Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

phát triển công nghệ phụ trợ ôtô ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.07 KB, 26 trang )

Phần mở đầu
Như chúng ta đều biết công nghiệp là một trong những ngành chính cũng như là
một trong những ngành quan trọng nhất của nền kinh tế . Vì vậy phát triển công nghiệp là
môt trong những hoạt động quan trọng nhất trong việc phát triển nền kinh tế nhất là trong
bối cảnh như hiện nay, nhất là khi chúng ta vừa mới gia nhập vào WTO chưa lâu thì việc
phát triển công nghiệp lại càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Công nghiệp ở Việt
Nam mặc dù có những bước tiến rất lớn trong thời gian qua nhưng nói chung nền công
nghiệp nước ta còn rất non trẻ nhất là trong các ngành công nghiệp đòi hỏi kỹ thuật cao.
Vì vây việc xác định chiến lược cho việc phát triển công nghiệp là hết sức cần thiết đối
với việc phát triển của môt quốc gia. Một trong những chiến lược quan trọng trong việc
phát triển ngành công nghiệp đối với một quốc gia là phát triển công nghiệp phụ
trợ..Công nghiệp hỗ trợ là cơ sở thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất
nước. Phát triển công nghiệp hỗ trợ gắn liền với định hướng phát triển các ngành công
nghiệp chủ lực của Việt Nam trong tương lai.Thực tiễn cho thấy,một đất nước có nền
công nghiệp phát triển thường gắn liền với công nghiệp phụ trợ phát triển. Để hiểu rõ hơn
về việc phát triển công nghiệp phụ trợ ,em xin được trình bày về việc” phát triển công
nghệ phụ trợ ôtô ở Việt Nam” một trong những ngành công nghề mới ở nước ta nhưng
mang trong nó là một tiềm năng rất lớn.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Kế Nghĩa đã giúp em hoàn thành đề án này
1
I ) Tổng quan về công nghiệp phụ trợ Việt Nam
1) Khái niệm về công nghệ phụ trợ
Công nghiệp hỗ trợ,cụm từ này gần đây được nhắc tới như một bộ phận cấu
thành và quan trọng của ngành Công nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Công nghiệp phụ trợ là một thuật ngữ mới và hiện đang
rất "nóng" ở Việt Nam. Nó được xem như công việc giúp cho việc lắp ráp các sản phẩm
cuối cùng thông qua cung cấp các bộ phận chi tiết, linh kiện sản phẩm hàng hoá trung
gian khác. Điều đặc biệt là công nghiệp phụ trợ chủ yếu do các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đảm nhiệm. Và các chuyên gia cảnh báo rằng, trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ của ngành công nghiệp sẽ là khối chịu thiệt thòi nhất.
Theo tính toán của các chuyên gia đối với một số ngành thì giá trị gia tăng trong


sản xuất công nghiệp rơi vào công nghiệp phụ trợ tới 90-95% tuỳ theo tính chất kỹ thuật
ngành. Nếu phân theo mức độ, vai trò tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất thì ngành công
nghiệp phụ trợ được chia làm 3 tầng.
Tầng thứ nhất là hệ thống công nghiệp phụ trợ "ruột". Tức là những hãng được
hãng chính bảo trợ và cung cấp tất cả những yêu cầu cơ bản nhất để tạo ra những chi tiết
đặc trưng nhất của sản phẩm. Đây là khu vực mà theo nhận định của các chuyên gia, cơ
hội tham gia của doanh nghiệp phụ trợ nội địa của Việt Nam không có.
Hai tầng còn lại là hệ thống phụ trợ hợp đồng và thị trường. Tức là doanh nghiệp
sản xuất ra Tức là doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm linh kiện để bán trên thị trường
hoặc tham gia các hợp đồng cung cấp. Với hai tầng này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
cũng rất khó tham gia vào chuỗi này.
Thực tiễn cho thấy rằng,một đất nước có ngành Công nghiệp phát triển thường có
ngành CNPT phát triển.
2
Trong hoạch định chiến lược và chính sách công nghiệp của một quốc gia,việc xử
lý mối quan hệ giữa một ngành công nghiệp với các ngành phụ trợ của nó là vấn đề hết
sức phức tạp.Mỗi quốc gia có cách thức riêng trong việc giải quyết mối quan hệ này.Ví
dụ như trong ngành công nghiệp Dệt may, để có được một sản phẩm may mặc hoàn chỉnh
phải có nhiều chi tiết đựơc may lại và tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh.Trong đó không thể
không kể đến vai trò của ngành CNPT,mà chủ yếu là CNPT ngành Dệt và CNPT ngành
May.Mối quan hệ tương hỗ giữa hai ngành này sẽ cho những sản phẩm may mặc hoàn
chỉnh.
2 ) Đặc điểm của công nghiệp phụ trợ
Phát triển công nghiệp phụ trợ có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình công nghiệp
hoá.Hiện tại,do ngành công nghiệp ở VN đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển
dịch sang”thế hệ công nghiệp thứ hai”nên việc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá cao là khó có
thể đạt được.
Nhìn chung,ngành CNPT VN vẫn đang ở giai đoạn”thai nghén” và mới bắt đầu
phát triển. Đặc điểm này thể hiện ở số lượng các DN phụ trợ nội địa mới chỉ dừng lại ở
khâu sản xuất các chi tiết,linh kiện đơn giản và cơ cấu giá trị nội địa hóa rất nhỏ.Hiện

nay,nhiều ngành công nghiệp tại nước ta phát triển lớn mạnh với kim ngạch xuất khẩu lên
tới nhiều tỷ USD như:giày da,may mặc, điện tử…song nguồn đầu vào vẫn phải phụ thuộc
rất nhiều từ nhập khẩu,do vậy giá trị gia tăng mới còn thấp.Như lĩnh vực điện-điện tử,các
DN có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 90% về doanh thu và kim ngạch xuất khẩu,do
vậy phần lớn CNPT nằm trong tay các DN đầu tư nước ngoài.Ngành Dệt may có tới
khoảng 70% tổng giá trị hàng xuất khẩu là phụ thuộc vào nguyên,phụ liệu nhập
khẩu.Trong đó,toàn bộ thuốc nhuộm đang sử dụng đều phải nhập khẩu,tỉ lệ chất trợ và
hoá chất cơ bản trong nước sản xuất cung cấp cho ngành Dệt chỉ chiếm trên dưới 15%
nhưng hầu hết lại là sản phẩm có giá trị thấp.Ngành cơ khí chế tạo phụ tùng,chi tiết cho
máy móc thiết bị ngành dệt may ở trong nước chưa phát triển,hầu hết đều do khách hàng
nước ngoài cung cấp.Hay như ngành công nghiệp giày dép cũng phát triển khá “cô
3
độc”,vì thiếu sự phụ trợ của các ngành công nghiệp khác như thuộc da,sản xuất phụ
liệu,hóa chất cơ bản,cơ khí chế tạo….
Nhận dạng công nghiệp này có thể dựa vào 3 yếu tố:
Thứ nhât,tính chất và đặc thù của các sản phẩm,loại sản phẩm phụ trợ như phụ
tùng,linh kiện,nguyên phụ kiện….Các doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ có thể tập trung
đầu tư và phát triển sản xuất các loại phụ tùng linh kiện có kích cỡ cồng kềnh với công
nghệ sản xuất không phức tạp và chỉ với mục tiêu đáp ứng nhu cầu,yêu cầu của các doanh
nghiệp FDI.
Thứ hai và cũng là điểm yếu nhất của VN đó là khâu nghiên cứu và triển
khai(R&D).
Thứ ba là yêu cầu đặt ra cũng như chính sách thu mua từ phía các Công ty FDI rất
khắt khe về chất lượng,thông số kỹ thuật,nguồn nguyên vật liệu và thời hạn giao
hàng.Thực tế,các DN nội địa khó có thể đáp ứng một cách toàn diện các yêu cầu này.Như
trong lĩnh vực xe máy:số lượng DN phụ trợ nội địa trong ngành này khá nhiều nhưng số
lượng trở thành nhà cung ứng cho DN FDI lại không đáng kể.Cũng có quan điểm cho
rằng,tình hình này là do các doanh nghiệp FDI nặng về loại hình phụ trợ “ruột”.Tuy
nhiên,nguyên nhân chính vẫn là năng lực sản xuất kinh doanh và uy tín của các doanh
nghiệp nội địa vẫn chưa mạnh,hay nói rõ hơn là thực trạng ngành CNPT vẫn còn yếu.

Tuy vậy, đến nay ở VN đã hình thành hàng loạt các cơ sở sản xuất nguyên
liệu,phụ tùng,linh kiện,vật tư hỗ trợ phục vụ cho nhu cầu lắp ráp một số mặt hàng công
nghiệp để tiêu thụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.Trong đó,chiếm tỷ trọng phần
lớn là các cơ sở sản xuất phục vụ cho nhu cầu nội địa,xuất khẩu chưa nhiều,chủ yếu là
xuất khẩu gián tiếp,thông qua xuất khẩu các sản phẩm lắp ráp cuối cùng.Cùng với nhiều
ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài,năng lực sản xuất ngành công nghiệp đã tăng nhanh
trong giai đoạn vừa qua.Nhiều doanh nghiệp FDI đã và đang đầu tư phát triển các cơ sở
sản xuất hỗ trợ tại VN. Ở một số ngành công nghiệp,tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm đạt khá
cao như các ngành xe máy,xe đạp,trang thiết bị điện…Các doanh nghiệp đã có xu hướng
4
đầu tư chiều sâu,chuyển sang tổ chức sản xuất theo hướng chuyên môn hoá,chất lượng
sản phẩm được nâng cao,nhiều sản phẩm đã được xuất khẩu ra thị trường quốc tế.Thực
tế,qua gần hai thập kỷ phát triển theo hướng công nghiệp hoá,thu hút đầu tư nước
ngoài,Việt Nam cũng chỉ mới có ngành công nghiệp xe máy ước tính trung bình có
khoảng 80% các chi tiết được nội địa hoá.ví dụ như tập đoàn xe máy SYM của Đài Loan
khi đầu tư tại Đồng Nai cách nay hơn 10 năm với nhà máy VMEP đã kéo theo cả một loạt
các xí nghiệp vệ tinh vào đầu tư các dự án về sản xuất ốc vít, đèn,bửng xe,dây điện….Họ
có vài chục nhà máy sản xuất hàng phụ trợ cho sản xuất sản phẩm xe máy VMEP,nhưng
cũng mới chỉ dừng lại ở mức khiêm tốn.Như Canon khi bắt đầu sản xuất tại VN đã không
thể chọn được nhà cung cấp nội địa về sản phẩm bánh răng nhựa vì chất liệu không ổn
định.
Một đặc điểm nữa đó là ngành công nghiêp phụ trợ thường được sản xuất với quy
mô nhỏ,chủ yếu là do doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất.
3) Vai trò của công nghiệp phụ trợ
Là một ngành Công nghiệp trung gian,cung cấp các yếu tố cần thiết cho một ngành
công nghiệp.Bởi vậy,CNPT nếu được phát triển hợp lý thì nó sẽ giữ vai trò là ngành công
nghiệp hỗ trợ đặc biệt quan trọng trong phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia.Vai trò
ấy thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:Là điều kiện quan trọng bảo đảm tính chủ động và
nâng cao giá trị gia tăng của ngành sản xuất sản phẩm của khu vực hạ nguồn;góp phần
khai thác các nguồn lực trong nước,giảm xuất khẩu sản phẩm thô và nhập khẩu nguyên

phụ liệu, phát huy ảnh hưởng của tác động “lan toả” trong phát triển hệ thống công
nghiệp, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động;mở rộng khả năng
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công nghiệp.
Việc phát triển công nghiệp phụ trợ là vấn đề phức tạp trong hoạch định chiến lược
phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia.Bỏi vì nó đóng vai trò xử lý mối quan hệ giữa một
ngành công nghiệp với các ngành phụ trợ của nó,mà vấn đề này là vấn đề hết sức phức
tạp.Mỗi quốc gia có cách thức riêng trong việc giải quyết mối quan hệ này.Với các nước
5
đang trong quá trình công nghiệp hóa,khi nguồn lực còn hạn hẹp,quy mô các ngành kinh tế
còn nhỏ bé,việc giải bài toán quan hệ giữa phát triển khu vực công nghiệp phụ trợ và khu
vực hạ nguồn lại càng phức tạp.Do vậy yêu cầu cần phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển khu vực công nghiệp phụ trợ,như vậy sẽ tạo ra lập luận cứ khoa học để lựa
chọn chiến lược phát triển công nghiệp thích hợp.
Thực tế cho thấy rằng,một nước có nền công nghiệp phát triển thường gắn vơí
ngành CNPT phát triển.Bởi vì CNPT là ngành công nghiệp hỗ trợ cho việc sản xuất một
loại sản phẩm cuối cùng nhất định.Khi một ngành công nghiệp có đủ các yếu tố đầu vào
cho sản xuất sản phẩm cuối cùng thì việc hoàn thiện nó sẽ có thể nhanh hơn những sản
phẩm mà không có đủ các yếu tố để sản xuất, để hoàn thành nó.Mặc dù vậy việc tìm nhà
cung ứng về các sản phẩm phụ trợ để phục vụ cho việc sản xuất là một vấn đề khó khăn
khi đầu tư vào các nước đang trong quá trình công nghiệp hóa.Có thể là ngành công
nghiệp phụ trợ ở các nước này chưa phát triển hoặc là không đáp ứng yêu cầu về sản
phẩm phù trợ phục vụ cho việc sản xuất.Như khi công ty Canon muốn đầu tư vào VN
nhưng mà việc sản xuất các linh kiện,phụ tùng trong nước vẫn không thể đáp ứng cho
việc sản xuất của DN này,do vậy chúng ta vẫn phải thuê gia công hoặc nhập khẩu linh
kiên từ nước ngoài vào.
Như vậy,rõ ràng là việc phát triển công nghiệp phụ trợ có vai trò cực kỳ quan
trọng trong chính sách phát triển công nghiệp của một quốc gia
6
II ) Tổng quan về công nghiệp phụ trợ ôtô
1) Khái quát công nghiệp phụ trợ ôtô

Công nghiệp phụ trợ ôtô đã bắt đầu xuất hiện ở nước ta đã khá lâu rồi,nhưng trong
khoảng thời gian đó cho tới nay thì công nghiệp phụ trợ ôtô của nước ta vẫn chưa có
thành tựu gì đáng kể mà nói chung no vẫn còn rất non kém:
Bộ Công nghiệp cho biết: Ngành công nghiệp phụ trợ nói chung và trong lĩnh vực
sản xuất ôtô tại Việt Nam nói riêng hiện còn rất sơ khai.Các doanh nghiệp thì đầu tư
manh mún, quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm chủ yếu là các linh kiện giản đơn, cồng kềnh,
ít bí quyết công nghệ, có giá trị thấp trong cơ cấu nội địa hoá. Công nghệ sản xuất thì lạc
hậu, hầu như không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp ôtô có vốn đầu tư nước
ngoài (FDI).
Theo số liệu từ Bộ Công nghiệp, sau hơn 10 năm phát triển, đến nay ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam mới có trên 60 doanh nghiệp sản xuất linh kiện và tổng giá trị tài
sản mỗi doanh nghiệp không vượt quá 20 tỷ đồng. Trong khi số lượng các doanh nghiệp
sản xuất linh kiện tăng chậm, thì ngược lại số lượng các doanh nghiệp lắp ráp ôtô lại tăng
quá nhanh. Hiện Việt Nam có tới gần 50 doanh nghiệp lắp ráp ôtô và con số này chưa
dừng lại ở đây. Thông thường một chiếc xe ôtô có từ 20.000 đến 30.000 chi tiết và cần tới
hàng nghìn nhà cung cấp linh kiện, nhưng hiện tại ở Việt Nam, lại quá ít. Tính toán của
các nhà quản lý cho biết, để tránh khỏi lắp ráp giản đơn, thì một doanh nghiệp ôtô phải
cần tối thiểu 20 nhà cung cấp với nhiều loại linh kiện khác nhau. Nhưng cho đến nay
chưa doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ôtô nào tại Việt Nam có được 20 nhà cung cấp linh
kiện trong nước. Ngay cả những liên doanh ôtô tên tuổi như Toyota, Ford... có hệ thống
các nhà cung cấp linh kiện lớn cũng không lôi kéo được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào
Việt Nam. Trên thực tế, thời gian qua, các doanh nghiệp lắp ráp ôtô chỉ có 2-3 nhà cung
cấp linh kiện trong nước. Một doanh nghiệp lớn như Xuân Kiên đầu tư cho sản xuất lắp
ráp ôtô với số vốn 400 tỷ đồng và tiêu thụ 3- 4 nghìn xe/năm cũng mới chỉ có 1 nhà cung
cấp linh kiện trong nước, đó là ắc quy GS, còn lại đều nhập khẩu từ nước ngoài. Theo
7
các chuyên gia của Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản, để có ngành công nghiệp ôtô phải
hình thành được 5 cấp bậc sản xuất với hàng nghìn các doanh nghiệp tham gia vào quá
trình này. Trong đó nhiều nhất là các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu, tiếp đến là
các doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp lớn vừa và doanh nghiệp rất lớn cung cấp linh

kiện, cuối cùng là nhà lắp ráp. Những nền tảng đó ở Việt Nam đều thiếu và đang trong
quá trình xây dựng. Hiện nay, các vật liệu như thép tấm thép hình, thép đặc biệt... để làm
phụ tùng nội địa hoá, trong nước chưa chế tạo được. Các vật liệu khác cũng tương tự, đều
không có nhà cung cấp. Bên cạnh đó là trang thiết bị, bí quyết công nghệ để sản xuất các
linh kiện, Việt Nam cũng rất thiếu mà đặc biệt là chưa có sự chuyển giao công nghệ sản
xuất phụ tùng ôtô từ nước ngoài vào Việt Nam... Khi chưa có hệ thống các nhà cung cấp
nguyên vật liệu, sản xuất linh kiện hùng hậu thì công nghiệp ôtô khó tránh khỏi cảnh lắp
ráp giản đơn.
2) Một số nhân tố ảnh hưởng tới công nghiệp phụ trợ ôtô Việt Nam
Cơ chế chính sách của nhà nước liên quan đến phát triển CNPT ngành
Sự ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện trên 2 mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, quan điểm của Nhà nước về phát triển công nghiệp phụ trợ trong định
hướng chiến lược phát triển công nghiệp
Thứ hai là các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực công nghiệp phụ trợ(như chính
sách “nội điạ hoá:,chính sách đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ;chính sách thuế đánh
vào khâu nhập khẩu và khâu sản xuất các sản phẩm phụ trợ;mức độ đầu tư của Nhà nước
vào nghiên cứu khoa học và công nghệ).
Đó là những chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng đến ngành CNPT nói chung
Nguồn lực về tài chính
Giữa khu vực công nghiệp phụ trợ và hạ nguồn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đầu tư vào các ngành phụ trợ bất lợi hơn so với đầu tư vào khu vực hạ nguồn:do suất đầu
tư lớn;công nghệ phức tạp;thời hạn hoàn vốn đầu tư dài, độ rủi ro trong đầu tư cao.Từ đó
cho thấy việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển công nghiệp và chính sách
8
huy động các nguồn lực ấy có vai trò hết sức to lớn trong việc đảm bảo các ngành công
nghiệp phụ trợ phát triển có hiệu quả và bền vững.Bên cạnh đó trong khi khu vực hạ
nguồn cần những sản phẩm đã sản xuất ra của công nghiệp phụ trợ để hoàn thiện những
sản phẩm do mình tạo ra lại đòi hỏi nhiều nguyên phụ liệu,phụ tùng,linh kiện khác
nhau...bởi vì mỗi ngành khi sản xuất ra một sản phẩm không chỉ có mỗi những gì doanh
nghiệp mình có sẵn mà nó còn đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ các ngành khác,mà đặc biệt là

ngành công nghiệp phụ trợ của nó.Do vậy, để đáp ứng những bộn phận,chi tiết cho ngành
công nghiệp mà nó phụ trợ thì ngành công nghiệp phụ trợ không những cần có nhiều
nguồn lực có sẵn mà nó còn phải đảm bảo về nguồn lực tài chính cần cho việc chế tạo,sản
xuất.
Tiến bộ khoa học và công nghệ
Trình độ tiến bộ khoa học–công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thị trường.Doanh nghiệp có trình độ khoa học và công nghệ càng
cao,khả năng cạnh tranh càng lớn
III) Thực trạng, thách thức, giải pháp và bước đi
1)Thực trạng và thách thức đối với công nghiệp phụ trợ ôtô
Thực trạng
Đánh giá chung. Ngành công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô trên địa bàn hiện nay
chủ yếu hình thành và phát triển từ những doanh nghiệp sản xuất cơ khí với nhiệm vụ
sản xuất một số phụ tùng, chi tiết và đóng xe khách thuộc Bộ Giao thông vận tải. Từ năm
2000 trở lại đây, nhờ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành
phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy Hà Nội hiện có khá nhiều
doanh nghiệp tham gia sản xuất lắp ráp ô tô, sản phẩm của ngành phong phú về chủng
loại, đã đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường.
9
Sản phẩm ô tô phát triển đã kéo theo và thu hút được rất nhiều các doanh nghiệp
thuộc ngành công nghiệp khác tham gia đầu tư sản xuất sản phẩm để cung cấp chi tiết cho
ngành ô tô như:
+ Ngành sản xuất cao su, hóa nhựa: cung cấp sản phẩm săm lốp, gioăng cửa, các loại ghế
đệm, sơn...
+ Ngành điện tử: cung cấp sản phẩm điều hòa, radio, dây dẫn...
+ Ngành cơ khí có cơ hội đầu tư để sản xuất các chi tiết, phụ tùng: nhíp lá, bạc, các sản
phẩm được chế tạo nhờ công nghệ đúc áp lực, đột dập, ép nhựa…
Các doanh nghiệp sản xuất các chi tiết, linh kiện, phụ tùng đã cung ứng khoảng
40% giá trị trong tổng thành xe. Tuy nhiên sản phẩm ô tô sản xuất chưa nhiều, chưa đa
dạng, các chi tiết, linh kiện, phụ tùng chất lượng chưa cao, chưa có sự phối hợp giữa các

nhà sản xuất .Vì vậy hiệu quả kinh tế cả ở khu vực lắp ráp ô tô hoàn chỉnh cũng như các
doanh nghiệp sản xuất phụ tùng còn rất nhiều lãng phí trong đầu tư, hiệu quả kinh doanh
thấp.
Chúng ta đang thực hiện Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam
đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Hiện nay ngành công nghiệp ô tô trong nước đã thỏa mãn
nhu cầu trong nước về các loại xe buýt với tỷ lệ nội địa hóa khoảng 40%, các loại xe tải
nhẹ công suất dưới 5 tấn. Nhìn chung các DN đa phần nhập sát si, động cơ, hệ thống
truyền động ... của Trung Quốc, Hàn quốc; trong nước bước đầu sản xuất được khung, vỏ
xe, ghế, nhíp, bạc, săm lốp, kính...
Một số DN tiêu biểu sản xuất lắp ráp ô tô, sản xuất các chi tiết, linh kiện, phụ
tùng cho ngành công nghiệp ô tô: (Xem phần phụ lục )
- DN sản xuất lắp ráp ô tô hoàn chỉnh điển hình:
+ Công ty 1/5 là DN sản xuất lắp ráp ô tô buýt 29-80 chỗ, mang thương hiệu
TRANSICO.
10

×