Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.64 KB, 64 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ khi mới được hình thành, ngành cơng nghiệp ơ tơ Việt Nam đã
được Chính phủ dành cho những quan tâm đặc biệt. Trong bản quy hoạch
phát triển ngành công nghiệp ơ tơ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020,
Nhà nước cũng đã nêu rõ quan điểm của Việt Nam đó là đưa ngành cơng
nghiệp ơ tơ trở thành ngành rất quan trọng của đất nước.
Tuy nhiên sau hơn 15 năm phát triển, ngành ô tô Việt Nam vẫn chưa đạt
được những thành tựu xuất sắc xứng đáng với kỳ vọng của Chính phủ, trở
thành một ngành rất quan trọng của nền kinh tế. Mà nguyên nhân cơ bản dẫn
đến thực trạng trên đó là do hệ thống công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt
Nam chưa phát triển. Vì vậy, để ngành cơng nghiệp ơ tơ Việt Nam có thể đi
theo đúng định hướng của nhà nước đề ra thì chũng ta cần phải phát triển
được một hệ thống công nghiệp phụ trợ cho ngành. Hệ thống cơng nghiệp phụ
trợ của ngành càng phát triển thì chứng tỏ trình độ phát triển của ngành càng
cao.
Xuất phát từ thực trạng trên của ngành ô tô, em đã lựa chọn nghiên cứu
đề tài “Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ơ tơ ở Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu đề tài: nghiên cứu các khái niệm, định nghĩa về
công nghiệp phụ trợ đang được sử dụng. Từ đó tiến hành nghiên cứu và phân
tích thực trạng của ngành cơng nghiệp ơ tơ nói chung và ngành cơng nghiệp
phụ trợ ơ tơ nói riêng, qua đó đề xuất những kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát
triển của công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt Nam trong thời gian tới.
Cấu trúc của đề tài bao gồm 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận và sự cần thiết phải phát triển công nghiệp phụ
trợ ngành ô tô ở Việt Nam.

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chương II: Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô tô ở Việt
Nam.
Chương III: Giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp phụ
trợ ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ
phía cơ quan thực tập - Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu
tư cũng như sự hướng dẫn tận tình từ phía thầy giáo TS.Nguyễn Ngọc Sơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ
NGÀNH Ô TÔ
I.

Khái niệm về công nghiệp phụ trợ

1. Định nghĩa về công nghiệp phụ trợ
1.1. Khái quát chung về công nghiệp phụ trợ
Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước,
mặc dù vậy thuật ngữ này vẫn rất mơ hồ và khơng có được định nghĩa thống
nhất. Tại mỗi một quốc gia, theo các nhà nghiên cứu và hoạch định chính
sách thì thuật ngữ này lại được định nghĩa theo cách hiểu và mục đích sử
dụng của từng người. Trên thực tế, công nghiệp phụ trợ (supporting
industries) là một từ tiếng Anh - Nhật đã được các doanh nghiệp Nhật sử

dụng từ lâu trước khi trở thành một thuật ngữ chính thức.
Hộp 1: Một số khái niệm và định nghĩa về công nghiệp phụ trợ
Bộ kinh tế, Thương mại và Cơng nghiệp Nhật Bản (MEIT)
chính thức định nghĩa về cơng nghiệp phụ trợ trong chương trình hành
động phát triển công nghiệp phụ trợ Châu Á (1993): Công nghiệp phụ
trợ là các ngành công nghiệp cung cấp các yếu tố cần thiết như nguyên
liệu thô, linh kiện và vốn … cho các ngành công nghiệp lắp ráp ( bao
gồm ô tô, điện và điện tử).
Bộ Năng lượng, Mỹ: Công nghiệp phụ trợ là những ngành công
nghiệp cung cấp nguyên liệu và quy trình cần thiết để sản xuất ra sản
phẩm trước khi chúng được đưa ra thị trường.
Định nghĩa của Văn phịng phát triển cơng nghiệp phụ trợ,
Thái Lan: Công nghiệp phụ trợ là các ngành công nghiệp cung cấp
linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ kiểm tra
cho các ngành cơng nghiệp cơ bản (có nghĩa là các ngành cơ khí, máy
móc, linh kiện cho ô tô, điện và điện tử là những ngành công nghiệp
phụ trợ quan trọng).
Định nghĩa của Hội đồng đầu tư, Thái Lan: Hội đồng đầu tư
phânloại các ngành công nghiệp sản xuất thành phẩm thành 3 bậc: lắp
ráp, sản xuất linh kiện và phụ kiện, và các ngành cơng nghiệp phụ trợ.
Năm sản phẩm chính của ngành công nghiệp phụ trợ là gia công khuôn
mẫu, gia công áp lực, đúc và gia công nhiệt.
Nguồn: Xây dựng năng lực công nghệ nội sinh trong xây dựng công nghiệp phụ trợ

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Tóm lại, cơng nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm

cơng nghiệp có vai trị hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể
là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn,
nhuộm,… và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những
nguyên liệu sơ chế.
Tuy nhiên, thuật ngữ “cơng nghiệp phụ trợ” chính thức được sử dụng ở
Việt Nam tương đối muộn, từ năm 2003 bắt nguồn từ sáng kiến chung Việt
Nam - Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường đầu tư với quan điểm nâng cao
khả năng cạnh tranh của Việt Nam, trong đó kêu gọi sự phát triển, thiết lập và
sử dụng ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam.
Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của ngành công nghiệp phụ trợ
nhưng hầu hết các quan chức trong bộ máy Nhà nước vẫn mơ hồ về khái niệm
công nghiệp phụ trợ. Do vậy, thuật ngữ công nghiệp phụ trợ được sử dụng
trong các chính sách, chiến lược cơng nghiệp là khác nhau. Nếu khơng có một
định nghĩa cụ thể về cơng nghiệp phụ trợ thì khơng thể xác định được đó là
ngành cơng nghiệp nào, hỗ trợ cho cái gì, cho ai.
Ngồi khái niệm “công nghiệp phụ trợ” một vài khái niệm khác cũng
được sử dụng để chỉ ngành công nghiệp chuyên cung cấp đầu vào cho các
ngành cơng nghiệp chính: cơng nghiệp liên quan và hỗ trợ, thầu phụ, công
nghiệp phụ thuộc, công nghiệp linh phụ kiện. Các khái niệm này đều có nghĩa
gần với nghĩa của “cơng nghiệp phụ trợ”, cùng có chung quan điểm, cùng
nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngành công nghiệp sản xuất đầu vào cho
thành phẩm. Mỗi một khái niệm về “công nghiệp phụ trợ” được xác định bởi
một phạm vi khác nhau. Ta có thể đưa ra ba khái niệm về công nghiệp phụ trợ
tương ứng với ba phạm vi như sau:
Khái niệm hạt nhân: công nghiệp phụ trợ là những ngành công nghiệp
cung cấp linh kiện, phụ kiện, phụ tùng và các công cụ sản xuất ra các linh

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

kiện, phụ tùng này.
Khái niệm mở rộng 1: công nghiệp phụ trợ là những ngành công nghiệp
cung cấp linh kiện, phụ tùng, công cụ để sản xuất linh kiện phụ tùng này và
các dịch vụ sản xuất như hậu cần, kho bãi, phân phối và bảo hiểm.
Khái niệm mở rộng 2: công nghiệp phụ trợ là những ngành cơng nghiệp
cung cấp tồn bộ đầu vào vật chất, gồm linh kiện, phụ tùng, công cụ, máy
móc và ngun vật liệu.
Hình 1: Sơ đồ các phạm vi của cơng nghiệp phụ trợ

CNPT (phạm vi chính)

Lắp ráp
Lắp ráp chưa hồn chỉnh

Hàng hố trung gian
Phụ tùng
Linh kiện

Hàng hoá tư bản

Dịch vụ sản xuất
Hậu cần
Kho bãi
Phân phối
Bảo hiểm

CNPT (phạm vi mở rộng 1)


CNPT (phạm vi mở rộng 2)

Sản phẩm cuối cùng

Cơng cụ
Máy móc

Ngun liệu
Thép
Hố chất

Nguồn: Xây dựng cơng nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam (VDF)

Do bối cảnh Việt Nam là một nước có nền cơng nghiệp cơng nghiệp
phụ trợ chưa phát triển nên trong bài viết sử dụng khái niệm công nghiệp phụ
trợ theo như khái niệm hạt nhân.
Khái niệm công nghiệp phụ trợ được sử dụng trong khuôn khổ bài viết:

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Công nghiệp phụ trợ là một nhóm các hoạt động cơng nghiệp cung cấp các
đầu vào trung gian (gồm linh kiện, phụ tùng và công cụ để sản xuất ra các
linh kiện phụ tùng này) cho các ngành công nghiệp lắp ráp và chế biến.
1.2. Khái niệm công nghiệp phụ trợ ngành ô tơ
Cơng nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ tồn bộ những sản phẩm cơng
nghiệp có vai trị hỗ trợ cho việc sản xuất các sản phẩm chính. Cụ thể là
những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn,

nhuộm … và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những
nguyên liệu sơ chế.
Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ
được thực hiện bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, trong ngành ơ tơ, các
bộ phận như đầu máy xe, thân xe, bánh xe .. thường khơng được kể là cơng
nghiệp phụ trợ vì nó chủ yếu do các công ty lớn sản xuất với quy mô lớn.
Trong ngành này, công nghiệp phụ trợ là những linh kiện, những phụ liệu ở
cấp thấp hơn được cung cấp để sản xuất ra đầu máy xe, thân xe …
Mối quan hệ giữa công nghiệp lắp ráp ô tô và công nghiệp phụ trợ cho
ngành ô tô được thể hiện qua mơ hình sau:
Hình 2: Mối quan hệ trong ngành ô tô

Ngành công nghiệp ô tô
Sản phẩm cho thị trường nội địa
Nhà lắp ráp
Ngành phụ trợ,
cung cấp linh
phụ kiện

Dây chuyền lắp ráp
Tự sản xuất và
mua sắm, trong
nước

Nhập khẩu từ
nước ngồi

Linh kiện máy
móc


XK
Nguồn: Xây dựng cơng nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam - VDF

2. Phân loại công nghiệp phụ trợ

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

2.1. Theo loại hình hỗ trợ
Nếu chia theo loại hình hỗ trợ thì công nghiệp phụ trợ được chia thành
ba tầng:
Tầng thứ nhất là hệ thống công nghiệp phụ trợ “ruột”, tức là những hãng
được hãng chính bảo trợ và cung cấp tất cả những yêu cầu cơ bản nhất để tạo
ra những chi tiết đặc trưng nhất của sản phẩm. Đây là khu vực mà theo nhận
định của các chuyên gia, cơ hội tham gia của doanh nghiệp phụ trợ nội địa
Việt Nam khơng có.
Tầng thứ hai là hệ thống phụ trợ hợp đồng, tức là doanh nghiệp sản xuất
ra linh phụ kiện để cung cấp theo các hợp đồng được kí kết giữa doanh nghiệp
và các công ty lắp ráp.
Tầng thứ ba là hệ thống phụ trợ thị trường, tức là doanh nghiệp sản xuất
ra linh phụ kiện để bán trên thị trường. Do đó các cơng ty lắp ráp có thể chọn
lựa bất cứ sản phẩm nào minh cần trên thị trường.
Với hai tầng này các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tham gia vào
chuỗi này. Việt Nam gia nhập WTO, hàng rào thuế quan được bãi bỏ hoặc
hạn chế đến mức tối thiểu và các chi tiết, linh phụ kiện cũng theo đó được
giảm thuế. Chi phí trở nên rẻ hơn, như vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa
phương càng gặp khó khăn khi cạnh tranh cung cấp các sản phẩm phụ trợ.
Hơn nữa, công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam còn hết sức giản đơn, quy mô nhỏ

lẻ chủ yếu sản xuất các linh kiện giản đơn, giá trị gia tăng thấp và có sự chênh
lệch về năng lực phụ trợ giữa các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam với các
yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu. Mặc dù vậy “Việt Nam vẫn có tiềm
năng lớn về phát triển cơng nghiệp phụ trợ, trong đó cơ bản dựa trên khả
năng tiếp thu công nghệ mới và sự khéo tay của những người thợ Việt Nam”
(ơng Tomoharu Washio, Phó chủ tịch Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật
Bản).

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

2.2. Theo các cấp hỗ trợ
Ngành cơng nghiệp phụ trợ Việt Nam có thể được chia thành 3 cấp hỗ
trợ:
Cấp I: là cấp tiến hành thiết kế, thử nghiệm và sản xuất hầu hết các bộ
phận chính cấu thành nên sản phẩm, kiểm tra động lực học và xuất xưởng.
Cấp II: là cấp có vai trị chế tạo các linh kiện, chi tiết cấu thành nên các
bộ phận do nhà cung cấp ở cấp I đặt hàng.
Cấp II: là cấp trực tiếp sản xuất các chi tiết, tạo phôi cho các nhà cung
cấp I, II từ vật liệu thơ.
Ta có thể biểu diễn các cấp hỗ trợ của các ngành công nghiệp phụ trợ
dưới dạng biểu đồ hình cá:
Hình 3: Biểu đồ hình cá về ngành công nghiệp phụ trợ

Da

Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3
Cấp 2

Cấp 2

Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3
Cấp 2
Cấp 2

Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3
Cấp 2
Cấp 2

Cấp 1

Cấp 1

Cấp 1

Đóng tàu

Điện tử

Ơ tơ
CƠNG NGHIỆP
VIỆT NAM

Cơng nghiệp nặng

Hố chất

Dệt may


Xe máy

Cấp 1

Cấp 1

Cấp 1

Cấp 2
Cấp 2
Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3

Cấp 2
Cấp 2
Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3

Cấp 2
Cấp 2
Cấp 3 Cấp 3 Cấp 3

Nguồn: Xây dựng năng lực công nghệ nội sinh
trong xây dựng công nghiệp phụ trợ (VDF)

3. Các giai đoạn phát triển và đặc điểm của công nghiệp phụ trợ

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


3.1. Đặc điểm của cơng nghiệp phụ trợ
Cơng nghiệp phụ trợ được hình thành và phát triển gắn với một ngành
hoặc phân ngành hoặc sản phẩm cơng nghiệp cụ thể nào đó và có nhiều tầng
tích hợp theo chiều dọc và chiều ngang.
Các ngành cơng nghiệp phụ trợ và cơng nghiệp chính có tác động qua lại
với nhau. Công nghiệp phụ trợ phát triển góp phần thúc đẩy những ngành
cơng nghiệp chính phát triển, ngược lại các ngành cơng nghiệp chính phát
triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ.
Công nghiệp phụ trợ xuất hiện chủ yếu ở các hình thức tổ chức sản xuất
kiểu thầu phụ/vệ tinh, trong mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất
và có tính hợp tác cao giữa các nhà sản xuất chính và các doanh nghiệp sản
xuất phụ trợ.
Các ngành cơng nghiệp phụ trợ khơng địi hỏi mức tập trung kỹ thuật cơ
bản sâu và cũng không sử dụng những kỹ thuật tích hợp phức tạp. Do đó,
những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường là những
doanh nghiệp vừa và nhỏ với mức độ chuyên môn hoá sâu, dải sản phẩm hẹp,
dễ thay đổi mẫu mã.
Các sản phẩm của cơng nghiệp phụ trợ có thể được sử dụng cho nhiều
ngành cơng nghiệp khác nhau. Ví dụ: cơng nghệ sử dụng trong ngành điện tử
có thể được áp dụng đối với các ngành sản xuất ô tô, xe máy, máy phát điện,
máy cơng nghiệp … Điều đó được thể hiện qua sơ đồ sau:

Hình 4: Các ngành cơng nghiệp phụ trợ cơ bản có thể được sử dụng cho

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nhiều ngành công nghiệp

Cơng nghiệp
đóng tàu

Cơng nghiệp
ơ tơ

Cơng nghiệp
xe máy

Cơng nghiệp
điện tử

Cơng nghiệp
điện/PC

Thị phần chung của các ngành công nghiệp phụ trợ (chế biến nhựa và cao su,
cắt kim loại, ép nhiệt khuôn, khuôn, khuôn đúc, mạ kim loại …)

Nhu cầu của các nhà lắp ráp
phụ kiện bằng nhựa, kim loại và các cơng cụ dụng cụ

Sự phát triển và sẵn có của các ngành công nghiệp sản xuất:
nguyên vật liệu
Nguồn: Xây dựng năng lực công nghệ nội sinh
trong xây dựng công nghiệp phụ trợ (VDF)

3.2. Các giai đoạn phát triển của công nghiệp phụ trợ
Để đánh giá sự phát triển của công nghiệp phụ trợ ở mỗi nước ta có thể
dựa vào sự liên quan giữa công nghiệp phụ trợ và doanh ngiệp FDI hoặc dựa
vào tỉ lệ nội địa hoá mà quốc gia đó đã đạt được. Từ đó, có thể chia q trình

phát triển của cơng nghiệp phụ trợ thành các giai đoạn khác nhau.
3.2.1. Dựa vào tỉ lệ nội địa hố
Dựa vào tỉ lệ nội địa hố ta có thể chia q trình phát triển cơng nghiệp
phụ trợ thành 5 giai đoạn:
Giai đoạn I: Tỉ lệ nội địa hoá gần như bằng 0, số lượng các nhà cung cấp
linh phụ kiện trong nước rất ít và chỉ cung cấp những sản phẩm giản đơn.
Việc sản xuất, lắp ráp được thực hiện dựa trên cơ sở nhập khẩu các bộ linh
kiện nguyên chiếc.
Giai đoạn II: Nội địa hoá chủ yếu thông qua sản xuất tại chỗ, tỉ lệ nội địa

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hố có tăng lên nhưng rất ít, số lượng các nhà sản xuất phụ trợ tăng, tuy nhiên
tính cạnh tranh khơng cao. Số lượng sản phẩm phụ trợ tăng lên nhưng chất
lượng không cao, chưa có khả năng cạnh tranh. Các nhà sản xuất lắp ráp
chuyển sang sử dụng nguyên liệu, phụ tùng được sản xuất trong nước.
Giai đoạn III: Tỉ lệ nội địa hoá được tăng lên đáng kể, xuất hiện các nhà
cung ứng sản phẩm phụ trợ chủ chốt có khả năng sản xuất các chi tiết, linh
kiện, phụ tùng có độ phức tạp cao, độc lập với các nhà lắp ráp. Khối lượng
sản phẩm phụ trợ nhập khẩu giảm, khối lượng sản phẩm công nghiệp phụ trợ
nội địa ngày một tăng và dặc biệt đã xuất hiện những sản phẩm độc đáo thoả
dụng phầm nào nhu cầu của các công nghiệp chính.
Giai đoạn IV: Tỉ lệ nội địa hố đạt mức cao, là giai đoạn tập trung các
ngành công nghiệp phụ trợ. Hầu hết các chi tiết, bộ phận, linh kiện, phụ tùng
được sản xuất trong nước. Số lượng các nhà sản xuất sản phẩm phụ trợ tăng
mạnh làm cho sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất sản phẩm phụ trợ trở nên
gay gắt, từ đó tạo ra động lực nâng cao chất lượng, hạ giá thành.

Giai đoạn V: là giai đoạn cuối cùng của quá trình nội địa hố, cịn được
gọi là giai đoạn nghiên cứu, phát triển và xuất khẩu sản phẩm. Năng lực
nghiên cứu và phát triển sản phẩm phụ trợ nội địa được củng cố và phát triển.
Các sản phẩm phụ trợ được sản xuất ra đạt tiêu chuẩn để phục vụ xuất khẩu.
Thực tế rất khó tách bạch từng giai đoạn vì giữa các giai đoạn đều làm
tiền đề và kế thừa lẫn nhau. Việc phân chia q trình phát triển cơng nghiệp
phụ trợ thành các giai đoạn có tác dụng hỗ trợ cho mỗi nước xác định được
chính xác vị trí của mình để từ đó có được hướng đi và các biện pháp phù
hợp, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên trong
quá trình hội nhập tồn cầu, khơng nên lấy nội địa hố 100% làm mục tiêu.
Yêu cầu về mức độ và nội dung nội địa hoá là khác nhau giữa các ngành.
Việc xác định đúng các đầu vào cần được nội địa hoá sẽ đẩy nhanh đáng kể

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

q trình cơng nghiệp hoá và ngược lại.
3.2.2. Dựa vào mối quan hệ giữa công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp
FDI
Công nghiệp phụ trợ và FDI có mối quan hệ tương hỗ. Cơng nghiệp phụ
trợ phải phát triển mới thu hút FDI, nhất là FDI trong các ngành sản xuất các
loại máy móc. Cũng có trường hợp FDI đi trước và lơi kéo các công ty khác
đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ. Dựa vào mối quan hệ giữa công nghiệp
phụ trợ và doanh nghiệp FDI, q trình phát triển cơng nghiệp phụ trợ có thể
chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: Trước khi FDI vào đã có nhiều cơng ty trong nước sản xuất
sản phẩm phụ trợ cung cấp cho các cơng ty lắp ráp, sản xuất sản phẩm chính
cho thị trường nội địa. Khi có FDI, một bộ phận các công ty sản xuất công

nghiệp phụ trợ được tham gia vào mạng lưới chuyển giao công nghệ của các
doanh nghiệp FDI sẽ phát triển mạnh hơn.
Giai đoạn II: Đồng thời với sự gia tăng của FDI, nhiều doanh nghiệp
bản xứ ra đời trong các ngành công nghiệp phụ trợ chủ yếu để phục vụ cho
hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Những doanh nghiệp sớm hình thành sự
liên kết với doanh nghiệp FDI sẽ được chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển
nhanh.
Giai đoạn III: Sau một thời gian hoạt động của doanh nghiệp FDI với
sản lượng sản xuất ngày càng tăng, tạo ra thị trường ngày càng lớn cho công
nghiệp phụ trợ, các công ty vừa và nhỏ ở nước ngồi sẽ đến đầu tư. Từ đó
hình thành nên một hệ thống công nghiệp phụ trợ phát triển mạnh.
Như vậy, công nghiệp phụ trợ của một nước sẽ phát triển được khi các
công ty trong nước ở giai đoạn I ngày càng được cải tiến cơng nghệ và trình
độ quản lý để cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ cạnh tranh được với
hàng nhập khẩu và chính phủ có chiến lược, chính sách để thúc đẩy các doanh

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nghiệp ở giai đoạn II ra đời, đồng thời tạo điều kiện, môi trường để các cơng
ty vừa và nhỏ nước ngồi đến đầu tư trong giai đoạn III.
II.

Sự cần thiết của công nghiệp phụ trợ của ngành ô tô

1. Phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu
cơng nghiệp hố.
Ngồi hiệu quả tạo nhiều cơng ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa,

công nghiệp phụ trợ đóng vai trị rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh
của sản phẩm cơng nghiệp chính và đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố theo
hướng vừa mở rộng vừa thâm sâu.
Cơng nghiệp hố là q trình phát triển kinh tế, trong đó một bộ phận
nguồn lực ngày càng tăng của đất nước được huy động để xây dựng cơ cấu
kinh tế đa ngành, với kỹ thuật hiện đại, để sản xuất tư liệu sản xuất và hàng
tiêu dùng có khả năng đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao cho toàn bộ nền kinh tế
và đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế - xã hội (UNIDO). Để đạt có được một nền
kinh tế tăng trưởng cao nhằm thực hiện được mục tiêu cơng nghiệp hố thì
cần thiết phải sản xuất ra những sản phẩm có sức cạnh tranh với các quốc gia
trong khu vực đặc biệt là với Trung Quốc, điều đó địi hỏi chúng ta phải phát
huy thế mạnh và các lợi thế so sánh, tận dụng mọi cơ hội của thời đại để tạo
động lực cho công nghiệp hố. Phát triển cơng nghiệp phụ trợ là một biện
pháp cần thiết để giảm phí tổn chuyên chở, chi phí bảo hiểm … từ đó làm
giảm giá thành sản xuất, giúp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Việt
Nam trong khu vực.
Công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và
những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng phải phụ thuộc vào nhập khẩu.
Dù những sản phẩm này được cung cấp giá rẻ ở nước ngồi nhưng vì phải tốn
thêm chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bản hiểm nên vẫn làm tăng chi phí đầu vào.
Đó là chưa nói đến những rủi ro về tiến độ, thời gian nhập khẩu hàng. Vì thế,

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

công nghiệp phụ trợ khơng phát triển thì các ngành cơng nghiệp chính sẽ
thiếu sức cạnh tranh và phạm vi kinh doanh bị giới hạn trong một số ít ngành.
Nói tóm lại, cơng nghiệp phụ trợ được ví như chân núi, tạo phần cứng để

hình thành nên thân núi và đỉnh núi chính là ngành công nghiệp sản xuất và
lắp ráp sản phẩm công nghiệp. Thông thường ngành công nghiệp phụ trợ phát
triển trước làm cơ sở để ngành cơng nghiệp chính yếu phát triển.
Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO, vì vậy các sản phẩm trong nước
ngày càng phải nâng cao sức cạnh tranh để không bị sản phẩm nhập ngoại
“lấn sân”. Để có thể nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm đặc biệt là
các sản phẩm lắp ráp thì phát triển cơng nghiệp phụ trợ là một trong những
yếu tố mang tính quyết định.
Việt Nam đồng thời cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh của các nước
trong khu vực trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngồi, đối phó với sự tràn
ngập của hàng hố Trung Quốc và áp lực hội nhập quốc tế. Để giải quyết các
vấn đề này thì cơng nghiệp phụ trợ là một biện pháp cần thiết.
Vai trị khơng thể thiếu của cơng nghiệp phụ trợ trong q trình cơng
nghiệp hố đất nước đã khiến sự phát triển công nghiệp phụ trợ trở thành một
trong những tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển cơng nghiệp của một
nước. Ngồi ra cịn có năng lực cơng nghệ và quản lý; năng lực đổi mới, theo
mức độ khó tăng dần.
2. Phát triển cơng nghiệp phụ trợ để tăng tỉ lệ nội địa hoá
Như đã phân tích ở trên, các doanh nghiệp muốn nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm của mình trên thị trường thì cần phải hạn chế tối thiểu các
chi phí đầu vào có thể phát sinh. Vậy làm thế nào để có thể giảm được những
chi phí này? Câu trả lời là phải hạn chế các sản phẩm phụ trợ nhập khẩu để
giảm chi phí lưu kho, bốc dỡ, vận chuyển … Muốn vậy thì các ngun liệu
thơ, các ngun liệu đã qua chế biến, các bộ phận và các hợp phần, nguyên

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


liệu đóng gói và các nguyên vật liệu khác từ nhà cung cấp nội địa, điều đó
đồng nghĩa với việc phải phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ trong
nước.
Tuy nhiên, tỉ lệ nội địa hố 100% khơng phải là tối ưu. Ngay cả trong
trường hợp công nghiệp sản xuất ô tô Thái Lan với tổng lượng FDI lớn nhất
Đông Nam Á, tỷ lệ phụ tùng nhập khẩu là 30%, tỉ lệ phụ tùng sản xuất trong
nước là 70%. Đối với phụ tùng sản xuất trong nước 45% do các công ty FDI
cung cấp và 25% do các công ty nội địa sản xuất.(1) Một tỉ lệ nội địa hoá hợp
lý sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí từ đó tăng khả năng cạnh tranh.
Dưới đây là một mơ hình giả định về vai trị của cơng nghiệp phụ trợ
trong việc tăng tỉ lệ nội địa hố, tương ứng với nó là từng giai đoạn phát triển
của cơng nghiệp hố. Tại giai đoạn 1, phần lớn đầu vào được nhập khẩu từ
nước ngoài, trong nước khơng có các ngành cơng nghiệp phụ trợ. Tại giai
đoạn 2, khi việc lắp ráp nội địa đạt mức đủ lớn, các ngành công nghiệp phụ
trợ sẽ phát triển, tuy nhiên tính cạnh tranh vẫn cịn yếu, việc sản xuất vẫn phụ
thuộc vào công nghệ và quản lý nước ngoài. Tại giai đoạn 3, khả năng quản lý
và cơng nghệ được nội địa hố và sự lệ thuộc vào nước ngồi giảm đáng kể.
Hình 5: Mơ hình giả định về tăng tỷ lệ nội địa hoá
Nhập khẩu

Nhập khẩu

Nhập khẩu
FDI

FDI
Nội địa
SX nội vi

Nội địa

SX nội vi

Bắt đầu
Sau một vài năm
Sau nhiều năm
(Khơng cạnh tranh)
(Cạnh tranh yếu)
(Cạnh tranh)
Nguồn: Hồn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam - VDF

3. Xuất phát từ yêu cầu và đặc điểm của ngành ô tô

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Ngành ô tô với đặc điểm là luôn yêu cầu sử dụng một khối lượng chi tiết
và phụ tùng lớn, một chiếc xe ơ tơ có từ 20.000-30.000 chi tiết. Ví dụ: để tạo
ra một chiếc ô tô nhà sản xuất cần rất nhiều linh kiện như động cơ, hệ thống
đèn, điện, ghế, kính, bánh và ruột xe, chi tiết nhựa nội ngoại thất … Có cả
ngàn linh kiện và phụ tùng cần thiết để lắp ráp thành một chiếc ô tô. Thông
thường các nhà sản xuất khơng tự mình cung ứng tất cả các chi tiết đó, thay
vào đó họ phải thuê gia cơng ở bên ngồi từ các nhà cung cấp địa phương
những phần hay công đoạn không cần thiết. Do đó để sản xuất ra một chiếc ơ
tơ u cầu phải có tới hàng ngàn nhà cung cấp linh phụ kiện. Các hãng ơ tơ,
ngay tại chính hãng cũng chỉ sản xuất chiều sâu được 36-45% các chi tiết của
một chiếc xe, phần còn lại là do các nhà sản xuất linh phụ kiện cung cấp.
Một đặc điểm nữa của ngành ô tô cũng khiến cho các nhà sản xuất lắp
ráp ơ tơ ln phải tìm kiếm các nhà cung cấp linh phụ kiện ở bên ngồi đó là

do vốn đầu tư trong ngành công nghiệp ô tô rất cao. Đồng thời, ngành ơ tơ
cũng là ngành cơ khí chính xác địi hỏi độ an tồn, chất lượng, kỹ thuật cao.
Ví dụ: dây belt trong xe ơ tơ giá trị chỉ từ 3-6 USD, nhưng nếu bị hư thì làm
hư nguyên cả máy ô tô (engine), … nên những nhà sản xuất ơ tơ có thương
hiệu chỉ mua những linh kiện mà họ tin tưởng vào chất lượng để không ảnh
hưởng đến thương hiệu của họ.
Đặc biệt đối với ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, đây là ngành luôn
luôn được ưu đãi nhất trong số các ngành công nghiệp, tuy nhiên hơn 10 năm
qua vẫn dẫm chân tại chỗ. Nguyên nhân làm cho ngành công nghiệp ô tô Việt
Nam không phát triển được và giá bán xe trong nước cao hơn nhiều so với xe
trong khu vực là do ngành công nghiệp sản xuất linh kiện phụ trợ cho ngành ơ
tơ ở Việt Nam vẫn cịn kém phát triển. Do đó, để đảm bảo cho ngành cơng
nghiệp ơ tơ Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực thì
phát triển cơng nghiệp phụ trợ ngành ô tô là điều cần thiết phải làm.

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

4. Phát triển công nghiệp phụ trợ để thu hút vốn đầu tư
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) có vai trị rất quan trọng trong sự
phát triển cơng nghiệp Dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi khơng những
giúp chúng ta giải quyết được vấn đề thiếu vốn đầu tư mà cịn có tác dụng giả
quyết việc làm, mở rộng các mặt hàng trên thị trường … Bên cạnh đó, khi các
doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ thúc đẩy chuyển giao công
nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến … cho Việt Nam. Vì vậy, nhà nước ln có
những biện pháp cần thiết để thu hút nguồn vốn này vào đầu tư tại Việt Nam
để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.
Đối với các công ty nước ngoài đầu tư vào các ngành sản xuất các loại

máy móc, tỷ lệ nội địa hố càng cao càng có lợi. Trên thực tế, phí tổn về linh
kiện, bộ phận và các sản phẩm trung gian trong những sản phẩm thuộc các
ngành sản xuất máy móc chiếm tới hơn 80% giá thành, lao động chỉ chiếm từ
5 đến 10%, do đó khả năng nội địa hố có tính chất quyết định đến thành quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt
Nam ln muốn tăng tỷ lệ nội địa hố để giảm giá thành sản xuất. Có thể thấy
trong cấu thành của sản phẩm cơng nghiệp, tỷ lệ của chi phí về cơng nghiệp
phụ trợ cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về
lao động nhưng công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho môi trường
đầu tư kém hấp dẫn.
Như vậy, giữa FDI và cơng nghiệp phụ trợ ln có mối quan hệ tương hỗ
với nhau. Do đó, muốn thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngồi vào Việt
Nam thì hệ thống công nghiệp phụ trợ trong nước phải đi trước một bước, tạo
nền tảng cơ sở hạ tầng để cung cấp các đầu vào cần thiết cho ngành công
nghiệp lắp ráp.
Tuy nhiên ở Việt Nam do công nghiệp phụ trợ vẫn còn non yếu và nhiều
hạn chế nên các doanh nghiệp FDI rất khó tìm được nguồn cung cấp cơng

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nghiệp phụ trợ đáng tin cậy, điều đó đã hạn chế rất nhiều cơ hội thu hút đầu tư
nước ngoài để phát triển nền kinh tế. Nhất là đối với ngành công nghiệp sản
xuất và lắp ráp ơ tơ thì phát triển cơng nghiệp phụ trợ là điều khơng thể thiếu
để có thể thu hút được nguồn vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực này.
III. Những yếu tố cần thiết để phát triển công nghiệp phụ trợ ngành ô

1. Dung lượng thị trường đủ lớn

Như đã phân tích ở trên, cơng nghiệp phụ trợ là ngành thường đòi hỏi
vốn đầu tư lớn hơn so với công nghiệp lắp ráp. Tỉ lệ vốn đầu tư trong công
nghiệp phụ trợ chiếm tới gần 80%, nhất là trong các ngành công nghiệp phụ
trợ như tạo khuôn mẫu, gia cơng kim loại, ép nhựa … thường địi hỏi phải đầu
tư nhiều máy móc đắt tiền – các thiết bị sản xuất không thể chia nhỏ thành
nhiều phần và khơng địi hỏi nhiều về cơng nhân. Do vậy, các doanh nghiệp
phụ trợ luôn phải nỗ lực giảm chi phí vốn đơn vị bằng cách tăng sản lượng
đầu ra do chi phí vốn đơn vị sẽ tỉ lệ nghịch với sản lượng sản phẩm đầu ra,
nghĩa là số lượng sản phẩm đầu ra càng lớn thì chi phí càng giảm (hiệu quả
sản xuất theo qui mô). Sự gia tăng này chỉ có thể được đảm bảo bằng một
lượng cầu lớn. Đây chính là lý do mà các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ
luôn cần phải đảm bảo dung lượng thị trường đủ lớn. Ta có thể thấy được điều
này qua biểu đồ sau:

Hình 6: Giảm chi phí đơn vị trong công nghiệp phụ trợ

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chi phí
đơn vị

Sử dụng nhiều vốn

Sử dụng nhiều lao động

Sản lượng
Nguồn: Xây dựng cơng nghiệp phụ trợ tại Việt Nam - VDF


Có thể nói dung lượng thị trường lớn đóng vai trị rất quan trọng đối với
cơng nghiệp phụ trợ vì ngành này ln địi hỏi phải có lượng đặt hàng tối
thiểu tương đối lớn thì mới có thể tham gia vào thị trường. Do đó để các
ngành cơng nghiệp phụ trợ có thể phát triển hiệu quả thì cần phải đảm bảo
dung lượng thị trường đủ lớn hoặc thị trường sẽ phát triển, dung lượng thị
trường sẽ lớn trong tương lai.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cơng nghiệp phụ trợ
ngành ơ tơ do bất kì một chi tiết hay bộ phận nào được sản xuất cũng đều địi
hỏi một lượng vốn lớn. Vì thế các doanh nghiệp khi đầu tư vào đây luôn xem
xét rất kĩ trước khi đầu tư. Để có thể thu hút được các nhà đầu tư vào ngành
này thì nhất thiết phải tạo ra được một thị trường tiêu thụ lớn.
2. Nguồn nhân lực có kỹ năng
Nguồn nhân lực có kỹ năng là yếu tố quyết định thứ hai tới sự phát triển
của công nghiệp phụ trợ sau dung lượng thị trường. Theo quan điểm của hầu

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hết các nhà đầu tư nước ngồi thì nguồn nhân lực cịn quan trọng hơn nhiều
máy móc hiện đại, một cơng nhân có trình độ cao vận hành máy móc cũ cịn
hiệu quả hơn cơng nhân khơng có trình độ vận hành máy mới. Đối với Việt
Nam thì nguồn nhân lực có kỹ năng là nhân tố cần thiết để nước ta có thể
“phá vỡ trần thuỷ tinh”, đưa nền kinh tế có thể đuổi kịp và vượt lên mức mà
Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc … đã đạt được. Tuỳ theo quy trình sản xuất
nguồn nhân lực chất lượng cao có thể được chia thành: kỹ sư dây chuyền sản
xuất, kỹ sư khuôn mẫu giàu kinh nghiệm, cơng nhân lắp ráp trình độ cao.
 Kỹ sư quản lý dây chuyền sản xuất: đây là những người lao động đa

kỹ năng, có khả năng quản lý và cải tiến tồn bộ quy trình sản xuất của
một nhà máy.
 Kỹ sư khuôn mẫu giàu kinh nghiệm: là những người thiết kế, sản xuất
và điều chỉnh những sản phẩm khuôn mẫu, tay nghề của họ đã đạt đến độ
hồn hảo và có thể cảm nhận những khác biệt đến từng milimét đối với
các sản phẩm.
 Công nhân lắp ráp trình độ cao:là những người có thể tự mình lắp ráp
hồn chỉnh tồn bộ sản phẩm, do đó họ rất thơng hiểu từng chi tiết trong
mỗi sản phẩm và có thể gợi ý để cải thiện từng chi tiết trong sản phẩm
đó.
Có thể nói nguồn nhân lực chất lượng cao là tiền đề cho phương thức sản
xuất tích hợp. Trong q trình sản xuất tích hợp, các linh kiện được thiết kế
đặc trưng cho từng sản phẩm và liên tục được cải tiến nhằm đạt đến chuẩn
mực cao hơn. Sản xuất công nghiệp phụ trợ là một khâu khơng thể thiếu trong
q trình này, vì thế mà nguồn nhân lực có kỹ năng cao là một yếu tố cần
thiết để phát triển công nghiệp phụ trợ.
3. Xây dựng được những liên kết trong chuỗi giá trị của ngành ơ tơ
Trong xu thế đẩy mạnh tồn cầu hố kinh tế và bước chuyển sang kinh tế tri

Lê Thị Ngọc Lan - Lớp KH46B



×