Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.63 KB, 64 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ khi mới được hình thành, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã
được Chính phủ dành cho những quan tâm đặc biệt. Trong bản quy hoạch
phát triển ngành công nghiệp ô tô đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020,
Nhà nước cũng đã nêu rõ quan điểm của Việt Nam đó là đưa ngành công
nghiệp ô tô trở thành ngành rất quan trọng của đất nước.
Tuy nhiên sau hơn 15 năm phát triển, ngành ô tô Việt Nam vẫn chưa đạt
được những thành tựu xuất sắc xứng đáng với kỳ vọng của Chính phủ, trở
thành một ngành rất quan trọng của nền kinh tế. Mà nguyên nhân cơ bản dẫn
đến thực trạng trên đó là do hệ thống công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt
Nam chưa phát triển. Vì vậy, để ngành công nghiệp ô tô Việt Nam có thể đi
theo đúng định hướng của nhà nước đề ra thì chũng ta cần phải phát triển
được một hệ thống công nghiệp phụ trợ cho ngành. Hệ thống công nghiệp phụ
trợ của ngành càng phát triển thì chứng tỏ trình độ phát triển của ngành càng
cao.
Xuất phát từ thực trạng trên của ngành ô tô, em đã lựa chọn nghiên cứu
đề tài “Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu đề tài: nghiên cứu các khái niệm, định nghĩa về
công nghiệp phụ trợ đang được sử dụng. Từ đó tiến hành nghiên cứu và phân
tích thực trạng của ngành công nghiệp ô tô nói chung và ngành công nghiệp
phụ trợ ô tô nói riêng, qua đó đề xuất những kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát
triển của công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt Nam trong thời gian tới.
Cấu trúc của đề tài bao gồm 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận và sự cần thiết phải phát triển công nghiệp phụ
trợ ngành ô tô ở Việt Nam.
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Chương II: Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt
Nam.
Chương III: Giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp phụ
trợ ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ


phía cơ quan thực tập - Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu
tư cũng như sự hướng dẫn tận tình từ phía thầy giáo TS.Nguyễn Ngọc Sơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ
NGÀNH Ô TÔ
I. Khái niệm về công nghiệp phụ trợ
1. Định nghĩa về công nghiệp phụ trợ
1.1. Khái quát chung về công nghiệp phụ trợ
Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước,
mặc dù vậy thuật ngữ này vẫn rất mơ hồ và không có được định nghĩa thống
nhất. Tại mỗi một quốc gia, theo các nhà nghiên cứu và hoạch định chính
sách thì thuật ngữ này lại được định nghĩa theo cách hiểu và mục đích sử
dụng của từng người. Trên thực tế, công nghiệp phụ trợ (supporting
industries) là một từ tiếng Anh - Nhật đã được các doanh nghiệp Nhật sử
dụng từ lâu trước khi trở thành một thuật ngữ chính thức.
Hộp 1: Một số khái niệm và định nghĩa về công nghiệp phụ trợ
Nguồn: Xây dựng năng lực công nghệ nội sinh trong xây dựng công nghiệp phụ trợ
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Bộ kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (MEIT)
chính thức định nghĩa về công nghiệp phụ trợ trong chương trình hành
động phát triển công nghiệp phụ trợ Châu Á (1993): Công nghiệp phụ
trợ là các ngành công nghiệp cung cấp các yếu tố cần thiết như nguyên
liệu thô, linh kiện và vốn … cho các ngành công nghiệp lắp ráp ( bao
gồm ô tô, điện và điện tử).
Bộ Năng lượng, Mỹ: Công nghiệp phụ trợ là những ngành công
nghiệp cung cấp nguyên liệu và quy trình cần thiết để sản xuất ra sản
phẩm trước khi chúng được đưa ra thị trường.
Định nghĩa của Văn phòng phát triển công nghiệp phụ trợ,
Thái Lan: Công nghiệp phụ trợ là các ngành công nghiệp cung cấp

linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ kiểm tra
cho các ngành công nghiệp cơ bản (có nghĩa là các ngành cơ khí, máy
móc, linh kiện cho ô tô, điện và điện tử là những ngành công nghiệp
phụ trợ quan trọng).
Định nghĩa của Hội đồng đầu tư, Thái Lan: Hội đồng đầu tư
phânloại các ngành công nghiệp sản xuất thành phẩm thành 3 bậc: lắp
ráp, sản xuất linh kiện và phụ kiện, và các ngành công nghiệp phụ trợ.
Năm sản phẩm chính của ngành công nghiệp phụ trợ là gia công khuôn
mẫu, gia công áp lực, đúc và gia công nhiệt.
Tóm lại, công nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm
công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể
là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn,
nhuộm,… và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những
nguyên liệu sơ chế.
Tuy nhiên, thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” chính thức được sử dụng ở
Việt Nam tương đối muộn, từ năm 2003 bắt nguồn từ sáng kiến chung Việt
Nam - Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường đầu tư với quan điểm nâng cao
khả năng cạnh tranh của Việt Nam, trong đó kêu gọi sự phát triển, thiết lập và
sử dụng ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam.
Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của ngành công nghiệp phụ trợ
nhưng hầu hết các quan chức trong bộ máy Nhà nước vẫn mơ hồ về khái niệm
công nghiệp phụ trợ. Do vậy, thuật ngữ công nghiệp phụ trợ được sử dụng
trong các chính sách, chiến lược công nghiệp là khác nhau. Nếu không có một
định nghĩa cụ thể về công nghiệp phụ trợ thì không thể xác định được đó là
ngành công nghiệp nào, hỗ trợ cho cái gì, cho ai.
Ngoài khái niệm “công nghiệp phụ trợ” một vài khái niệm khác cũng
được sử dụng để chỉ ngành công nghiệp chuyên cung cấp đầu vào cho các
ngành công nghiệp chính: công nghiệp liên quan và hỗ trợ, thầu phụ, công
nghiệp phụ thuộc, công nghiệp linh phụ kiện. Các khái niệm này đều có nghĩa
gần với nghĩa của “công nghiệp phụ trợ”, cùng có chung quan điểm, cùng

nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngành công nghiệp sản xuất đầu vào cho
thành phẩm. Mỗi một khái niệm về “công nghiệp phụ trợ” được xác định bởi
một phạm vi khác nhau. Ta có thể đưa ra ba khái niệm về công nghiệp phụ trợ
tương ứng với ba phạm vi như sau:
Khái niệm hạt nhân: công nghiệp phụ trợ là những ngành công nghiệp
cung cấp linh kiện, phụ kiện, phụ tùng và các công cụ sản xuất ra các linh
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
kiện, phụ tùng này.
Khái niệm mở rộng 1: công nghiệp phụ trợ là những ngành công nghiệp
cung cấp linh kiện, phụ tùng, công cụ để sản xuất linh kiện phụ tùng này và
các dịch vụ sản xuất như hậu cần, kho bãi, phân phối và bảo hiểm.
Khái niệm mở rộng 2: công nghiệp phụ trợ là những ngành công nghiệp
cung cấp toàn bộ đầu vào vật chất, gồm linh kiện, phụ tùng, công cụ, máy
móc và nguyên vật liệu.
Hình 1: Sơ đồ các phạm vi của công nghiệp phụ trợ
Nguồn: Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam (VDF)
Do bối cảnh Việt Nam là một nước có nền công nghiệp công nghiệp
phụ trợ chưa phát triển nên trong bài viết sử dụng khái niệm công nghiệp phụ
trợ theo như khái niệm hạt nhân.
Khái niệm công nghiệp phụ trợ được sử dụng trong khuôn khổ bài viết:
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Sản phẩm cuối cùng
Lắp ráp
Lắp ráp chưa hoàn chỉnh
Hàng hoá trung gian
Phụ tùng
Linh kiện
Hàng hoá tư bản
Công cụ
Máy móc

Nguyên liệu
Thép
Hoá chất
Dịch vụ sản xuất
Hậu cần
Kho bãi
Phân phối
Bảo hiểm
CNPT (phạm vi chính)
CNPT (phạm vi mở rộng 2)
C
N
P
T

(
p
h

m

v
i

m


r

n

g

1
)
Công nghiệp phụ trợ là một nhóm các hoạt động công nghiệp cung cấp các
đầu vào trung gian (gồm linh kiện, phụ tùng và công cụ để sản xuất ra các
linh kiện phụ tùng này) cho các ngành công nghiệp lắp ráp và chế biến.
1.2. Khái niệm công nghiệp phụ trợ ngành ô tô
Công nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công
nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các sản phẩm chính. Cụ thể là
những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn,
nhuộm … và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những
nguyên liệu sơ chế.
Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ
được thực hiện bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, trong ngành ô tô, các
bộ phận như đầu máy xe, thân xe, bánh xe .. thường không được kể là công
nghiệp phụ trợ vì nó chủ yếu do các công ty lớn sản xuất với quy mô lớn.
Trong ngành này, công nghiệp phụ trợ là những linh kiện, những phụ liệu ở
cấp thấp hơn được cung cấp để sản xuất ra đầu máy xe, thân xe …
Mối quan hệ giữa công nghiệp lắp ráp ô tô và công nghiệp phụ trợ cho
ngành ô tô được thể hiện qua mô hình sau:
Hình 2: Mối quan hệ trong ngành ô tô
Ngành công nghiệp ô tô
Nhà lắp ráp
Sản phẩm cho thị trường nội địa
Dây chuyền lắp ráp
Ngành phụ trợ,
cung cấp linh
phụ kiện
Tự sản xuất và

mua sắm, trong
nước
Nhập khẩu từ
nước ngoài
Linh kiện máy
móc
XK
Nguồn: Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam - VDF
2. Phân loại công nghiệp phụ trợ
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
2.1. Theo loại hình hỗ trợ
Nếu chia theo loại hình hỗ trợ thì công nghiệp phụ trợ được chia thành
ba tầng:
Tầng thứ nhất là hệ thống công nghiệp phụ trợ “ruột”, tức là những hãng
được hãng chính bảo trợ và cung cấp tất cả những yêu cầu cơ bản nhất để tạo
ra những chi tiết đặc trưng nhất của sản phẩm. Đây là khu vực mà theo nhận
định của các chuyên gia, cơ hội tham gia của doanh nghiệp phụ trợ nội địa
Việt Nam không có.
Tầng thứ hai là hệ thống phụ trợ hợp đồng, tức là doanh nghiệp sản xuất
ra linh phụ kiện để cung cấp theo các hợp đồng được kí kết giữa doanh nghiệp
và các công ty lắp ráp.
Tầng thứ ba là hệ thống phụ trợ thị trường, tức là doanh nghiệp sản xuất
ra linh phụ kiện để bán trên thị trường. Do đó các công ty lắp ráp có thể chọn
lựa bất cứ sản phẩm nào minh cần trên thị trường.
Với hai tầng này các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tham gia vào
chuỗi này. Việt Nam gia nhập WTO, hàng rào thuế quan được bãi bỏ hoặc
hạn chế đến mức tối thiểu và các chi tiết, linh phụ kiện cũng theo đó được
giảm thuế. Chi phí trở nên rẻ hơn, như vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa
phương càng gặp khó khăn khi cạnh tranh cung cấp các sản phẩm phụ trợ.
Hơn nữa, công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam còn hết sức giản đơn, quy mô nhỏ

lẻ chủ yếu sản xuất các linh kiện giản đơn, giá trị gia tăng thấp và có sự chênh
lệch về năng lực phụ trợ giữa các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam với các
yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu. Mặc dù vậy “Việt Nam vẫn có tiềm
năng lớn về phát triển công nghiệp phụ trợ, trong đó cơ bản dựa trên khả năng
tiếp thu công nghệ mới và sự khéo tay của những người thợ Việt Nam” (ông
Tomoharu Washio, Phó chủ tịch Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản).
2.2. Theo các cấp hỗ trợ
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam có thể được chia thành 3 cấp hỗ
trợ:
Cấp I: là cấp tiến hành thiết kế, thử nghiệm và sản xuất hầu hết các bộ
phận chính cấu thành nên sản phẩm, kiểm tra động lực học và xuất xưởng.
Cấp II: là cấp có vai trò chế tạo các linh kiện, chi tiết cấu thành nên các
bộ phận do nhà cung cấp ở cấp I đặt hàng.
Cấp II: là cấp trực tiếp sản xuất các chi tiết, tạo phôi cho các nhà cung
cấp I, II từ vật liệu thô.
Ta có thể biểu diễn các cấp hỗ trợ của các ngành công nghiệp phụ trợ
dưới dạng biểu đồ hình cá:
Hình 3: Biểu đồ hình cá về ngành công nghiệp phụ trợ
Nguồn: Xây dựng năng lực công nghệ nội sinh
trong xây dựng công nghiệp phụ trợ (VDF)
3. Các giai đoạn phát triển và đặc điểm của công nghiệp phụ trợ
3.1. Đặc điểm của công nghiệp phụ trợ
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3
Cấp 2 Cấp 2 Cấp 2 Cấp 2 Cấp 2 Cấp 2
Cấp 1 Cấp 1 Cấp 1
Đóng tàu
Điện tử
Ô tô

Hoá chất Dệt may Xe máy
Cấp 1
Cấp 1 Cấp 1
Cấp 2 Cấp 2 Cấp 2 Cấp 2 Cấp 2 Cấp 2
Cấp 3
Cấp 3
Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3
Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3
CÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM
Da
Công nghiệp nặng
Công nghiệp phụ trợ được hình thành và phát triển gắn với một ngành
hoặc phân ngành hoặc sản phẩm công nghiệp cụ thể nào đó và có nhiều tầng
tích hợp theo chiều dọc và chiều ngang.
Các ngành công nghiệp phụ trợ và công nghiệp chính có tác động qua lại
với nhau. Công nghiệp phụ trợ phát triển góp phần thúc đẩy những ngành
công nghiệp chính phát triển, ngược lại các ngành công nghiệp chính phát
triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ.
Công nghiệp phụ trợ xuất hiện chủ yếu ở các hình thức tổ chức sản xuất
kiểu thầu phụ/vệ tinh, trong mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất
và có tính hợp tác cao giữa các nhà sản xuất chính và các doanh nghiệp sản
xuất phụ trợ.
Các ngành công nghiệp phụ trợ không đòi hỏi mức tập trung kỹ thuật cơ
bản sâu và cũng không sử dụng những kỹ thuật tích hợp phức tạp. Do đó,
những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường là những
doanh nghiệp vừa và nhỏ với mức độ chuyên môn hoá sâu, dải sản phẩm hẹp,
dễ thay đổi mẫu mã.
Các sản phẩm của công nghiệp phụ trợ có thể được sử dụng cho nhiều
ngành công nghiệp khác nhau. Ví dụ: công nghệ sử dụng trong ngành điện tử

có thể được áp dụng đối với các ngành sản xuất ô tô, xe máy, máy phát điện,
máy công nghiệp … Điều đó được thể hiện qua sơ đồ sau:
Hình 4: Các ngành công nghiệp phụ trợ cơ bản có thể được sử dụng cho
nhiều ngành công nghiệp
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Nguồn: Xây dựng năng lực công nghệ nội sinh
trong xây dựng công nghiệp phụ trợ (VDF)
3.2. Các giai đoạn phát triển của công nghiệp phụ trợ
Để đánh giá sự phát triển của công nghiệp phụ trợ ở mỗi nước ta có thể
dựa vào sự liên quan giữa công nghiệp phụ trợ và doanh ngiệp FDI hoặc dựa
vào tỉ lệ nội địa hoá mà quốc gia đó đã đạt được. Từ đó, có thể chia quá trình
phát triển của công nghiệp phụ trợ thành các giai đoạn khác nhau.
3.2.1. Dựa vào tỉ lệ nội địa hoá
Dựa vào tỉ lệ nội địa hoá ta có thể chia quá trình phát triển công nghiệp
phụ trợ thành 5 giai đoạn:
Giai đoạn I: Tỉ lệ nội địa hoá gần như bằng 0, số lượng các nhà cung cấp
linh phụ kiện trong nước rất ít và chỉ cung cấp những sản phẩm giản đơn.
Việc sản xuất, lắp ráp được thực hiện dựa trên cơ sở nhập khẩu các bộ linh
kiện nguyên chiếc.
Giai đoạn II: Nội địa hoá chủ yếu thông qua sản xuất tại chỗ, tỉ lệ nội địa
hoá có tăng lên nhưng rất ít, số lượng các nhà sản xuất phụ trợ tăng, tuy nhiên
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Công nghiệp
đóng tàu
Công nghiệp
ô tô
Công nghiệp
xe máy
Công nghiệp
điện tử

Công nghiệp
điện/PC
Thị phần chung của các ngành công nghiệp phụ trợ (chế biến nhựa và cao su,
cắt kim loại, ép nhiệt khuôn, khuôn, khuôn đúc, mạ kim loại …)
Nhu cầu của các nhà lắp ráp
phụ kiện bằng nhựa, kim loại và các công cụ dụng cụ
Sự phát triển và sẵn có của các ngành công nghiệp sản xuất:
nguyên vật liệu
tính cạnh tranh không cao. Số lượng sản phẩm phụ trợ tăng lên nhưng chất
lượng không cao, chưa có khả năng cạnh tranh. Các nhà sản xuất lắp ráp
chuyển sang sử dụng nguyên liệu, phụ tùng được sản xuất trong nước.
Giai đoạn III: Tỉ lệ nội địa hoá được tăng lên đáng kể, xuất hiện các nhà
cung ứng sản phẩm phụ trợ chủ chốt có khả năng sản xuất các chi tiết, linh
kiện, phụ tùng có độ phức tạp cao, độc lập với các nhà lắp ráp. Khối lượng
sản phẩm phụ trợ nhập khẩu giảm, khối lượng sản phẩm công nghiệp phụ trợ
nội địa ngày một tăng và dặc biệt đã xuất hiện những sản phẩm độc đáo thoả
dụng phầm nào nhu cầu của các công nghiệp chính.
Giai đoạn IV: Tỉ lệ nội địa hoá đạt mức cao, là giai đoạn tập trung các
ngành công nghiệp phụ trợ. Hầu hết các chi tiết, bộ phận, linh kiện, phụ tùng
được sản xuất trong nước. Số lượng các nhà sản xuất sản phẩm phụ trợ tăng
mạnh làm cho sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất sản phẩm phụ trợ trở nên
gay gắt, từ đó tạo ra động lực nâng cao chất lượng, hạ giá thành.
Giai đoạn V: là giai đoạn cuối cùng của quá trình nội địa hoá, còn được
gọi là giai đoạn nghiên cứu, phát triển và xuất khẩu sản phẩm. Năng lực
nghiên cứu và phát triển sản phẩm phụ trợ nội địa được củng cố và phát triển.
Các sản phẩm phụ trợ được sản xuất ra đạt tiêu chuẩn để phục vụ xuất khẩu.
Thực tế rất khó tách bạch từng giai đoạn vì giữa các giai đoạn đều làm
tiền đề và kế thừa lẫn nhau. Việc phân chia quá trình phát triển công nghiệp
phụ trợ thành các giai đoạn có tác dụng hỗ trợ cho mỗi nước xác định được
chính xác vị trí của mình để từ đó có được hướng đi và các biện pháp phù

hợp, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên trong
quá trình hội nhập toàn cầu, không nên lấy nội địa hoá 100% làm mục tiêu.
Yêu cầu về mức độ và nội dung nội địa hoá là khác nhau giữa các ngành.
Việc xác định đúng các đầu vào cần được nội địa hoá sẽ đẩy nhanh đáng kể
quá trình công nghiệp hoá và ngược lại.
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
3.2.2. Dựa vào mối quan hệ giữa công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp FDI
Công nghiệp phụ trợ và FDI có mối quan hệ tương hỗ. Công nghiệp phụ
trợ phải phát triển mới thu hút FDI, nhất là FDI trong các ngành sản xuất các
loại máy móc. Cũng có trường hợp FDI đi trước và lôi kéo các công ty khác
đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ. Dựa vào mối quan hệ giữa công nghiệp
phụ trợ và doanh nghiệp FDI, quá trình phát triển công nghiệp phụ trợ có thể
chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: Trước khi FDI vào đã có nhiều công ty trong nước sản xuất
sản phẩm phụ trợ cung cấp cho các công ty lắp ráp, sản xuất sản phẩm chính
cho thị trường nội địa. Khi có FDI, một bộ phận các công ty sản xuất công
nghiệp phụ trợ được tham gia vào mạng lưới chuyển giao công nghệ của các
doanh nghiệp FDI sẽ phát triển mạnh hơn.
Giai đoạn II: Đồng thời với sự gia tăng của FDI, nhiều doanh nghiệp
bản xứ ra đời trong các ngành công nghiệp phụ trợ chủ yếu để phục vụ cho
hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Những doanh nghiệp sớm hình thành sự
liên kết với doanh nghiệp FDI sẽ được chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển
nhanh.
Giai đoạn III: Sau một thời gian hoạt động của doanh nghiệp FDI với
sản lượng sản xuất ngày càng tăng, tạo ra thị trường ngày càng lớn cho công
nghiệp phụ trợ, các công ty vừa và nhỏ ở nước ngoài sẽ đến đầu tư. Từ đó
hình thành nên một hệ thống công nghiệp phụ trợ phát triển mạnh.
Như vậy, công nghiệp phụ trợ của một nước sẽ phát triển được khi các
công ty trong nước ở giai đoạn I ngày càng được cải tiến công nghệ và trình
độ quản lý để cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ cạnh tranh được với

hàng nhập khẩu và chính phủ có chiến lược, chính sách để thúc đẩy các doanh
nghiệp ở giai đoạn II ra đời, đồng thời tạo điều kiện, môi trường để các công
ty vừa và nhỏ nước ngoài đến đầu tư trong giai đoạn III.
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
II. Sự cần thiết của công nghiệp phụ trợ của ngành ô tô
1. Phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá.
Ngoài hiệu quả tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa,
công nghiệp phụ trợ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh
của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo
hướng vừa mở rộng vừa thâm sâu.
Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế, trong đó một bộ phận
nguồn lực ngày càng tăng của đất nước được huy động để xây dựng cơ cấu
kinh tế đa ngành, với kỹ thuật hiện đại, để sản xuất tư liệu sản xuất và hàng
tiêu dùng có khả năng đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao cho toàn bộ nền kinh tế
và đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế - xã hội (UNIDO). Để đạt có được một nền
kinh tế tăng trưởng cao nhằm thực hiện được mục tiêu công nghiệp hoá thì
cần thiết phải sản xuất ra những sản phẩm có sức cạnh tranh với các quốc gia
trong khu vực đặc biệt là với Trung Quốc, điều đó đòi hỏi chúng ta phải phát
huy thế mạnh và các lợi thế so sánh, tận dụng mọi cơ hội của thời đại để tạo
động lực cho công nghiệp hoá. Phát triển công nghiệp phụ trợ là một biện
pháp cần thiết để giảm phí tổn chuyên chở, chi phí bảo hiểm … từ đó làm
giảm giá thành sản xuất, giúp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Việt
Nam trong khu vực.
Công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và
những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng phải phụ thuộc vào nhập khẩu.
Dù những sản phẩm này được cung cấp giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì phải tốn
thêm chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bản hiểm nên vẫn làm tăng chi phí đầu vào.
Đó là chưa nói đến những rủi ro về tiến độ, thời gian nhập khẩu hàng. Vì thế,
công nghiệp phụ trợ không phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ

thiếu sức cạnh tranh và phạm vi kinh doanh bị giới hạn trong một số ít ngành.
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Nói tóm lại, công nghiệp phụ trợ được ví như chân núi, tạo phần cứng để
hình thành nên thân núi và đỉnh núi chính là ngành công nghiệp sản xuất và
lắp ráp sản phẩm công nghiệp. Thông thường ngành công nghiệp phụ trợ phát
triển trước làm cơ sở để ngành công nghiệp chính yếu phát triển.
Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO, vì vậy các sản phẩm trong nước
ngày càng phải nâng cao sức cạnh tranh để không bị sản phẩm nhập ngoại
“lấn sân”. Để có thể nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm đặc biệt là
các sản phẩm lắp ráp thì phát triển công nghiệp phụ trợ là một trong những
yếu tố mang tính quyết định.
Việt Nam đồng thời cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh của các nước
trong khu vực trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đối phó với sự tràn
ngập của hàng hoá Trung Quốc và áp lực hội nhập quốc tế. Để giải quyết các
vấn đề này thì công nghiệp phụ trợ là một biện pháp cần thiết.
Vai trò không thể thiếu của công nghiệp phụ trợ trong quá trình công
nghiệp hoá đất nước đã khiến sự phát triển công nghiệp phụ trợ trở thành một
trong những tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển công nghiệp của một
nước. Ngoài ra còn có năng lực công nghệ và quản lý; năng lực đổi mới, theo
mức độ khó tăng dần.
2. Phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng tỉ lệ nội địa hoá
Như đã phân tích ở trên, các doanh nghiệp muốn nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm của mình trên thị trường thì cần phải hạn chế tối thiểu các
chi phí đầu vào có thể phát sinh. Vậy làm thế nào để có thể giảm được những
chi phí này? Câu trả lời là phải hạn chế các sản phẩm phụ trợ nhập khẩu để
giảm chi phí lưu kho, bốc dỡ, vận chuyển … Muốn vậy thì các nguyên liệu
thô, các nguyên liệu đã qua chế biến, các bộ phận và các hợp phần, nguyên
liệu đóng gói và các nguyên vật liệu khác từ nhà cung cấp nội địa, điều đó
đồng nghĩa với việc phải phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ trong
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B

nước.
Tuy nhiên, tỉ lệ nội địa hoá 100% không phải là tối ưu. Ngay cả trong
trường hợp công nghiệp sản xuất ô tô Thái Lan với tổng lượng FDI lớn nhất
Đông Nam Á, tỷ lệ phụ tùng nhập khẩu là 30%, tỉ lệ phụ tùng sản xuất trong
nước là 70%. Đối với phụ tùng sản xuất trong nước 45% do các công ty FDI
cung cấp và 25% do các công ty nội địa sản xuất.
(1)
Một tỉ lệ nội địa hoá hợp
lý sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí từ đó tăng khả năng cạnh tranh.
Dưới đây là một mô hình giả định về vai trò của công nghiệp phụ trợ
trong việc tăng tỉ lệ nội địa hoá, tương ứng với nó là từng giai đoạn phát triển
của công nghiệp hoá. Tại giai đoạn 1, phần lớn đầu vào được nhập khẩu từ
nước ngoài, trong nước không có các ngành công nghiệp phụ trợ. Tại giai
đoạn 2, khi việc lắp ráp nội địa đạt mức đủ lớn, các ngành công nghiệp phụ
trợ sẽ phát triển, tuy nhiên tính cạnh tranh vẫn còn yếu, việc sản xuất vẫn phụ
thuộc vào công nghệ và quản lý nước ngoài. Tại giai đoạn 3, khả năng quản lý
và công nghệ được nội địa hoá và sự lệ thuộc vào nước ngoài giảm đáng kể.
Hình 5: Mô hình giả định về tăng tỷ lệ nội địa hoá
Bắt đầu Sau một vài năm Sau nhiều năm
(Không cạnh tranh) (Cạnh tranh yếu) (Cạnh tranh)
Nguồn: Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam - VDF
3. Xuất phát từ yêu cầu và đặc điểm của ngành ô tô
Ngành ô tô với đặc điểm là luôn yêu cầu sử dụng một khối lượng chi tiết
và phụ tùng lớn, một chiếc xe ô tô có từ 20.000-30.000 chi tiết. Ví dụ: để tạo
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Nhập khẩu
SX nội vi
Nội địa
FDI
Nhập khẩu

Nhập khẩu
FDI
Nội địa
SX nội vi
ra một chiếc ô tô nhà sản xuất cần rất nhiều linh kiện như động cơ, hệ thống
đèn, điện, ghế, kính, bánh và ruột xe, chi tiết nhựa nội ngoại thất … Có cả
ngàn linh kiện và phụ tùng cần thiết để lắp ráp thành một chiếc ô tô. Thông
thường các nhà sản xuất không tự mình cung ứng tất cả các chi tiết đó, thay
vào đó họ phải thuê gia công ở bên ngoài từ các nhà cung cấp địa phương
những phần hay công đoạn không cần thiết. Do đó để sản xuất ra một chiếc ô
tô yêu cầu phải có tới hàng ngàn nhà cung cấp linh phụ kiện. Các hãng ô tô,
ngay tại chính hãng cũng chỉ sản xuất chiều sâu được 36-45% các chi tiết của
một chiếc xe, phần còn lại là do các nhà sản xuất linh phụ kiện cung cấp.
Một đặc điểm nữa của ngành ô tô cũng khiến cho các nhà sản xuất lắp
ráp ô tô luôn phải tìm kiếm các nhà cung cấp linh phụ kiện ở bên ngoài đó là
do vốn đầu tư trong ngành công nghiệp ô tô rất cao. Đồng thời, ngành ô tô
cũng là ngành cơ khí chính xác đòi hỏi độ an toàn, chất lượng, kỹ thuật cao.
Ví dụ: dây belt trong xe ô tô giá trị chỉ từ 3-6 USD, nhưng nếu bị hư thì làm
hư nguyên cả máy ô tô (engine), … nên những nhà sản xuất ô tô có thương
hiệu chỉ mua những linh kiện mà họ tin tưởng vào chất lượng để không ảnh
hưởng đến thương hiệu của họ.
Đặc biệt đối với ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, đây là ngành luôn
luôn được ưu đãi nhất trong số các ngành công nghiệp, tuy nhiên hơn 10 năm
qua vẫn dẫm chân tại chỗ. Nguyên nhân làm cho ngành công nghiệp ô tô Việt
Nam không phát triển được và giá bán xe trong nước cao hơn nhiều so với xe
trong khu vực là do ngành công nghiệp sản xuất linh kiện phụ trợ cho ngành ô
tô ở Việt Nam vẫn còn kém phát triển. Do đó, để đảm bảo cho ngành công
nghiệp ô tô Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực thì
phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô tô là điều cần thiết phải làm.
4. Phát triển công nghiệp phụ trợ để thu hút vốn đầu tư

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có vai trò rất quan trọng trong sự
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
phát triển công nghiệp Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không những
giúp chúng ta giải quyết được vấn đề thiếu vốn đầu tư mà còn có tác dụng giả
quyết việc làm, mở rộng các mặt hàng trên thị trường … Bên cạnh đó, khi các
doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ thúc đẩy chuyển giao công
nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến … cho Việt Nam. Vì vậy, nhà nước luôn có
những biện pháp cần thiết để thu hút nguồn vốn này vào đầu tư tại Việt Nam
để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.
Đối với các công ty nước ngoài đầu tư vào các ngành sản xuất các loại
máy móc, tỷ lệ nội địa hoá càng cao càng có lợi. Trên thực tế, phí tổn về linh
kiện, bộ phận và các sản phẩm trung gian trong những sản phẩm thuộc các
ngành sản xuất máy móc chiếm tới hơn 80% giá thành, lao động chỉ chiếm từ
5 đến 10%, do đó khả năng nội địa hoá có tính chất quyết định đến thành quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt
Nam luôn muốn tăng tỷ lệ nội địa hoá để giảm giá thành sản xuất. Có thể thấy
trong cấu thành của sản phẩm công nghiệp, tỷ lệ của chi phí về công nghiệp
phụ trợ cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về
lao động nhưng công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho môi trường
đầu tư kém hấp dẫn.
Như vậy, giữa FDI và công nghiệp phụ trợ luôn có mối quan hệ tương hỗ
với nhau. Do đó, muốn thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam thì hệ thống công nghiệp phụ trợ trong nước phải đi trước một bước, tạo
nền tảng cơ sở hạ tầng để cung cấp các đầu vào cần thiết cho ngành công
nghiệp lắp ráp.
Tuy nhiên ở Việt Nam do công nghiệp phụ trợ vẫn còn non yếu và nhiều
hạn chế nên các doanh nghiệp FDI rất khó tìm được nguồn cung cấp công
nghiệp phụ trợ đáng tin cậy, điều đó đã hạn chế rất nhiều cơ hội thu hút đầu tư
nước ngoài để phát triển nền kinh tế. Nhất là đối với ngành công nghiệp sản
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B

xuất và lắp ráp ô tô thì phát triển công nghiệp phụ trợ là điều không thể thiếu
để có thể thu hút được nguồn vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực này.
III. Những yếu tố cần thiết để phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô

1. Dung lượng thị trường đủ lớn
Như đã phân tích ở trên, công nghiệp phụ trợ là ngành thường đòi hỏi
vốn đầu tư lớn hơn so với công nghiệp lắp ráp. Tỉ lệ vốn đầu tư trong công
nghiệp phụ trợ chiếm tới gần 80%, nhất là trong các ngành công nghiệp phụ
trợ như tạo khuôn mẫu, gia công kim loại, ép nhựa … thường đòi hỏi phải đầu
tư nhiều máy móc đắt tiền – các thiết bị sản xuất không thể chia nhỏ thành
nhiều phần và không đòi hỏi nhiều về công nhân. Do vậy, các doanh nghiệp
phụ trợ luôn phải nỗ lực giảm chi phí vốn đơn vị bằng cách tăng sản lượng
đầu ra do chi phí vốn đơn vị sẽ tỉ lệ nghịch với sản lượng sản phẩm đầu ra,
nghĩa là số lượng sản phẩm đầu ra càng lớn thì chi phí càng giảm (hiệu quả
sản xuất theo qui mô). Sự gia tăng này chỉ có thể được đảm bảo bằng một
lượng cầu lớn. Đây chính là lý do mà các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ
luôn cần phải đảm bảo dung lượng thị trường đủ lớn. Ta có thể thấy được điều
này qua biểu đồ sau:
Hình 6: Giảm chi phí đơn vị trong công nghiệp phụ trợ
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Nguồn: Xây dựng công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam - VDF
Có thể nói dung lượng thị trường lớn đóng vai trò rất quan trọng đối với
công nghiệp phụ trợ vì ngành này luôn đòi hỏi phải có lượng đặt hàng tối
thiểu tương đối lớn thì mới có thể tham gia vào thị trường. Do đó để các
ngành công nghiệp phụ trợ có thể phát triển hiệu quả thì cần phải đảm bảo
dung lượng thị trường đủ lớn hoặc thị trường sẽ phát triển, dung lượng thị
trường sẽ lớn trong tương lai.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công nghiệp phụ trợ
ngành ô tô do bất kì một chi tiết hay bộ phận nào được sản xuất cũng đều đòi
hỏi một lượng vốn lớn. Vì thế các doanh nghiệp khi đầu tư vào đây luôn xem

xét rất kĩ trước khi đầu tư. Để có thể thu hút được các nhà đầu tư vào ngành
này thì nhất thiết phải tạo ra được một thị trường tiêu thụ lớn.
2. Nguồn nhân lực có kỹ năng
Nguồn nhân lực có kỹ năng là yếu tố quyết định thứ hai tới sự phát triển
của công nghiệp phụ trợ sau dung lượng thị trường. Theo quan điểm của hầu
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Chi phí
đơn vị
Sử dụng nhiều vốn
Sử dụng nhiều lao động
Sản lượng
hết các nhà đầu tư nước ngoài thì nguồn nhân lực còn quan trọng hơn nhiều
máy móc hiện đại, một công nhân có trình độ cao vận hành máy móc cũ còn
hiệu quả hơn công nhân không có trình độ vận hành máy mới. Đối với Việt
Nam thì nguồn nhân lực có kỹ năng là nhân tố cần thiết để nước ta có thể
“phá vỡ trần thuỷ tinh”, đưa nền kinh tế có thể đuổi kịp và vượt lên mức mà
Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc … đã đạt được. Tuỳ theo quy trình sản xuất
nguồn nhân lực chất lượng cao có thể được chia thành: kỹ sư dây chuyền sản
xuất, kỹ sư khuôn mẫu giàu kinh nghiệm, công nhân lắp ráp trình độ cao.
• Kỹ sư quản lý dây chuyền sản xuất: đây là những người lao động đa
kỹ năng, có khả năng quản lý và cải tiến toàn bộ quy trình sản xuất của
một nhà máy.
• Kỹ sư khuôn mẫu giàu kinh nghiệm: là những người thiết kế, sản xuất
và điều chỉnh những sản phẩm khuôn mẫu, tay nghề của họ đã đạt đến độ
hoàn hảo và có thể cảm nhận những khác biệt đến từng milimét đối với
các sản phẩm.
• Công nhân lắp ráp trình độ cao:là những người có thể tự mình lắp ráp
hoàn chỉnh toàn bộ sản phẩm, do đó họ rất thông hiểu từng chi tiết trong
mỗi sản phẩm và có thể gợi ý để cải thiện từng chi tiết trong sản phẩm
đó.

Có thể nói nguồn nhân lực chất lượng cao là tiền đề cho phương thức sản
xuất tích hợp. Trong quá trình sản xuất tích hợp, các linh kiện được thiết kế
đặc trưng cho từng sản phẩm và liên tục được cải tiến nhằm đạt đến chuẩn
mực cao hơn. Sản xuất công nghiệp phụ trợ là một khâu không thể thiếu trong
quá trình này, vì thế mà nguồn nhân lực có kỹ năng cao là một yếu tố cần
thiết để phát triển công nghiệp phụ trợ.
3. Xây dựng được những liên kết trong chuỗi giá trị của ngành ô tô
Trong xu thế đẩy mạnh toàn cầu hoá kinh tế và bước chuyển sang kinh tế tri
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
thức của nền kinh tế toàn cầu, hiện người ta đặc biệt quan tâm đến 3 vấn đề
mới:
1) "Chuỗi giá trị toàn cầu" đang trở thành khuôn khổ xác định khả năng tham
gia vào phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của từng nước và
theo đó, mạng sản xuất toàn cầu và khu vực sẽ đặt ra yêu cầu các quốc gia
phải định hướng lại các lựa chọn phát triển của mình về mặt cơ cấu và theo
đó, động thái "phối hợp" trong sản xuất toàn cầu có khuynh hướng nổi trội
diễn ra đồng thời với cạnh tranh quốc tế.
2) Khuynh hướng dịch vụ hoá nền kinh tế toàn cầu, nhất là dịch vụ dựa trên
công nghệ và tri thức cao, đang tác động đến tất cả các nhóm nước, kể cả
nhóm các nước kém phát triển đi sau. Dĩ nhiên, dịch vụ tạo việc làm và dịch
vụ hỗ trợ phát triển công nghiệp là phù hợp và quan trọng nhất đối với các
nước đang trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá.
3) Khuynh hướng phát triển rút ngắn hiện đại, bắt đầu từ chu kỳ công nghệ có
xu hướng ngày càng ngắn dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ mới đang đưa đến khả năng các nước đi sau phải có các đột phá trong
phát triển theo cách mở rộng dịch vụ, thương mại và bùng nổ thu hút FDI,
tham gia "chuỗi giá trị" khu vực/toàn cầu, thực hiện phát triển bền vững để
giảm thiểu các rủi ro và tính dễ tổn thương do toàn cầu hoá mang lại.
Do vậy, muốn ngành công nghiệp phụ trợ có thể phát triển được trong
điều kiện hội nhập toàn cầu hiện nay thì cần thiết phải xây dựng được những

liên kết trong chuỗi giá trị này.
IV. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô tô của một
số nước
Trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại thì sản xuất và lắp ráp ô tô là
ngành không thể thiếu. Nhà nước ta cũng đã xác định sản xuất và lắp ráp ô tô
là ngành rất quan trọng, kéo theo đó là vai trò không thể thiếu của công
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
nghiệp phụ trợ ngành ô tô. Các quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan … đã rất
thành công đối với ngành công nghiệp này. Do vậy, việc học tập kinh nghiệm
của các nước đi trước trong lĩnh vực này là điếu cần thiết đối với những nước
đi sau như Việt Nam. Có hai mô hình phát triển ngành công nghiệp ô tô mà
nhiều người thường nhắc tới đó là mô hình bảo hộ tối đa của Malaysia và mô
hình tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của Thái Lan. Ta hãy cùng xem xét
để rút ra được những kinh nghiệm hữu ích đối với ngành công nghiệp phụ trợ
ô tô Việt Nam.
1. Thái Lan
Thái Lan bắt đầu phát triển ngành công nghiệp ô tô từ những năm của
thập kỷ 70. Hiện nay, Thái Lan là địa điểm sản xuất và lắp ráp ô tô lớn nhất
trong khu vực Đông Nam Á. Số liệu về ngành công nghiệp ô tô Thái Lan cho
thấy Thái Lan đứng thứ 17 trên thế giới về sản lượng ô tô được sản xuất và có
khoảng 2000 nhà cung cấp linh phụ kiện trên thị trường (Tiasiry, 2002). Xuất
khẩu của Thái Lan tăng đáng kể trong giai đoạn 1996-2004 bao gồm xuất
khẩu xe nguyên chiếc và xuất khẩu linh phụ kiện.
Quan sát chuỗi giá trị của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan, có thể thấy
thời điểm hiện tại Thái Lan đang rất mạnh ở công đoạn sản xuất bộ phận, linh
kiện (công đoạn Công nghiệp phụ trợ) và công đoạn lắp ráp (công đoạn
Doanh nghiệp). Với tiêu chí tạo ra giá trị gia tăng cao và tìm kiếm thị trường,
một số doanh nghiệp tại Thái Lan đã bắt đầu thực hiện nghiên cứu và phát
triển (công đoạn A), thiết kế (công đoạn B) và khai thác thị trường (công đoạn
E).

Ở Thái Lan, các công ty sản xuất ô tô và phụ tùng vừa là nhà cung cấp
vừa là khách hàng tiêu thụ linh phụ kiện, phụ tùng của các công ty khác ở
nước ngoài. Với hướng này công nghiệp phụ trợ sản xuất từ chiếc lốp đến tấm
thảm, hệ thống điện, chi tiết máy, gầm … đều được đầu tư công nghệ hiện đại
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
nhất, thoả mãn bất cứ đơn hàng khó tính nào.
Sự thành công trong lĩnh vực công nghiệp ô tô của Thái Lan còn là kết
quả của việc có được một bản quy hoạch đưa ra được một khung phân tích rõ
ràng và thúc đẩy sự tham gia của các nhóm lợi ích liên quan. Chính phủ Thái
Lan đã tạo ra những kênh thông tin để lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, tìm
hiểu nhu cầu, nguyện vọng và cách thức mong muốn được trợ giúp của các
doanh nghiệp. Do vậy mà bản quy hoạch ngành công nghiệp ô tô xe máy của
Thái Lan mang tính khả thi rất cao.
Hai chiến lược chính được nêu ra trong quy hoạch ô tô của Thái Lan là:
chiến lược tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và có thể dự báo; chiến lược
nâng cao sức cạnh tranh của các ngành sản xuất linh phụ kiện ô tô.
Bảng 1: Các dự án hỗ trợ hai chiến lược chính trong quy hoạch của
Thái Lan
Chiến lược Các dự án hỗ trợ
Tạo ra môi trường
kinh doanh thuận
lợi và có thể dự
báo
1. Dự án phân tích tình hình công nghiệp
2. Trung tâm thông tin ngành
3. Trung tâm đào tạo ngành
4. Dự án phát triển kỹ sư ngành
5. Dự án phát triển hệ thống cấp chứng chỉ năng lực
6. Dự án phản hồi thị trường
7. Dự án nghiên cứu cơ cấu thuế ngành

8. Kế hoạch mở rộng cơ sỏ hạ tầng phát triển công
nghiệp
Nâng cao sức cạnh
tranh của các
ngành sản xuất
linh phụ kiện ô tô
1. Dự án phát triển cụm
2. Dự án tiêu chuẩn ngành
3. Trung tâm kiểm tra tiêu chuẩn sản phẩm ngành
4. Trung tâm nghiên cứu phát triển (R&D) ngành
5. Trung tâm xúc tiến xuất khẩu linh phụ kiện
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
6. Chương trình phát triển nhà cung cấp
7. Dự án phát triển sản phẩm
Nguồn: Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam - VDF
Khi thực hiện quy hoạch, ban đầu Thái Lan cũng băn khoăn về vấn đề
bảo hộ đối với ngành sản xuất linh phụ kiện nội địa. Tuy nhiên, Chính phủ đã
xác định rõ ràng ngành công nghiệp ô tô Thái Lan phải cạnh tranh quốc tế và
Chính phủ tôn trọng quyết định mua sắm tối ưu của các nhà sản xuất, lắp ráp.
Chính phủ Thái Lan quan tâm đến việc công đoạn sản xuất đó được thực hiện
tại Thái Lan chứ không quan tâm đến quốc tịch của công ty thực hiện công
đoạn đó. Khi ngành công nghiệp ô tô Thái Lan phát triển, các nhà cung cấp
nội địa cũng phát triển theo, và thực tế đã chứng minh điều đó.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã tạo nên những diễn đàn (chính thức và
không chính thức) để các doanh nghiệp được trao đổi quan điểm, bộc lộ nhu
cầu. Qua đó đã hình thành nên sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp ô tô
Thái Lan, tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ ô tô phát triển.
Để thực hiện phát triển ngành công nghiệp ô tô và công nghiệp phụ trợ
phụ trợ ô tô, Chính phủ Thái Lan tập trung hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao
năng lực cạnh tranh bằng các chương trình như tăng chi phí đào tạo huấn

luyện, xây dựng chương trình đào tạo kỹ sư, tăng học bổng học tập trong khối
công nghiệp, đào tạo lại đội ngũ kỹ sư và nhân viên điều hành, xây dựng
trung tâm cơ sở dữ liệu công nghiệp, dữ kiệu nhà sản xuất, dữ liệu thị trường,
trung tâm, hỗ trợ xuất khẩu linh phụ kiện …
2. Trung Quốc
Trong nền kinh tế Trung Quốc nói chung và nền công nghiệp nói riêng
thì ngành công nghiệp ô tô luôn được coi trọng. Để thực hiện được chính sách
đó, ngay từ những thập niên 50 thế kỉ XX Trung Quốc đã có những chính
sách bảo hộ và ưu đãi trong việc chế tạo và lắp ráp ô tô.
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B
Nếu có thể tham khảo một chiến lược phát triển thích hợp cho ngành ô tô
để áp dụng ở Việt Nam thì hãy nhìn sang nước láng giềng Trung Quốc. Nước
này đã tiêu thụ thêm được 1 triệu chiếc xe, tức tăng 35% trong năm 2006, trở
thành thị trường tiêu thụ ô tô phát triển nhanh nhất và sẽ là thị trường lớn nhất
trên thế giới. Nguyên nhân của những thành tựu này trước hết phải kể đến sự
lớn mạnh vượt bậc không ngừng của các hãng ô tô nội địa Trung Quốc, khi đã
phát triển từ con số gần như bằng 0 lên chiếm lĩnh vị trí hàng đầu xét về thị
phần của ngành năm trước, qua mặt cả các hãng ô tô lớn đến từ Nhật Bản.
Chìa khoá để dẫn đến sự thành công này là chiến lược cạnh tranh bằng giá rẻ
và mẫu mã đa dạng, hợp thị hiếu người Trung Quốc của những hãng này. Khi
đã có tiếng nói trên thị trường, các hãng ô tô nội địa bắt đầu tập trung vào việc
nâng cấp chất lượng để thu hẹp khoảng cách với các hãng nước ngoài. Các
công nghệ xe hơi cho tương lai như pin nhiên liệu, công nghệ kết hợp động cơ
xăng và điện … cũng được các hãng này du nhập và nghiên cứu để triển khai
công nghệ.
Trước sự cạnh tranh dữ dội của các nhà sản xuất nội địa này, các công ty
nước ngoài phải tìm đến giải pháp đối phó nhằm giảm giá thành sản phẩm
như mua nhiều hơn các linh phụ kiện tại Trung Quốc, kéo theo sự phát triển
của ngành công nghiệp phụ trợ Trung Quốc. Đến lượt nó lại hậu thuẫn cho
các hãng nội địa phát triển.

Bên cạnh đó cũng phải kể đến hiệu quả không nhỏ của việc Chính phủ
ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, đặc biệt với những hãng xe
danh tiếng thế giới. Sau khi thực hiện chính sách này, các tập đoàn sản xuất ô
tô danh tiếng như Volkswagen của Đức, GM và Ford của Mỹ, Toyota của
Nhật … đã đầu tư ồ ạt vào Trung Quốc với một nguồn vốn rất lớn. Những
hãng xe này thâm nhập đã làm thay đổi diện mạo của ngành công nghiệp ô tô
Trung Quốc, xe sản xuất ngày một nhiều hơn, mẫu mã ngày một đa dạng hơn.
Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B

×