Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

ĐỘNG TỪ THÀNH NGỮ TRONG LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU ANH NGỮ VÀ VIỆT NGỮ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.09 KB, 6 trang )

ĐỘNG TỪ THÀNH NGỮ TRONG LĨNH VỰC
NGHIÊN CỨU ANH NGỮ VÀ VIỆT NGỮ


ThS. HOÀNG MINH PHÚC
Bộ môn Anh văn
Khoa Khoa học cơ bản
Trường Đại học Giao thông Vận tải

Tóm tắt: Động từ thành ngữ (ĐTTN) là một đơn vị cú pháp-ngữ nghĩa rất phổ biến
những lại vô cùng phức tạp và khó dùng trong tiếng Anh. Do đó mục đích của bài báo này là
tóm tắt các quan điểm cơ bản về ĐTTN trong lĩnh vực nghiên cứu Anh ngữ và Việt ngữ, nhằm
tiến tới xây dựng cơ sở lý luận về ĐTTN tiếng Anh trong sự so sánh với tiếng Việt giúp cho
người Việt trong việc học và sử dụng tiếng Anh.
Summary: The phrasal verb is a very popular but extremely complex and difficult-to-use
semantic – syntantic unit in English. Thus, the aim of this article is to summarize the most
essential viewpoints on phrasal verbs in English and Vietnamese linguistics in order to build
up theoretical background on English phrasal verbs in comparison with that of Vietnamese so
as to support the Vietnamese in studying and using English.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong tiến trình hội nhập và toàn cầu
hóa ngày nay, tiếng Anh ngày càng khẳng
định được vai trò then chốt như một phương
tiện giao tiếp thông dụng nhất trên thế giới
trong mọi lĩnh vực: kinh tế thương mại, du
lịch, hợp tác quốc tế, khoa học kỹ thuật… Ở
Việt Nam, đó là một tiến trình đương nhiên,
kết quả là lượng người theo học tiếng Anh
ngày càng nhiều.
Đối với đa số người Việt, việc học tiếng


Anh không dễ dàng, bởi tiếng Việt và tiếng
Anh là hai ngôn ngữ rất khác nhau, tiếng Anh
là ngôn ngữ biến hình, còn tiếng Việt là ngôn
ngữ đơn lập, âm tiết tính, mỗi ngôn ngữ đều
mang những đặc trưng rất riêng về từ vựng,
ngữ pháp. Thêm vào đó, sự xa cách về mặt địa
lý, sự khác nhau về truyền thống lao động
canh tác, văn hóa xã hội… tạo nên những sự
khác biệt lớn giữa hai ngôn ngữ - một nguyên
nhân gây khó khăn cho người Việt học tiếng
Anh và ngược lại.
Trong rất nhiều hiện tượng gây khó khăn
cho người Việt học tiếng Anh phải kể đến
động từ thành ngữ (phrasal verbs). Nếu như
các động từ thông thường (được tạo thành từ
một từ = single-word verb) như see (nhìn
thấy, trông thấy, xem), go (đi); carry (mang,
xách) không gây khó khăn cho người Việt, vì
sự tương đương dễ thấy giữa hai ngôn ngữ, thì
see sb off, go down (by, up, down to, down
with…), carry out luôn là một thử thách cho
họ khi lựa chọn tương đương cho chúng trong
tiếng Việt.
Động từ thành ngữ (ĐTTN) tiếng Anh là
một vấn đề khó đối với người nước ngoài,
trong đó có người Việt. 94,6% giáo viên dạy
tiếng Anh và 100% sinh viên đang học tiếng
Anh tham gia khảo sát khẳng định điều này.
Một vài nguyên nhân gây ra thực trạng này là
tần suất và phạm vi sử dụng; tính chất phức

tạp về mặt hình thức cấu trúc, chức năng ngữ
pháp, và ngữ nghĩa – ngữ dụng, tính đa
nghĩa của đơn vị từ vựng này. Hơn nữa, việc

tìm tương đương cho các ĐTTN tiếng Anh
trong tiếng Việt vẫn luôn là một thử thách đã
và đang đặt ra trước những người Việt học và
sử dụng tiếng Anh
Chính vì tính chất phức tạp của ĐTTN
tiếng Anh, việc tìm hiểu những kết quả đã đạt
được về ĐTTN trong lĩnh vực nghiên cứu
Anh ngữ và Việt ngữ là một việc làm thiết
thực có ý nghĩa cao để tiến tới xây dựng cơ sở
lý luận tổng quan về đối tượng, tìm ra những
nét tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ,
đặc biệt là nhận diện và phân loại ĐTTN tiếng
Anh trong sự so sánh với tiếng Việt, khiến
chúng trở nên thân thiện và tiện dụng cho
người sử dụng.
1. ĐTTN trong lĩnh vực nghiên cứu
Anh ngữ
Phrasal verbs (ĐTTN) là một thuật ngữ
trong tiếng Anh được dùng để chỉ kết hợp cố
định của động từ (với tư cách là thành tố
chính hay thành tố trung tâm) và một hoặc hai
tiểu từ đứng phía sau (là phó từ hoặc giới từ)
tạo nên một nghĩa nhất định. Chính vì vậy
phrasal verbs trong tiếng Anh còn được gọi
bằng những tên gọi khác như lexical verbs
(động từ từ vựng tính), prepositional verbs

(động từ kèm giới từ); phrasal – prepositional
verbs (động từ đi kèm phó từ và giới từ) two-
word verbs (động từ hai thành tố); three-word
verbs (động từ ba thành tố) multi-words verb
(động từ đa thành tố)…
Là một hiện tượng phức tạp trong tiếng
Anh, ĐTTN được đề cập đến nhiều trong các
công trình ngữ pháp tiếng Anh của Randolph
Quirk & Sidney Greenbaum, Geoffrey Leech,
Mak Halliday, Digby Beaumont & Colin
Granger… Ngoài ra, vì tính chất phức tạp về
ngữ nghĩa của đơn vị từ vựng này, mà ĐTTN
được các nhà từ điển học đặc biệt quan tâm,
chúng được biên soạn thành một nội dung
riêng biệt trong các từ điển giải nghĩa Anh –
Anh bên cạnh các thành ngữ và sáo ngữ, hoặc
chúng trở thành đối tượng trung tâm để
nghiên cứu và soạn thảo thành các cuốn từ
điển chuyên dụng về ĐTTN. Các tác giả có
nhiều cống hiến trong lĩnh vực này phải kể
đến là Collins Cobuild, Rosemary Courtney
hoăc nhà xuất bản Oxford. Ngoài ra, nhiều tác
giả lấy ĐTTN làm trọng tâm nghiên cứu để
biên soạn những cuốn sách thực hành sử dụng
ĐTTN như Michael Mc Carthy & Felicity
O’Dell và John Flower…
Theo từ điển Oxford Advanced Learner’s
Dictionary (1982), ĐTTN được giải nghĩa là
“idiomatic phrase consisting of a verb plus
preposition(s) or a verb plus adverbial

particle, e.g. go in for, fall over, blow up”
(một cụm từ mang tính thành ngữ bao gồm
một động từ tổ hợp với (các) giới từ hoặc một
động từ tổ hợp với một phó từ như go in for,
fall over, blow up).
Theo một quan điểm hẹp, ĐTTN được
coi là kết hợp của động từ với phó từ, nhưng
theo quan điểm rộng hơn thì ĐTTN là một
thuật ngữ chung dùng để chỉ kết hợp của động
từ với tiểu từ (là phó từ/giới từ hoặc phó từ và
giới từ).
Sự khác biệt trong việc sử dụng một thuật
ngữ chung cho ĐTTN xuất phát từ góc độ của
nhà nghiên cứu. Nếu xuất phát từ bình diện
hình thức cấu trúc, đặc biệt là lượng thành tố
cấu thành ĐTTN, những tên gọi như two-
word verbs, three-word verbs, multi-word
verbs được ưa dùng. Nếu xét trên góc độ từ
loại của tiểu từ trong ĐTTN, thì các thuật ngữ
như prepositional verbs, phrasal –
prepositional verbs là thỏa đáng. Tuy nhiên,
nếu đứng trên bình diện ngữ nghĩa-ngữ pháp,
các thuật ngữ idiomatic hay phrasal lại chiếm
ưu thế. Dẫu sao thì thuật ngữ phrasal verb
cũng là một thuật ngữ chung được đa số các
nhà nghiên cứu sử dụng để chỉ đối tượng này.
Trong lĩnh vực Anh ngữ học khi nghiên
cứu động từ, các tác giả đều thống nhất rằng
ĐTTN là một hiện tượng rất đặc trưng của
động từ tiếng Anh, tuy nhiên cách nhận diện


và phân loại của các tác giả không hoàn toàn
đồng nhất.
Digby Beaumont và Colin Granger xem
ĐTTN là các động từ mang ý nghĩa cố định
bằng cách thêm vào sau chúng các tiểu từ như
down, away, on, in, after, off, across… Ý
nghĩa của ĐTTN, trong một số trường hợp, là
nghĩa của các từ thành tố kết hợp với nhau
như come in (vào trong), sit down (ngồi
xuống). Nhưng trong các trường hợp khác,
nghĩa của ĐTTN lại không phải là nghĩa của
các từ thành tố ghép lại, ví dụ give up (từ bỏ),
take after (giống), look after (chăm sóc). Căn
cứ vào các thành tố tạo thành ĐTTN, các tác
giả này đã phân chia ĐTTN thành 4 loại khác
nhau, đó là:
(i) Verb + particle như sit down (ngồi
xuống), look out (cẩn thận), set off (bắt đầu)…
(ii) Verb + particle + object hoặc verb
+ object + particle như throw away (vứt đi),
take off (cởi ra) Đây là tính huống động từ
đỏi hỏi tân ngữ trực tiếp và tân ngữ trực tiếp
có thể đứng ngay sau động từ (trước tiểu từ)
hoặc giữa động từ và tiểu từ. Và các tác giả
cũng xác định rằng khi tân ngữ là đại từ nhân
xưng thì chúng chỉ có thể đứng trước tiểu từ.
Chỉ có thể nói take them off, chứ không thể
nói take off them.
(iii) Verb + particle + object như take

after (giống), look after (chăm sóc)…Trong
các tình huống này, động từ và tiểu từ không
thể phân tách, trật tự trong động ngữ bao giờ
cũng là Verb + Particle + Object
(iv) Verb + particle + preposition +
object như look forward to (trông chờ), catch
up with (bắt kịp), go back on (your promises)
(không giữ (lời hứa))…
Randolph Quirk cùng các tác giả khác
của Ngữ pháp tiếng Anh hiện đại (A Grammar
of Contemporary English) căn cứ vào tiểu từ
trong ĐTTN đã phân chia chúng thành ba
nhóm là:
Phrasal verb (ví dụ: John called up the
man);
Prepositional verb (ví dụ: John called
on the man); và
Phrasal – Prepositional verb (ví dụ:
John put up with the man)
Ông gọi ĐTTN là một đơn vị ngữ nghĩa-
cú pháp (a semantic and syntactic unit), và
xác định rằng chúng khác với kết hợp tự do
của động từ với giới từ ở sự cố kết (cohesion).
Ông đã đề cập tới ba nhóm ngữ nghĩa của
ĐTTN, đó là:
(i) ĐTTN bảo toàn nghĩa của các từ
thành tố, ví dụ look over (xem xét), set up (sắp
xếp)…
Động từ giữ nguyên nghĩa gốc, còn tiểu
từ có chức tăng tăng cường (intensifying

function), ví dụ find out (tìm ra); sweep up
(quét lại), spread out (trải ra)
Động từ và tiểu từ bị hòa nhập vào liên
kết mang tính cố định, mà ý nghĩa của tổ hợp
không đoán được từ nghĩa đen của các từ
thành tố, ví dụ bring up (dạy dỗ), come by
(nắm giữ); put off (hoãn), turn up (xuất
hiện)…
Ngoài ra, ông còn đề cập tới các tiêu chí
ngữ pháp của ĐTTN, đó là khả năng tạo ra kết
cấu bị động (passivization); khả năng tạo câu
hỏi với who(m) hoặc what; khả năng tạo câu
hỏi với where, when, how…
Trên quan điểm chức năng hệ thống,
Mak Halliday quan niệm ĐTTN là các động
từ chính (lexical verb) để phân biệt chúng với
động từ hữu định và trợ động từ (finits and
auxiliaries). Cách phân chia ĐTTN của ông về
bản chất giống như cách phân chia của
Randolph Quirk, nhưng ông gọi chúng bằng
thuật ngữ khác, đó là:
verb + adverb, ví dụ look out
verb + preposition, ví dụ look for
verb + adverb + preposition, ví dụ look
out for
Trong khi đó các nhà ngữ pháp thực hành

quan tâm đến mặt ngữ dụng của ĐTTN và đi
sâu vào nghiên cứu ý nghĩa của các ĐTTN.
Các ĐTTN phổ biến nhất là break, bring, call,

come, cut, get, give, go, keep, knock, look,
make, pass, pick, pull, put, run, set, take, turn.
[11: 8] Từ một hướng tiếp cận khác, nhiều tác
giả cũng đã cố gắng phân chia ĐTTN thường
dùng theo nhóm chủ đề như weather (thời
tiết), travel (du lịch, đi lại), technology (công
nghệ), computer (máy tính), news (tin tức),
crime (tội phạm)…
Các nhà từ điển học không chỉ quan tâm
đến phạm trù ngữ nghĩa (giải nghĩa ĐTTN),
mà còn chú ý tới các bình diện ngữ pháp ngữ
dụng của ĐTTN. Kết quả của các nghiên cứu
này thể hiện ở các cuốn từ điển giải nghĩa
chuyên về ĐTTN Anh – Anh.
Tóm lại, tùy thuộc vào mục đích nghiên
cứu cũng như góc độ nghiên cứu mà trong
lĩnh vực Anh ngữ học ĐTTN được xem xét
dưới những bình diện khác nhau, các kết quả
đã đạt được khá phong phú góp phần giải đáp
những vấn đề do ĐTTN đặt ra.
2. ĐTTN trong lĩnh vực nghiên cứu
Việt ngữ
Trong lĩnh vực Việt ngữ, động từ được
nghiên cứu trong hầu hết các công trình như
một từ loại đóng vai trò làm thành phần chính
trong câu, bên cạnh danh từ, tính từ, trạng từ.
Các vấn đề các tác giả quan tâm khi nghiên
cứu động từ chủ yếu tập trung quanh sự nhận
diện, phân loại theo trường ngữ nghĩa, chức
năng cú pháp, phân loại động từ với tính từ,

khả năng kết hợp với các loại từ khác…
Trong số các tác giả có nhiều đóng góp
vào việc nghiên cứu động từ tiếng Việt phải
kể đến Nguyễn Kim Thản với Động từ trong
tiếng Việt (1997), Đinh Văn Đức với Ngữ
pháp tiếng Việt – Từ loại (2001), Diệp Quang
Ban với Ngữ pháp tiếng Việt (2005), Nguyễn
Thị Quy với Vị từ hành động tiếng Việt và các
tham tố của nó (1995)…
Trong khi nghiên cứu đặc tính của động
từ trong tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, âm
tiết tính, các tác giả đã chú ý tới việc kết hợp
của động từ với phó từ. Theo Nguyễn Kim
Thản “có thể căn cứ vào sự phân phối của
những hư từ bên cạnh động từ mà tiến hành
việc phân định những loại nhỏ” [26:98] Ông
coi ra, vào, lên, xuống, sang, qua, về, lại, tới,
đến là một nhóm động từ đặc biệt chỉ sự vận
động có phương hướng xác định, mà “tự thân
nó đã bao hàm ý nghĩa về phương hướng rồi”.
Tuy nhiên, ông cũng khẳng định khả năng
chuyển hóa của nhóm động từ này thành các
hư từ. Khi động từ kết hợp với nhóm hư từ
này, chúng biểu thị “những quá trình có thể
lặp đi lặp lại được, và có thể tiến hành theo
những phương hướng nhất định” [26:110], do
đó các hư từ ra, vào, lên, xuống, đi, lại có tác
dụng nổi bật trong việc phân nhỏ nhóm động
từ tiếng Việt. Trên cơ sở đó, ông phân chia
động từ tiếng Việt thành hai nhóm lớn:

Động từ đa phương là các động từ có khả
năng kết hợp với từ hai đến sáu hư từ nói trên,
biểu thị những hoạt động có thể tiến hành theo
bất kỳ phương hướng nào, chúng có thể biểu
thị những động tác cơ bản của người hay vật
nói chung, ví dụ nhìn ra/vào/lên/xuống/đi/lại;
chạy ra/vào/lên/xuống/đi/lại…
Động từ đơn phương là các động từ chỉ
kết hợp với một phó từ phương hướng nhất
định như cởi ra, chụm vào, nâng lên, dìm
xuống… Khả năng kết hợp với phó từ nào là
do ý nghĩa từ vựng của động từ quyết định.
Do đó, các hư từ ra, vào, lên, xuống, đi, lại
khi kết hợp với động từ chính là tiêu chí tạo
nên các nhóm động từ trong tiếng Việt.
Diệp Quang Ban có cùng quan điểm với
Nguyễn Kim Thản về động từ chỉ hướng, ông
nhận định “chúng là những động từ tự bản
thân chỉ sự vận động có hướng xác định
không cần động từ thực khác đứng trước,…
và có thể làm vị tố trong câu” [23:500].
Nhưng các từ chỉ hướng không chỉ là động từ.
Khi kết hợp với động từ hoặc tính từ, thậm chí

cả danh từ, các từ chỉ hướng có chức năng chỉ
nghĩa thuần túy và có thể rất trừu tượng, có
khi tạo ra sự vận động, có khi không chỉ ra sự
vận động hay rất xa với sự vận động. Ông đã
phân chia động từ đứng trước từ chỉ hướng
làm ba loại:

Động từ di chuyển gồm: (a) Sau từ chỉ
hướng không có từ chỉ đích như chạy ra, đem
vào, đi vào, đưa lên, bỏ xuống, mở ra, đóng
lại; và (b) sau từ chỉ hướng có từ chỉ đích như
chạy ra sân, đem vào nhà, đưa lên gác, bỏ
xuống hầm…
Động từ chỉ tư thế: khi đứng trước từ chỉ
hướng được tăng thêm tính động, như đứng
lên, ngồi xuống, ngồi dậy, cầm lên…
Động từ chỉ hoạt động vật chất hoặc tinh
thần… Theo ông, các từ chỉ hướng đem lại
cho động từ chỉ hoạt động vật chất ý nghĩa về
hướng phát triển hoặc suy thoái của sự vật
hoặc kết quả, các hướng này có thể tích cực
hoặc tiêu cực, ví dụ nở ra, (mặt) sị xuống, co
lại Trong khi đó, các từ chỉ hướng đem lại
cho động từ chỉ hoạt động tinh thần ý nghĩa về
kết quả như nhận ra, nhớ ra, quên đi…
Tác giả Đinh Văn Đức cũng đã quan tâm
đến nhóm từ chỉ hướng. Ông quan niệm đó là
“những yếu tố ngữ pháp đa chức năng”, bởi
ngoài chức năng của động từ, chúng còn có
thể xuất hiện trong các vị trí sau:
Trong cấu trúc động ngữ với tính cách là
từ phụ chỉ hướng (bước ra, chui ra), hoặc chỉ
kết quả (tìm ra, nhận ra, nghĩ ra) làm thành tố
phụ cho trung tâm.
Sau động từ và trước một danh từ có
quan hệ với động từ đó (bước vào lớp, cài vào
áo, bám vào cây); quan hệ này đã được đề

xuất gọi là quan hệ giới ngữ.
Sau một động từ đã có thành tố phụ với
chức năng bổ ngữ, ví dụ treo cái áo vào tủ;
đặt cuốn sách lên bàn. Theo tác giả, trong các
trường hợp này, các từ vào và lên không còn
thuần túy là từ phụ của động từ nữa, mà có
chức năng khá gần với chức năng của giới từ
truyền thống – chức năng của một từ nối.
Tác giả Nguyễn Thị Quy cũng dành sự
chú ý đặc biệt cho các vị từ chỉ hướng lên,
xuống, ra, vào, đi, lại. Theo tác giả, các vị từ
chỉ hướng đi kèm theo sau các vị từ với tư
cách trạng ngữ, nhưng với mỗi loại vị từ, các
trạng ngữ này lại có những ý nghĩa khác nhau
rõ rệt. Khi kết hợp với các động từ, các trạng
ngữ chỉ hướng có những ý nghĩa sau:
Ý nghĩa chỉ hướng hoặc mục đích cho
các vị từ chỉ sự chuyển động như chạy, bay,
bước, bò… và các vị từ chỉ hành động như
đẩy, dắt, ném, phun, rót…
Ý nghĩa thể: chỉ những hành động nhằm
đạt đến hiệu quả như tìm (kiếm, chạy, nghĩ,
nghiên cứu, chế tạo) ra
ý nghĩa hướng + kết quả: moi ra sạn
ý nghĩa “bắt đầu”: cháy/bùng/bốc;
ca/hát/kêu lên
Hai nhóm ý nghĩa của các vị từ chỉ
hướng được tác giả nhấn mạnh là (a) chuyển
một tư thế tĩnh thành một động tác (động),
như đứng lên, ngồi xuống, và (b) chuyển từ

một trạng thái hay tính chất tĩnh thành một
quá trình tăng mức độ động, trong đó lên và
ra chỉ sự “tích cực” còn lại và đi dùng để chỉ
sự “tiêu cực” trong quá trình đó…
Như vậy, trong lĩnh vực Việt ngữ, do đặc
trưng của ngôn ngữ mà các nhà nghiên cứu đã
quan tâm đến cái mà chúng tôi gọi là ĐTTN
trong tiếng Anh theo một cách tiếp cận rất
riêng: đặt trong khuôn khổ nghiên cứu về
nhóm từ chỉ hướng. Quan điểm của các tác giả
có sự trùng lặp, nhưng việc dùng thuật ngữ
cũng không thực sự thuần nhất. Trong khi
Nguyễn Kim Thản gọi vào/ra, lên/xuống,
đi/lại sau động từ là các “hư từ”, thì Diệp
Quang Ban xếp chúng vào nhóm từ chỉ
hướng; Đinh Văn Đức quan niệm đó là các
“phụ từ chỉ hướng” hoặc một cái gì đó tương
đương với “giới từ truyền thống” – từ nối.
Còn Nguyễn Thị Quy thì lại gọi chúng là các
“vị từ chỉ hướng.”

II. KẾT LUẬN
Động từ với tư cách là một từ loại đóng vai
trò làm thành tố chính trong câu đã được
nghiên cứu nhiều trong cả hai ngôn ngữ Anh
và Việt. Dù đã được nghiên cứu khá nhiều,
ĐTTN tiếng Anh là một vấn đề rất phức tạp
và khó tiếp cận ngay cả đối với người bản
ngữ. Kết hợp của động từ với từ chỉ hướng
trong tiếng Việt (một hiện tượng tương đương

của ĐTTN tiếng Anh) cũng đã xác định được
vị trí trong Việt ngữ học. Trên cơ sở các quan
điểm đó, bước đầu có thể rút ra một số luận
điểm quan trọng như sau:
- Trong hai ngôn ngữ Anh và Việt, động
từ đều có thể kết hợp với tiểu từ để tạo ra các
kết hợp cố định mới với các nghĩa mới (hay
các dạng phức hợp của động từ);
- Trong cả hai ngôn ngữ, các tiểu từ trong
các kết hợp mới phần lớn thuộc nhóm từ chỉ
hướng như ra, vào, lên, xuống, sang, qua, về,
lại, tới, đến;
- Về mặt ý nghĩa, trong cả hai ngôn ngữ
kết hợp mới giữa động từ với tiểu từ có thể
mang nghĩa gốc (nghĩa đen) hay nghĩa chuyển
(nghĩa bóng) của các từ thành tố;
- Tính đa nghĩa là một trong các đặc
trưng của ĐTTN trong cả hai ngôn ngữ
Chính vì vậy việc nghiên cứu các đặc
trưng của ĐTTN tiếng Anh trong sự đối chiếu
với tiếng Việt là một việc làm có ý nghĩa thiết
thực và là cơ sở quan trọng giải quyết các khó
khăn mà ĐTTN tiếng Anh đặt ra cho người
Việt học và sử dụng tiếng Anh. Mức độ tương
đương của ĐTTN giữa tiếng Anh và tiếng
Việt trên các bình diện hình thức cấu trúc,
chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa là những
gợi mở hết sức lý thú và thiết thực cần được
đầu tư nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo

[1]. Beaumont, Digby & Granger, Collin. The
Heinemann English Grammar. Bath Press. Avon 1992.
[2]. Chafe, Wallace L. Ý nghĩa và cấu trúc của
ngôn ngữ. NXB Giáo dục 1998.
[3]. Fernando, Chitra. Idioms and Idiomacity.
Oxford University Press 1977.
[4]. Flower, John. Phrasal Verb Organiser. NXB
Thành phố Hồ Chí Minh 2000.
[5]. Halliday, Mak. Dẫn luận ngữ pháp chức năng.
NXB ĐHQG Hà Nội 2001.
[6]. Halliday, Mark & Hasan, Ruquaiya. Cohesion
in English. Longman 1997.
[7]. Hart, Carl W. The Ultimate Phrasal Verb
book. Barrons 1999.
[8]. Huddleston, Rodney. Introduction to the Grammar
of English. Cambridge University Press 1994.
[9]. Larson, Mildred L. Meaning – based
translation: A guide to Cross-Language
Equivalence. University Press of America 1984.
[10]. Leech, Geoffrey. An A – Z of English
Grammar & Usage. Nelson 1998.
[11]. McCarthy, Michael & O’Dell, Felicity.
English Phrasal Verbs in Use, NXB trẻ. (Lê Ngọc
Phương Anh giới thiệu và chú giải) 2004.
[12]. Nattinger, James R. & DeCarrico, Jeabette
S. Lexical phrases and Language teaching. Oxford
University Press 1977.
[13]. Quirk, Randolph & Greenbaum, Sidney. A
University Grammar of English. Longman 1976.
[14]. Quirk, Randolph & Greenbaum, Sidney…A

grammar of contemporary English, Longman 1972.
[15]. Taylor, John. Cognitive Grammar. Oxford
University Press 2002.
[16]. Swan. Practical English Usage. Oxford
University Press 1997
[17]. Diệp Quang Ban. Ngữ Pháp tiếng Việt, NXB
GD 2005
[18]. Đinh Văn Đức. Ngữ pháp tiếng Việt – Từ
loại. ĐHQG HN 2001
[19]. Đỗ Hữu Châu. Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt.
NXB Giáo dục 1999
[20]. Đỗ Hữu Châu. Các bình diện của từ và từ
tiếng Việt. NXB ĐHQG Hà Nội 1999.
[21]. Hoàng Văn Vân. Nghiên cứu dịch thuât.
NXB KHXH 2005.
[22]. Nguyễn Kim Thản. Động từ trong tiếng Việt.
NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1997.
[23]. Nguyễn Thị Quy. Vị từ hành động tiếng Việt
và các tham tố của nó. NXB KH & XH 1995.
[24]. Nguyễn Thiện Giáp. Những lĩnh vực ứng
dụng của Việt ngữ học. NXB ĐHQG Hà Nội 2006.
[25]. Trần Hữu Mạnh. Ngôn ngữ học đối chiếu cú pháp
tiếng Anh – tiếng Việt. NXB ĐHQG Hà Nội 2007.
[26]. Xuân Bá. Cụm động từ tiếng Anh. NXB
ĐHSP 2005♦

×