Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Văn Hóa Trung Quốc ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.23 KB, 6 trang )

Văn Hóa Trung Quốc


Tại Trung Quốc, kể từ năm 1949 dưới sự điều hành
của chính phủ Cộng Sản luôn muốn khuếch trương
chủ nghĩa vô thần nên dân số của các tôn giáo không
xác dịnh rõ ràng. Nhưng trên thực tế từ nhiều nguồn
nghiên cứu về văn hóa và tôn giáo Trung Hoa thì đại
đa số người dân vẫn còn giữ phong tục thờ cúng tổ
tiên do ảnh hưởng của Khổng Giáo, cũng như kết
hợp với Phật Giáo và Đạo Giáo trở thành "Tam giáo
đồng nguyên" (hoặc "Tôn giáo cổ truyền Trung Hoa"
mà Phật Giáo Đại Thừa giữ vai trò chính), số còn lại
theo những tôn giáo chính sau với tỉ lệ chỉ mang tính
ước lượng có thể không chính xác:
 Lão giáo: xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác
biệt và khó phân ranh rõ ràng với những tôn giáo
khác nên người ta không nắm rõ số người theo. Theo
các tài liệu gần đây nhất thì có khoảng 400 triệu
người (30% tổng dân số) theo Đạo Giáo.
 Phật giáo: khoảng 8% (quy y Tam Bảo), bắt đầu
du nhập vào Trung Quốc khoảng từ thế kỷ thứ nhất
Công nguyên. Số người theo chủ yếu là Đại thừa,
còn Tiểu thừa thì không đáng kể. Ngoài ra, còn có
những người theo Phật giáo Tây Tạng, chủ yếu tại
Tây Tạng và Nội Mông Cổ. Con số thực của số lượng
Phật tử trên danh nghĩa có thể đạt trên 660 triệu đến
1 tỷ người (50% - 80%). Nhờ vậy mà Trung Quốc
đương nhiên trở thành quốc gia Phật Giáo đông dân
nhất, theo sau là Nhật Bản và Việt Nam, chiếm
khoảng 2/3 trong tổng số 1,5 tỷ người theo Phật Giáo


trên khắp Thế Giới. Lưu ý là đa số người gốc Hán
thường tôn thờ Phật Giáo cùng chung với các tôn
giáo truyền thống Trung Hoa khác (như Đạo Giáo hay
Khổng Giáo).
 Cơ Đốc giáo: khoảng 1 đến 4% tùy nguồn, một
số nhánh của đạo này được truyền rải rác vào Trung
Quốc thành nhiều đợt bắt đầu từ thế kỷ thứ 8. Ngoài
ra còn có những người Trung Quốc gốc Nga ở phía
bắc và tây bắc Trung Quốc theo Chính Thống giáo
với số lượng tương đối nhỏ.
 Nho giáo: không rõ số người theo, đây là tôn
giáo xuất phát từ Khổng Tử mà các triều đại Trung
Quốc cố gắng truyền bá theo chiều hướng có lợi cho
chính quyền, tuy nhiên theo nhiều học giả thì bản
chất của nó không phải như vậy.
 Hồi giáo: 1% đến 2%, có ở Tân Cương và các
vùng có người dân tộc thiểu số theo Hồi Giáo sinh
sống rải rác. Đạo này phát triển mạnh vào thời nhà
Nguyên (1271-1368).
 Tôn giáo cổ truyền Trung Quốc: tôn giáo đa thần
của phần lớn dân Trung Quốc trước năm 1949, là
kiểu tín ngưỡng pha trộn giữa một số trường phái
Đạo giáo và Phật giáo và các tín ngưỡng khác.
Ngoài ra còn có Pháp Luân Công là một phương
pháp tập luyện tinh thần rất phổ biến tại Trung Quốc
trong thập niên 90 tuy nhiên đã bị ĐCSTQ đàn áp vào
năm 1999. Theo thống kê của chính phủ có khoảng
70-100 triệu người.
Nghệ thuật, học thuật, và văn học
Người Trung Quốc cũng chế ra nhiều nhạc cụ, như

cổ tranh (), sáo, và nhị hồ (), và được phổ biến
khắp Đông và Đông Nam Á, đặc biệt những vùng
trong phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc. Sanh là
một thành phần cơ bản trong các loại nhạc cụ có
giăm kèm tự do (free-reed instrument) phương Tây.
Chữ Trung Quốc có nhiều biến thể và cách viết trong
suốt lịch sử Trung Quốc, và đến giữa thế kỷ 20 được
"giản thể hóa" tại đại lục Trung Quốc. Thư pháp là
loại hình nghệ thuật chính tại Trung Quốc, được
nhiều người xem là trên cả hội họa và âm nhạc. Vì
thường gắn với chủ nhân là những quan lại-học giả
ưu tú, nên những tác phẩm thư pháp sau đó đã được
thương mại hóa, trong đó những tác phẩm của các
nghệ sỹ nổi tiếng được đánh giá cao.
Trung Quốc có nhiều phong cảnh đẹp và là nguồn
cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm lớn của nghệ thuật
Trung Quốc. Xem chi tiết trong bài Hội họa Trung
Quốc.
Thư pháp, sushi và bonsai đều là những loại hình
nghệ thuật có độ tuổi hàng nghìn năm đã được phổ
biến sang Nhật Bản và Triều Tiên.
Trong hàng thế kỷ, sự tiến bộ kinh tế và xã hội Trung
Quốc có được là nhờ chất lượng cao của khoa cử
phong kiến. Điều này dẫn tới chế độ lựa chọn nhân
tài, mặc dù trên thực tế chỉ có đàn ông và những
người có cuộc sống tương đối mới có thể tham dự
các kỳ thi này, cũng như đòi hỏi một sự học hành
chuyên cần. Đây là hệ thống khác hẳn so với hệ
thống quý tộc theo dòng máu ở phương Tây. Các kỳ
thi này đòi hỏi các thí sinh phải viết các bài luận cũng

như chứng minh khả năng thông hiểu các sách vở
kinh điển của Nho giáo. Những người vượt qua được
kỳ thi cao nhất trở thành các quan lại-học giả ưu tú
gọi các các tiến sĩ (). Học vị tiến sĩ có vị trí kinh tế-
chính trị rất được coi trọng tại Trung Quốc và các
nước xung quanh. Và tệ nạn sùng bái học vị của các
nước vùng Đông Á vẫn còn cho đến ngày nay.
Văn học Trung Quốc đã có một lịch sử phát triển lâu
dài do kỹ thuật in ấn có từ thời nhà Tống. Trước đó,
các cổ thư và sách về tôn giáo và y học chủ yếu
được viết bằng bút lông (trước đó nữa thì viết trên
giáp cốt hay trên giấy tre) rồi phát hành. Hàng chục
nghìn văn thư cổ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, từ
các văn bản bằng chữ giáp cốt tới các chỉ dụ nhà
Thanh, được phát hiện mỗi ngày.
Các triết gia, tác gia và thi sĩ Trung Quốc phần lớn rất
được coi trọng và có vai trò quan trọng trong việc duy
trì và phổ biến văn hóa của Trung Quốc. Một số học
giả khác, cũng được ghi nhận vì dám xả thân cho
quyền lợi quần chúng cho dù có trái với ý của chính
quyền. (Xem Danh sách các tác gia Trung Quốc, và
Danh sách các nhà thơ Trung Quốc).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×