh phổ thông, giáo sư
chủ trương: “Tạm gác phía thiền cảm. Hãy dừng ở thế tục, ở cảm quan hiện thực”.
SGK Ngữ văn 7 về cơ bản cũng chủ trương như vậy.
Bài thơ tả một cảnh thôn quê đơn sơ, đạm bạc như muôn vàn cảnh thôn quê lúc
chiều xuống song lại có sức chứa đựng lớn lao kỳ vĩ và có ý nghĩa hiện thực sâu rộng.
Để làm rõ điều đó, GS. Lê Trí Viễn đã gắn việc phân tích mọi từ ngữ, chi tiết,
hình ảnh của bài thơ với hoàn cảnh sáng tác - “sau chiến thắng quân Nguyên Mông
lần thứ hai, lần thứ ba và sau một thời gian khôi phục lại cuộc sống yên lành cho đất
nước” - và với “tầm mắt và tầm nghĩ, điệu xúc động của một ông vua thi sĩ”, Trần
Nhân Tông, ông vua “đã tự thân lăn lộn trong dân, cùng nhân dân vào sinh ra tử gian
khổ biết chừng nào mới đánh đuổi được quân giặc, giành lại được cho đất nước, cho
dân cảnh sống thanh bình nảy”. Do đó, “bài thơ ngắn này không phải là một khắc mà
thơ của một thời đại, rất tiêu biểu cho một thời đại vẻ vang vào bậc nhất trong lịch sử
dân tộc ta”
(4)
.
Xin tìm hiểu thêm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ này xét từ góc độ “thế tục” và
“cảm quan hiện thực”. Bài thơ đã phác họa được một bức tranh sinh động, có phông
nền, đường nét, màu sắc, hình khối, có đôi chỗ khác với không ít những bài thơ thiền
viết về thiên nhiên thường ít màu sắc, đường nét, tuy có thể “mang một loạt hình ảnh
thiên nhiên nhưng mục đích cuối cùng của thiền gia không phải là miêu tả chính thiên
nhiên đó mà là dùng thiên nhiên như một “công cụ ngoại hóa” mang tải những tư
tưởng của Thiền tông”. Nói cách khác, “Thiên nhiên trong thơ thiền gia mang tính
chất là những biểu tượng để thiền gia chuyển tải các tư tưởng thiền”
(5)
.
Từ cung Thiên Trường, cặp mắt “vãn vọng” của ông vua thi sĩ đã quét từ chiều
rộng (từ xa đến gần, từ “sau thôn” đến “trước thôn”) đến chiều dài theo hướng con
đường dẫn các chú mục đồng cùng đàn trâu dần khuất vào ngõ xóm, rồi chiều cao
theo hướng những cánh cò liệng từ trên không xuống cánh đồng, nhờ đó, đã dựng lên
được một không gian nghệ thuật mang tính lập thể.
Hai câu đầu của bài thơ có thể gợi liên tưởng tới bốn câu thơ trong bài Dã sắc
(Sắc đồng nội) cũng tả cảnh chiều hôm của Phạm Trọng Yêm, nhà chính trị, nhà thơ
nổi tiếng đời Tống:
Phi yên diệc phi vụ
Mịch mịch ánh lâu đài
Bạch điểu hốt điểm phá
Tàn dương hoàn chiếu khai
Nghĩa là:
Chẳng phải khói cũng chẳng phải sương mù
Mịt mùng in bóng lên lâu đài
Cánh chim trắng bỗng xé toang
Mặt trời sắp lặn còn lóe chiếu
Cảnh sắc bảng lảng của trời chiều lúc hoàng hôn là rất khó tả một cách chính
diện và trực tiếp; cả hai nhà thơ đều dùng thủ pháp “thực giả, hư chi; hư giả, thực
chi”, tức dùng cái hư và cái thực làm nổi bật lẫn nhau. Ở Phạm Trọng Yêm, lâu đài,
cánh chim trắng, mặt trời sắp lặn là những yếu tố “thực” làm nổi bật cái mông lung
huyền ảo “chẳng phải khói cũng chẳng phải sương mù”; ở Trần Nhân Tông cũng vậy:
tác giả không tả bản thân cảnh mặt trời sắp lặn, xóm thôn mà là cái sau thôn và trước
thôn, cái bên mặt trời lặn, cái nhạt tựa khói và nửa không nửa có, tức cái thần của
khung cảnh. Bởi vậy, dịch “thôn hậu, thôn tiền” thành “thôn trước, thôn sau” là chưa
lột được cái thần đó. Cảnh sắc sau thôn và trước thôn đều giống nhau, đều “nhạt tựa
khói” lúc hoàng hôn, đó còn là dấu hiệu đặc trưng của cảnh ở đồng bằng, nếu tả cảnh
sau núi và trước núi thì không thể nói như thế. Như vậy là chỉ qua 2 câu thơ đầu, ta đã
thấy Trần Nhân Tông có một cặp mắt quan sát rất tinh tế, vừa có một tâm hồn thi sĩ,
vừa có tài năng của một họa sĩ.
Về đặc điểm nghệ thuật của 2 câu sau, xin được kết hợp nói ở phần dưới.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự biểu hiện thiền cảm, thiền ý, thiền tâm ở
những bài thơ miêu tả thiên nhiên của Trần Nhân Tông không rõ ràng bằng ở những
bài thơ viết về cùng đề tài của nhiều nhà sư thời Lý- Trần. Cần nói thêm: ngay so sánh
với những bài thơ khác miêu tả thiên nhiên của chính Trần Nhân Tông, sự biểu hiện
thiền ý ở bài Thiên Trường vãn vọng cũng kín đáo hơn, do đó, nói như Nguyễn Kim
Sơn và Trần Thị Mĩ Hà, “ngộ được thiền ý trong đó không phải là đơn giản” Hai tác
giả này đã lý giải sự bộc lộ thiền ý ở bài thơ này một cách khá đầy đủ và thỏa đáng:
“Cả bài thơ không dùng một điển tích Phật giáo nào, cảnh vật cũng chỉ là một làng
quê hết sức bình thường. Nhưng trong cái tưởng như bình thường đó lại chứa đựng cả
một quan niệm về thế giới của tác giả. Thôn xóm như được bao phủ bởi một lớp
sương huyền ảo, trở nên “mờ mờ” không rõ ràng. Cảnh vật cũng ở trạng thái không hề
xác định “nửa như có” mà cũng “nửa như không” trong ánh chiều tà của một ngày.
Trên cánh đồng, trẻ mục đồng dắt trâu về trong tiếng sáo: cái có lại chuyển dần thành
cái không. Trên nền “không” của cánh đồng đó, lại xuất hiện một cái “có”: đôi cò
trắng song song đáp xuống đồng. Tất cả nằm giữa hai bờ hư thực, vừa mờ ảo như
được phủ trong khói, vừa rõ ràng đến mức trông thấy cả đôi cò đáp xuống cánh đồng
mênh mông”
(6)
.
Chúng tôi cho rằng có thể làm rõ thêm thiền ý thiền cảnh ở tính chất vừa động
vừa tĩnh ở hai câu sau. Quy ngưu là động, quy ngưu tận là vừa động vừa tĩnh; nếu nói
xuy địch là động, còn địch lí ở đây là vừa động vừa tĩnh. Nhất hàng bạch lộ thướng
thanh thiên (Tuyệt cú - Đỗ Phủ) là động, Bạch lộ song song phi hạ điền ở đây là vừa
động vừa tĩnh. Chính mặt tĩnh này ở hai câu cuối cùng với chất tĩnh đậm đặc ở hai câu
trên đã làm cho bài thơ tràn ngập cái thường được gọi là thi tình họa ý. Cũng có thể
xét từ góc độ sự biểu hiện thiền tâm thiền cảm thường mang tính chất đối cảnh vô
tâm, tâm thân lưỡng vong để cho rằng không nên thêm ý man mác vào câu thứ hai.
Không nên nghĩ rằng thiền ý bộc lộ không rõ ràng là chất thiền không sâu đậm
mà thực ra là ngược lại. Thiền tông cho rằng bình thường tâm thị đạo, pháp nhĩ tự
nhiên cho nên ở đây không có một thuật ngữ Phật giáo nào (như vẫn thường thấy
trong các bài kệ và phần lớn các bài thơ thiền khác), không có một hình ảnh thiên
nhiên mang tính chất biểu tượng thuần túy nào, đó chính là sự thể hiện trí tuệ tối cao,
thiền lí sâu đậm. Vấn đề đặt ra ở đây là vì sao sự thể hiện thiền lí sâu đậm ấy lại có
thể kết hợp một cách nhuần nhuyễn với cảm quan hiện thực như đã nói trên. Trước
hết, phải tìm nguyên nhân ở ngay giáo lí của Thiền tông, Thiền học không muốn
hướng con người vào một cõi tồn tại khác sau cái chết mà là khuyên bảo con người
hãy chấp nhận hiện thực như nó đang tồn tại, vấn đề là cần thay đổi thái độ với chính
hiện thực ấy. Điều đó giải thích vì sao trong không ít bài thơ, thậm chí trong cả một số
bài kệ, của một số thiền sư ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, vẫn thấy bóng dáng
của hiện thực ở những mức độ khác nhau. Các nhà sư theo phái Thiền tông lạc đạo
nhưng vẫn cư trần. Nguyên nhân quan trọng khác là ở cuộc đời hết sức đặc biệt của
thiền sư - ông vua thi sĩ này, cuộc đời luôn gắn bó với vận mệnh của nhân dân, của
dân tộc. Tất nhiên, không phải ở bài thơ nào của Trần Nhân Tông cũng có được sự kết
hợp hài hòa như vậy (ví dụ như trong các bài Tảo mai, Mộ xuân tức sự). Trong Thiên
Trường vãn vọng, mọi vật đều ở bên ranh giới của hư-thực, có-không, động-tĩnh, đó là
đặc điểm của cảnh hoàng hôn của làng quê thanh bình, đó cũng là cảnh giới Phật. Một
vấn đề khác cần đặt ra: có nên gọi Thiên Trường vãn vọng là thơ thiền không? Theo
tôi, không nên gọi tất cả các bài thơ do thiền sư sáng tác ra là thơ thiền vì sự thể hiện
thiền ý, thiền cảm ở đó luôn có những mức độ khác nhau. Ở Thiên Trường vãn
vọng, sự thể hiện thiền ý rất sâu sắc song theo tôi chỉ nên xem đây là một bài thơ
nhuốm tư tưởng thiền mà không phải là một bài thơ thiền vì ở đây cảm quan hiện thực
cũng không kém phần sâu đậm, đặc biệt là ở câu thứ tư. Trong thơ Đường, câu cuối
bao giờ cũng để lại một dư âm vang vọng. Khó có thể nói đây là một câu thơ mang
thiền ý sâu đậm. Xin mượn lời bình câu thơ này của giáo sư Lê Trí Viễn để bày tỏ ý
kiến của mình: “Bạch lộ là cò trắng. Lúa đang lên xanh, chân ruộng xắp nước, cò rủ
nhau xuống ruộng kiếm ăn. Một nét vui đồng ruộng nhưng được nhấn mạnh, tách
riêng từng đôi. Dường như giấu trong đó một niềm vui hạnh phúc tình yêu, hoặc cao
hơn, một sự sinh sôi của sự sống. Từng đôi có trống có mái chứ không tán loạn, tan
tác như thời còn giặc. Cả một cảnh êm ả như dàn ra, bao bọc cho những lứa đôi này:
cò trắng, lúa xanh, cá tôm dưới gốc. Chuẩn bị sẵn sàng, kín đáo cho no ấm và cho
hạnh phúc sinh sôi”
(7)
.
Với tất cả những điều phân tích trên, có thể khẳng định Thiên Trường vãn vọng
là một tuyệt tác, một trong những bài thơ tứ tuyệt Đường luật cô đọng nhất, một trong
những bài thơ trữ tình hay nhất của văn học trung đại Việt Nam
__________________
(1) SGK Ngữ văn 7, tập Một. Nxb. Giáo dục, H, 2003, tr.75.
(2) Hợp tuyển Văn học trung đại Việt Nam - Thế kỷ X-XIX, tập Một. Nxb. Giáo dục, H, 2004,
tr.97.
(3) Đến với thơ hay. Nxb. Giáo dục, H, 1997, tr.70.
(4) Đến với thơ hay. Sđd, tr.71-75.
(5) Nguyễn Kim Sơn - Trần Thị Mĩ Hà : Mấy phương diện thẩm mĩ của thơ nho gia và thiền gia,
trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIX. Những vấn đề lí luận và lịch sử. Trần Ngọc Vương chủ
biên. Nxb. Giáo dục, H, 2007, tr.365-366.
(6) Sđd, tr.368.