Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Giao lưu văn hóa ở Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hoá - Bước ngoặt về chất.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.64 KB, 44 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỞ ĐẦU
Giao lưu (tiếp biến) văn hoá là phương thức tồn tại của mọi nền văn hoá; là quy luật
tồn tại và phát triển của mọi nền văn hoá từ trước đến nay. Tuy nhiên, giao lưu văn hoá
cũng có thể là điều ngược lại, những nền văn hoá "sức đề kháng" yếu có thể bị đồng hoá,
mất đi bản sắc của mình thông qua giao lưu và tiếp biến với những nền văn hoá lớn hơn.
Nhất là khi toàn cầu hoá đang mở rộng phổ giao lưu cũng như tạo ra các phương tiện giao
lưu giúp các chủ thể văn hoá khắc phục được trở ngại về không gian và thời gian vật lý, từ
đó dẫn đến những biến đổi lớn lao trong bản thân mỗi nền văn hoá.
Ngày nay trong thời đại toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc giữa các cộng đồng người trên
thế giới ngày một gia tăng trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội. Trong đó sự
hiện diện của xu hướng toàn cầu hoá văn hoá là một tất yếu, có những tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của cộng đồng người trên thế giới. Cùng với những thay đổi mang tính
cách mạng trong khoa học công nghệ, thì sự giao lưu, mức độ tác động qua lại giữa các nền
văn hoá đã thay đổi về chất.
Giao lưu văn hoá ở Việt Nam trong điều kiện toàn cầu dẫn tới các chuẩn mực đạo
đức, luân lý, thẩm mỹ, quan niệm về phẩm hạnh v.v.. của dân tộc đang nếm trải những đảo
lộn trước những đòi hỏi của toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập quốc tế.
Trong thời đại toàn cầu hoá, bản sắc văn hoá dân tộc đang đứng trước những cơ hội
và thách thức. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề về : “ Giao lưu văn hóa ở Việt Nam trong điều
kiện toàn cầu hoá - Bước ngoặt về chất” giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn về toàn cầu
hoá văn hoá, từ đó, chủ động giao lưu và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hoá; giúp
chúng ta tiếp nhận những giá trị của phương Tây cũng như các nền văn hoá khác để làm
giàu cho nền văn hoá dân tộc; đồng thời bảo vệ và phát huy được truyền thống, lối sống
Việt Nam.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
NỘI DUNG
I. VĂN HOÁ VÀ GIAO LƯU VĂN HOÁ
1. Khái niệm văn hoá
Văn hóa, nói một cách giản dị, là những gì còn lại sau những chu trình lịch sử khác


nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với nhau. Thông qua mỗi một chu
kỳ của sự phát triển, dân tộc đó tương tác với mình và với những dân tộc khác, cái còn lại
được gọi là bản sắc, hay còn gọi là văn hóa.
Khái niệm văn hoá như Cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor "Văn hóa
phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá
nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua
hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối
sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình".
Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời
sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu
văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng nếu xem xét kỹ thì lại có
những điểm riêng biệt. Trong thực tế, không có sự giống nhau tuyệt đối
Có nhiều cách hiểu khái niệm “văn hoá” với nội dung khác nhau, song quan trọng hơn
cả là những điểm sau: văn hoá phải là các giá trị; những giá trị đó phải do con người sáng
tạo (phân biệt với cái tự nhiên); sự sáng tạo đó là cả một quá trình lịch sử liên tục; và những
giá trị đó phải làm thành một hệ thống chặt chẽ.
Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín
ngưỡng. “Văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm
cho con người trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện mình, tự ý thức được
bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công
trình vượt trội lên bản thân”
1
.

Từ định nghĩa trên, có thể thấy, văn hoá là cái đặc trưng chỉ có ở con người xã hội,
mà không phải ở cá thể người tự nhiên – homosapiens. Chính sự hợp quần thành xã hội của
các cá thể người – mới là nền tảng đích thực của văn hoá. Bản chất của con người có quan
hệ mật thiết với hoạt động và quan hệ chặt chẽ với giao lưu.
Gần đây, có ý kiến cho rằng trên thế giới đang diễn ra hiện tượng xâm lược về văn
hóa như là sự tiếp tục của những cuộc xâm lược bằng súng đạn và kinh tế. Tuy nhiên văn
hóa là hoà bình, văn hóa là không xâm lược. Cảm giác bị xâm lược, nếu có, chẳng qua là
cái cảm giác và sĩ diện của kẻ yếu. Chúng ta đang sống trong một thế giới duy nhất và cũng
có thể nói là thống nhất. Trái đất là một kho chứa hữu hạn các nguồn năng lượng sống và
toàn cầu hóa là một quá trình để tiết kiệm nguồn năng lượng ấy bằng cách đảm bảo không
sản xuất thừa, không sử dụng nguyên liệu một cách bừa bãi trên phạm vi toàn cầu. Nhưng
cùng với quá trình hội nhập về mặt kinh tế còn có một quá trình khác luôn luôn tồn tại bên
cạnh, và thậm chí đã đi trước, đó là sự hội nhập về mặt văn hóa. Sự hội nhập về mặt văn
hóa chính là quá trình con người đi tìm ngôn ngữ chung cho một cuộc sống chung. Quan
niệm về sự xâm lược văn hóa là quan niệm của những cộng đồng người chỉ có kinh nghiệm
hình thành trong quan hệ phát triển lưỡng cực, những kinh nghiệm chiến tranh, nhất là
chiến tranh lạnh. Con người khi sống chung với nhau sẽ gây ảnh hưởng lẫn nhau. Đến
phương Tây ta sẽ nhìn thấy rằng trong ngôi nhà nào của người Mỹ, người Anh, người
Pháp...cũng có một vài vật dụng gì đó, một vài thứ đồ lưu niệm gì đó từ phương Đông. Đôi
khi trong xã hội phương Tây người ta có xu hướng xem sự hiện hữu của một vài kỷ vật,
một vài đồ trang trí từ phương Đông như là dấu hiệu của tầng lớp thượng lưu hoặc văn
minh. Đó là sự đan xen lẫn nhau của cuộc sống, đấy là sự chung sống hoà bình của quá
khứ, và đấy cũng chính là cơ sở văn hóa của sự chung sống hoà bình trong tương lai.
2. Văn hóa và văn minh
Hai khái niệm rất hay bị đồng nhất này tuy rất gần gũi nhưng thực ra không phải là
một và chỉ có thể coi như đồng nghĩa trong một vài trường hợp cụ thể, chẳng hạn khi người
ta đối lập văn minh với bạo tàn.
Thông thường, văn minh được dùng để chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần
của nhân loại đến một thời kỳ lịch sử nào đó. Một số nhà nghiên cứu, chẳng hạn Alvin
1

Tuyên bố về những chính sách văn hoá - Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ 26/7 đến 6/8/1982 tại
Mehico; Sách: “Cơ sở văn hoá Việt Nam”, Trần Quốc Vượng (chủ biên). Nxb Giáo dục.1997. tr.17
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tomer, sử dụng chúng để phân chia lịch sử thành văn minh tiền nông nghiệp, văn minh
nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Có quan điểm lại cho
rằng văn minh là một khái niệm rộng hơn văn hóa, rằng văn minh là sự tổng hoà của văn
hóa và xã hội, là sự thể hiện được những hình thức thực tiễn cụ thể của văn hóa trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống như lao động sản xuất, lối sống, hành vi ứng xử...
Trong thực tế, chúng ta thấy có những tộc người chưa có văn minh vẫn có văn hóa
của mình. Đôi khi trên sách báo, chúng ta gặp những nhận xét, đánh giá độ cao thấp của các
nền văn minh, trong khi đó lại có những người cho rằng các nền văn hóa thực ra là như
nhau, rằng việc chúng ta đánh giá cái này cao hơn, cái kia mạnh hơn là do cách nhìn của
chúng ta, còn các nền văn minh, như nền văn hóa ở Aztec chẳng hạn, từ cách đây mấy
nghìn năm cũng không kém gì nền văn minh ở phương Tây hiện nay...
Tất cả những nhà nghiên cứu về văn hóa đang lấy cái mẫu của thời xưa, khi chỉ cần
sự ngăn cách về địa lý là đủ để ngăn cách các cộng đồng người. Nhân loại hiện đại, bằng
các phương tiện của mình, không còn bị giam hãm bởi các khái niệm khu trú như vậy. Nếu
như các nhà nghiên cứu văn hóa của thế kỷ XXII mà vẫn lấy hình mẫu của thế kỷ XX để
noi theo thì chắc chắn cũng vẫn đi đến những kết luận khác với những kết luận của những
nhà nghiên cứu văn hóa của thế kỷ XX.
Chúng ta phải phân biệt nghiên cứu về văn hóa như một quá trình vận động, như một
yếu tố xã hội, với nghiên cứu lịch sử văn hóa, nghĩa là xem xét nó như một phiên bản tĩnh.
Chúng ta cũng không nên phê phán những người lấy sự phát hiện và phân biệt những khía
cạnh khác nhau của các nền văn minh làm mục đích nghiên cứu. Bởi vì họ nghiên cứu lịch
sử văn hóa chứ không phải nghiên cứu văn hóa. Văn hóa đang và sẽ còn bớt dần sự cát cứ,
còn nghiên cứu lịch sử văn hóa thì không bao giờ có sự cát cứ như vậy. Nói như vậy không
có nghĩa là không có sự khác nhau về ảnh hưởng. Một cộng đồng lớn sẽ có khả năng tạo ra
một vùng ảnh hưởng lớn hơn, đa dạng hơn, bởi càng đông thì tính đa dạng càng lớn. Tính
đa dạng về mặt tính cách của con người sẽ tạo ra tính đa dạng về mặt đời sống văn hóa. Sự

lan toả của một cộng đồng lớn sẽ mạnh hơn.
Tuy vậy, khi nghiên cứu văn hóa không nên đặt mục tiêu là xác định nó lớn hay bé,
mà nên xem nó có độc đáo hay không, có lạ lẫm hay không, có những sáng tạo gì, có đóng
góp gì và đặc biệt là nó có đóng góp gì cho văn hóa chung của nhân loại, nghiên cứu như
thế mới giúp ta tìm ra được giá trị thật của văn hóa.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
Cách phân chia văn hóa thành hai lĩnh vực: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần là
không thật hợp lý và thấu đáo. Nó phản ánh lối tư duy lưỡng phân điển hình, ảnh hưởng
của những định kiến về tư tưởng cần phải xoá bỏ.
Thực ra, lối phân chia như thế cũng có tác dụng nào đó. Nó cho ta một cái nhìn tuy
khá thô thiển nhưng bao quát về những lĩnh vực đời sống của con người: những sản phẩm
tinh thần như khoa học, văn học nghệ thuật, các phong tục tập quán...và những sản phẩm
vật chất như đồ đạc, nhà cửa, đường xá...Tuy nhiên, thật khó, và ngày càng khó phân biệt
rạch ròi đâu là sản phẩm vật chất, đâu là sản phẩm tinh thần. Mặt khác, không có sản phẩm
tinh thần nào lại không được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định và cũng như
không có một sản phẩm vật chất nào lại không mang trong nó những giá trị tinh thần. Thật
vậy, những nhà cửa, đường phố, cầu cống, và ngay cả những vật dụng tầm thường nhất, kể
cả những sản phẩm công nghiệp sản xuất hàng loạt, cũng là hiện thân của những giá trị văn
hóa, thể hiện bản sắc dân tộc, trí tuệ và tài năng của những người làm ra chúng.
Hiểu được mối liên hệ mật thiết không thể tách rời của những giá trị văn hóa tinh thần
và vật chất là điều vô cùng quan trọng. Liệu chúng ta có thể chỉ sử dụng những giá trị vật
chất có nguồn gốc ngoại lai mà không hề bị ảnh hưởng bởi các giá trị tinh thần bao hàm
trong đó hay không? Liệu chúng ta có thể trở thành một mắt xích trong hệ thống sản xuất
đang trong quá trình toàn cầu hóa vũ bão mà vẫn nguyên vẹn là một người ngoài cuộc về
văn hóa hay không?
Việc hiểu không thấu đáo quan hệ giữa vật chất và tinh thần dẫn đến những lý luận,
thoạt nhìn có vẻ rất thanh cao, chẳng hạn cho rằng ngoài khát vọng làm giàu vật chất, cần
phải có khát vọng làm giàu về văn hóa, nhưng thế nào là giàu, thế nào là nghèo? Không

một dân tộc nào trên đời này không có văn hóa của mình. Mọi cộng đồng người hễ tồn tại
đều có yếu tố tinh thần, mà đã có yếu tố tinh thần thì có văn hóa. Vì thế một câu hỏi đại
loại như: "Nước Mỹ có văn hóa không?" là câu hỏi ngớ ngẩn.
Có một luận điểm khác không kém phần cực đoan, cho rằng về mặt đời sống vật chất
thì nhân loại đã đi được rất nhiều sau vài thiên niên kỷ, còn về tư tưởng thì đứng nguyên tại
chỗ hoặc cùng lắm thì đi được không đáng kể. Thật ra con người đã đi những bước dài cả
về vật chất lẫn tinh thần, trong đó những bước đi về tinh thần còn lớn hơn nhiều những
bước đi về vật chất, từ chủ nghĩa thần linh qua tôn giáo, đến triết học và các hệ giá trị, các
hệ tư tưởng. Con người đang dần dần giải phóng mình ra khỏi các định kiến tinh thần. Đó
là những bước đi khổng lồ, là nền tảng của sự phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nếu Galileo Galilei không tự giải phóng mình ra khỏi sự ràng buộc của Thiên Chúa giáo
cục đoan thì làm sao bây giờ chúng ta có sự phát triển đến computer, đến Internet?
Thái độ về sự giàu có vật chất phản ánh một khía cạnh quan trọng trong lịch sử phát
triển lâu dài của tư tưởng nhân loại. Thời nào bên cạnh những kẻ say mê vật chất cũng có
những người căm ghét sự giàu có. Họ cho rằng vật chất là nguồn gốc dẫn đến sự đồi bại về
tinh thần. Con người sản xuất ra, chế tạo ra, nghe ra những thứ có ích cho con người thì
trước hết phải vì yêu mến, vì am hiểu con người. Con người cần vật chất, và sự sùng bái
vật chất là có thể hiểu được. Chúng ta cần điều chỉnh nó chứ không cần và cũng không thể
tiêu diệt nó. Con người muốn sống trong những điều kiện vật chất ngày càng tốt hơn để có
thêm không gian và thời gian thưởng thức chân giá trị của cuộc sống. Đó là điều hoàn toàn
chính đáng, chỉ có sự tôn sùng vật chất một cách một chiều và thái quá mới cần lên án mà
thôi. Trên thực tế có cả những người nghèo và những người giàu vô đạo. Nhưng người giàu
thì ít mà người nghèo thì nhiều. Người giàu mà hư hỏng thì người ta để ý, còn người nghèo
hư hỏng thì người ta không để ý. Vì vậy người ta thường lên án sự hư hỏng của người giàu
chứ không lên án sự tha hóa của người nghèo. Ngay từ thời cổ đại, Platon đã nhận xét rằng
sự nghèo cũng tồi tệ như những sự giàu. Những người nghèo sinh ra đố kỵ, thèm muốn của
người khác, đó là cái xấu. Những người giàu sinh ra khinh người, coi thường kẻ khác, họ
cho rằng chỉ có tiền là quan trọng nên khinh những người không có tiền, đó cũng là cái xấu.

Vì vậy trạng thái quá nghèo khổ cũng đầy rẫy tội ác như trạng thái quá giàu có. Liệu
chúng ta có thể tìm ra một khoảng hợp lý của sự giàu có trong xã hội hay không? Tôi không
tin là có khoảng hợp lý đó. Ở mỗi thời điểm khi con người nhận ra một sự hợp lý thì cuộc
sống đã bắt đầu dịch chuyển đến một trạng thái hợp lý khác.
Trở lại với khái niệm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, như đã nói, phân biệt như
vậy là một sự phân biệt thô thiển. Nếu tôi thờ Phật, và nếu nhà tôi giàu thì tôi mua một pho
tượng bằng đồng, còn nếu nhà tôi nghèo - tôi sẽ mua một pho tượng bằng gỗ. Nếu tôi
không thể mua được một pho tượng bằng đồng hay bằng gỗ, thì tôi mua một bức tranh.
Nhưng thái độ văn hóa của tôi với Phật giáo không hề vì thế mà thay đổi. Vật chất chỉ là
phương tiện để thể hiện những giá trị tinh thần trong đời sống văn hóa mà thôi.
4. Về tính giai cấp và tính lịch sử
Giống như tất cả các lĩnh vực của đời sống văn hóa, một lĩnh vực được xem xét khác
nhau dưới các góc độ khác nhau. Nhìn chung, tất cả các hiện tượng được nhìn nhận theo
quan điểm văn hóa học đều phụ thuộc vào những yếu tố chủ quan, đặc biệt là: quyền lợi
kinh tế, quan điểm và định kiến chính trị, bản chất tâm lý... Đó là những lý do khiến người
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ta hay nhấn mạnh đến cái gọi là tính giai cấp của văn hóa. Nhưng đó là một quan điểm sai
lầm.
Chúng ta cần phải phân biệt văn hóa với tư cách là một hiện tượng khách quan và
những cách lý giải văn hóa, bao giờ cũng mang tính chủ quan. Chúng ta luôn phản đối cái
gọi là thuyết giai cấp. Sự phân loại văn hóa theo giai cấp là một sự phân loại hời hợt. Đạo
đức thuộc về con người mà con người có những số phận, những pha khác nhau của cuộc
đời. Hôm nay anh là ông chủ, anh thuộc giai cấp bóc lột. Ngày mai anh vỡ nợ anh đi đạp
xích lô thì anh thuộc giai cấp lao động. Chẳng lẽ, đạo đức của người ta thay đổi chỉ vì ngày
hôm qua là ông chủ ngày hôm sau là người đạp xích lô? Đó chỉ là những pha khác nhau của
cuộc đời một con người, còn đạo đức thuộc về con người chứ không thuộc vào những pha
khác nhau của nó.
Có thể đưa ra một ví dụ: thói đạo đức giả. Trong văn học, nghệ thuật ta thường gặp
hình ảnh người cai trị xấu và tồi tệ, nhưng có lẽ trên thực tế không hoàn toàn là như thế.

Liệu đây có phải là kết quả của một tâm lý nào đó hay thực sự tầng lớp thống trị xấu xa như
vậy? Bên cạnh đạo đức giả của tầng lớp thống trị liệu có đạo đức giả của tầng lớp bị trị hay
không? Có cả hai loại. Tầng lớp bị trị cũng nịnh hót, tranh thủ luồn lách, đó cũng là đạo
đức giả Tầng lớp cai trị thì tham nhũng về vật chất hay tinh thần. Tham nhũng về vật chất
để tư nhân hóa, cá thể hóa tài sản quốc gia, mượn nhà nước, mượn sức mạnh công cộng để
bắt nạt thiên hạ... cho những mục tiêu, lợi ích cá nhân. Đạo đức giả thuộc về con người,
không kể đó là giai cấp cai trị hay bị trị.
Các hiện tượng văn hóa không chỉ được đánh giá tuỳ theo các yếu tố chủ quan mà còn
tuỳ thuộc vào các điều kiện và hoàn cảnh khách quan.Ở mỗi thời điểm lịch sử, giá trị của
một hiện tượng văn hóa cũng như ảnh hưởng của nó phụ thuộc và những điều kiện khách
quan và tương quan các điều kiện khách quan ấy. Nếu lần theo dòng lịch sử, chúng ta sẽ
thấy rằng những giá trị đó cũng luôn luôn biến đổi. Bao giờ cũng có những giá trị mới đang
và sẽ sinh ra để thay thế những giá trị đã và đang lỗi thời. Chủ nghĩa phong kiến đã từng
đóng vai trò tiến bộ nhưng rồi nó trở nên phản động và bị thay thế bởi CNTB. Sau đó đến
lượt CNTB lại trở thành lỗi thời... chính vì thế, chúng ta có thể nói rằng văn hóa có tính lịch
sử.
5. Khái niệm giao lưu văn hoá
Thuật ngữ “tiếp xúc và giao lưu văn hoá” được dịch từ những thuật ngữ “cultural
contacts”,” cultural exchanges acculturation” của các nước phương Tây. Nhưng ngay ở
các nước phương Tây khái niệm này vẫn được dùng bởi các từ khác nhau. Người Anh thích
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dùng chữ “Cultural Change” (có thể dịch là trao đổi văn hoá), người Pháp có thuật ngữ
“Interpénétration des civilisations” (có nghĩa là sự hoà nhập giữa các nền văn minh),
người Hoa Kỳ dùng thuật ngữ “acculturation”. Đương nhiên, nội hàm của các thuật ngữ
trên ở các nước có giới hạn chung, nhưng các thuật ngữ đều có sắc thái riêng. Khái niệm
“acculturation” được nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam dịch là giao lưu văn hóa, tiếp
(xúc) và biến (đổi) văn hóa. Khái niệm này đã được các nhà khoa học Mỹ định nghĩa vào
năm 1936 như sau: “Dưới từ acculturation, ta hiểu là hiện tượng xảy ra khi những nhóm
người có văn hoá khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi mô thức văn

hóa ban đầu của một hay cả hai nhóm”
2
.
Khái niệm giao lưu văn hoá là để chỉ một quy luật trong sự vận động và phát triển văn
hóa của các dân tộc. Đó là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người (cộng đồng, dân tộc)
có văn hóa khác nhau giao lưu tiếp xúc với nhau tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một
hoặc cả hai nhóm. Giao lưu văn hóa tạo nên sự dung hợp, tổng hợp và tích hợp văn hóa ở
các cộng đồng. Ở đó có sự kết hợp giữa các yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh" tạo
nên sự phát triển văn hóa phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn. Giao lưu và tiếp biến văn hóa
là sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài bởi dân tộc chủ thể. Quá trình này luôn đặt mỗi dân tộc
phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố "nội sinh" và "ngoại sinh". Trong lĩnh
vực văn hóa chỉ có khái niệm "giao lưu và tiếp biến văn hóa" chứ không có khái niệm "hội
nhập văn hóa". Thuật ngữ hội nhập chỉ sử dụng cho các lĩnh vực ngoài văn hóa, chẳng hạn
như kinh tế...Trước xu thế toàn cầu hóa, khi Việt Nam trở thành thành viên 150 của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) và yêu cầu phát triển mới của đất nước, Đảng ta yêu cầu
phải "Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn
thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và
tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc
hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của
nhân dân".
6 . Bản chất giao lưu văn hoá
- Bản chất con người có quan hệ mật thiết với hoạt động và quan hệ chặt chẽ với giao
lưu. Không có hoạt động, không có giao lưu thì cũng không có bản chất xã hội của con
người.
22
Cơ sở văn hoá Việt Nam. Trần Quốc Vượng (chủ biên). Nxb Giáo dục, 1997, tr. 38-39
3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chớnh trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 213
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Sự phát triển của mỗi dân tộc và các thành viên của nó phụ thuộc không chỉ ở sự

phát triển của lực lượng sản xuất mà còn ở sự phân công lao động và giao lưu diễn ra bên
trong và bên ngoài nó.
- Mức độ và phạm vi giao lưu của mỗi cộng đồng xã hội có tác động đến sự phát triển
của mỗi bản thân cộng đồng (hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm) cũng như của mỗi thành viên
trong đó.
- Giao lưu không chỉ góp phần quan trọng vào việc hình thành tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, mà cả quan điểm, tư tưởng, đạo đức lối sống. Tầm quan trọng của giao lưu thể hiện ở
chỗ ý thức và ngôn ngữ xuất hiện từ nhu cầu giao lưu và từ đó có thể cho rằng có giao lưu
mới có ngôn ngữ, mới có tri thức, mới có ý thức và tự ý thức.
II. GIAO LƯU VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
1. Giao lưu văn hoá
Thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới. Toàn cầu hóa đã len lỏi vào ngay cả những
phần nhỏ bé nhất của thế giới, không chỉ làm trỗi dậy những khát vọng về sự phát triển mà
còn tạo ra trạng thái phát triển thực thụ.
Tuy nhiên, ở một số vùng trên thế giới, con người, dường như, chưa khai thác được
những lợi ích mà toàn cầu hóa mang lại, thậm chí còn nhận thức một cách phiến diện về nó
như là thủ phạm gây ra những xung đột về kinh tế, chính trị và văn hoá. Có thể nói, trong
số những cuộc xung đột ấy, những xung đột về văn hóa tuy không phải luôn hữu hình và
quyết liệt, nhưng âm thầm, bền bỉ, dai dẳng và có sức cản rất lớn đối với tiến trình phát
triển chung của nhân loại. Do đó, nghiên cứu về ảnh hưởng của văn hóa lạc hậu đối với tiến
trình phát triển chung của nhân loại và đối với sự tiến bộ của thế giới thứ ba có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, bởi nó sẽ giúp con người hạn chế khả năng xảy ra xung đột, trên cơ sở đó,
khai thác những ảnh hưởng tích cực của văn hóa đối với tiến trình phát triển.
Thế giới thứ ba đã từng sục sôi trong phong trào giải phóng các dân tộc, nhưng trên
thực tế nhiều dân tộc mới được giải phóng về mặt nhà nước chứ chưa giải phóng về mặt
con người. Sự không phát triển về mặt con người không chỉ thể hiện ở sự lạc hậu về chính
trị, kinh tế mà còn cả môi trường văn hoá. Nếu văn hóa chưa được giải phóng, tức là vẫn
tồn tại nền văn hóa không thích ứng với sự phát triển thì dân tộc đó vẫn là nô lệ của chính
họ. Việt Nam cũng như nhiều nước Thế giới thứ ba chưa có một nền văn hóa thích ứng với
sự phát triển.

9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để phát triển, quan điểm là phải trả lại tự do cho sự phát triển tự nhiên đời sống xã
hội và bắt đầu từ phát triển văn hóa để phát triển con người, giải phóng con người, giải
phóng dân tộc ra khỏi các định kiến để mỗi con người có thể tiếp cận một cách tự do với tất
cả những gì là tiên tiến của nền văn hóa toàn cầu, nền văn hóa của phát triển. Đó chính là
nội dung quan trọng nhất của đường lối phát triển của thế giới thứ ba. Tuy nhiên, trước hết,
chúng ta sẽ nhìn lại nền văn hóa của thế giới thứ ba với những nét đặc trưng nhất để thấy
nó đã và đang kìm hãm sự vươn tới sự tiến bộ của khu vực này như thế nào.
Giao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ biến của xã hội loài
người. Nhờ giao lưu văn hoá đúng hướng mà các nước chậm phát triển có cơ hội trở thành
nước phát triển. Trong mọi hoạt động văn hóa Ðảng và Nhà nước ta bao giờ cũng nêu cao
định đề biện chứng : kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
1.1. Những nguyên lý và nội dung của giao lưu văn hoá
1.1.1 Trong quá trình giao lưu văn hóa với các nước phát triển, chúng ta đã tiếp thu
nhiều tác phẩm tiêu biểu và nhiều kinh nghiệm sáng tạo.
Các tác phẩm nghệ thuật nước ngoài, nhất là các tác phẩm cổ điển là những "sứ giả"
có công nhất trong việc truyền bá văn hóa nước ngoài đến với trong nước. Chúng mang
những giá trị nhân văn cao đẹp, mẫu mực về ngôn ngữ, cách tân về thi pháp miêu tả. Trong
quá trình tiếp thu cái bên ngoài cần đề phòng tâm lý sính ngoại, phục ngoại vô cớ; mặt
khác, cũng tránh tâm lý khép kín, coi thường những giá trị các dân tộc. Thái độ đúng đắn
nhất để ứng xử mối quan hệ giữa cái bên ngoài và cái bên trong là: Càng đi sâu vào dân tộc
sâu sắc bao nhiêu, thì càng nhanh chóng hiểu biết, dễ tiếp nhận cái hay, cái đẹp của thế giới
bấy nhiêu. Thật đúng chỗ khi dẫn ra đây những kiến giải của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Văn
hóa của các dân tộc khác cần phải nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có
thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình". "Mỗi một dân tộc cần phải chăm
lo đặc tính dân tộc trong nghệ thuật". "Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, càng phải
coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông" (1). Chính Người là hiện thân rực rỡ,
biểu tượng mẫu mực của sự giao lưu văn hoá. Người thông thạo nhiều ngoại ngữ các nước

châu Âu, hiểu biết Bắc sử và chữ Hán, am tường nhiều trào lưu nghệ thuật, tiếp xúc với
nhiều bậc thầy văn hóa thế giới, v.v.
1.1.2. Giới thiệu lịch sử, đất nước, con người, văn hóa Việt Nam với thế giới.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự cường dân tộc là tài sản vô giá của truyền thống văn
hóa Việt Nam. Yêu nước là giữ nước và giữ dân, coi dân là gốc. Nói dân ta có sức sống
trường tồn, không bị đồng hóa trước âm mưu thôn tính của kẻ thù, đứng lên chống ngoại
xâm là nói sức mạnh của dân, trách nhiệm của dân và lợi ích của dân. Thời nào cũng vậy,
lúc bình cũng như lúc biến các bậc minh quân đều lấy dân làm gốc, lấy nhân nghĩa làm
đức, lấy hòa hiếu để ứng xử bang giao; đối nội thì thuận lòng người, đối ngoại thì mềm
dẻo, linh hoạt. Ðó là sách lược của kẻ thắng. Truyền thống hòa hiếu là cơ sở cho chính sách
ngoại giao đa phương, cơ hội để hội nhập với thế giới trong thời đại Hồ Chí Minh.
Suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã có một nền văn hóa rực rỡ,
mà đỉnh cao trí tuệ lấp lánh, phải kể đến trước tiên là Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê
Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh. Do khuôn khổ hạn hẹp của
những trang viết, chỉ xin luận giải về hai hiện tượng văn hóa lỗi lạc: Nguyễn Trãi, Anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới ghi đậm dấu ấn lịch sử về văn hóa hòa hiếu, một
giá trị nhân văn bền vững. Mục đích cao nhất của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
nhà Minh là cốt để mở nền "thái bình muôn thuở". Và Quang Trung Nguyễn Huệ. Câu
chuyện của vợ chồng nhà học thuật, nhà báo I-rê-nê Pha-be, người Ðức (đã dịch Truyện
Kiều ra tiếng Ðức) có lần thưa với Bác Hồ rằng, trong thời đại Nguyễn Trãi sống, sáng tác,
hoạt động, ở châu Âu chưa có một tác giả nào lớn (2). Nhận định này đòi hỏi sự nghiên cứu
so sánh Nguyễn Trãi với các tác giả thời đại Phục hưng, thế kỷ ánh sáng và các thế kỷ tiếp
theo ở châu Âu. Còn Quang Trung với chính sách mở cửa và cải cách của vị minh quân :
tầm nhìn kinh tế xa rộng phù hợp với nền kinh tế hàng hóa, mở cửa biên giới với nhà
Thanh, tăng cường quan hệ buôn bán với các thuyền buôn phương Tây, việc sử dụng chữ
Nôm làm quốc ngữ chính thống thay chữ Hán, chính sách chiêu tập hiền nhân có hệ thống,
v.v... làm chúng ta liên tưởng tới một vị vua anh minh nước Nga Pi-e đại đế (1687 - 1785)
với nhiều cải cách táo bạo để nước Nga nhìn sang châu Âu bằng "khung cửa sổ phía tây".

1.1.3. Ngăn ngừa và đấu tranh chống sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa độc hại.
Sớm nhận thấy nguy cơ của mọi loại văn hóa phản động và suy đồi, ngay từ năm
1951, trong tác phẩm Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: "Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn
hóa đế quốc". Ngày nay mục tiêu chính của chủ nghĩa đế quốc văn hóa là làm suy yếu tiềm
năng và nội lực của văn hóa dân tộc. Những yếu tố độc hại, suy đồi của văn hóa đế quốc
đang như những đợt sóng ngầm va đập âm ỉ vào bến bờ của nhiều nước đang phát triển. Nó
có những đặc điểm sau: Truyền bá phương châm tiêu dùng, lối sống thực dụng, trước hết là
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lớp trẻ; dùng các hình thức quảng cáo từ thiện, du lịch, tôn giáo để đạt mục đích chính trị;
tuyên truyền sùng bái văn hóa phương Tây, trước hết là văn hóa Mỹ, coi đó là mô hình
chuẩn; tổ chức và bảo trợ cho một số trí thức, văn nghệ sĩ nhẹ dạ, cả tin biến họ thành "cái
loa" của các thế lực thù địch. Những chiến dịch ồn ào về đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập, "chuyển lửa về quê hương" đã được thay thế bằng bàn tay bọc nhung nắm lấy một số
hoạt động từ thiện, du lịch giả hiệu, giương cao những tuyên ngôn, tuyên cáo về nhân
quyền, tự do, dân chủ với mục đích đen tối.
1.2. Ðối thoại giữa các nền văn hóa
Giao lưu văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế có tác động to lớn tới sự nghiệp
Công nghiệp hoá(CNH), Hiện đại hoá (HÐH)
- Nếu CNH là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thì HÐH là chặng đường
xây dựng kiến trúc thượng tầng, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.
HÐH trong văn hóa chỉ có thể đi vào đời sống, khi trình độ dân trí được nâng cao. Nhiều
dự báo cho rằng, trong thế kỷ mới, trí thông minh, sức tưởng tượng và trực giác của con
người sẽ tiếp tục quan trọng hơn máy móc.
- HÐH không đồng nhất với phương Tây hóa. Những công nghệ mới, những dòng
thông tin tự do, internet là con dao hai lưỡi. Chúng có thể mang lại cơ hội mới, nhưng tác
hại của chúng cũng không ít và khôn lường. Trước, sau vẫn là sự điều chỉnh quá trình biện
chứng giữa việc giữ gìn văn hóa dân tộc và tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại để làm dày
thêm các lớp văn hóa nhân bản, xóa bỏ dần lớp văn hóa phi nhân tính.

- HÐH trong văn hóa (ngoài những nội dung như đổi mới khoa học công nghệ trong
các lĩnh vực), cần coi trọng hàng đầu những quy luật đặc thù sau: Một là, xây dựng con
người Việt Nam là con người phát triển cao về trí tuệ, phong phú về tinh thần, trong sáng
về đạo đức, cường tráng về thể chất. Con người không phải là phương tiện của quá trình
CNH, HÐH mà là trung tâm, là động lực và mục tiêu của phát triển. Hai là, xây dựng môi
sinh văn hóa tức là "thiên nhiên thứ hai" do con người xây dựng trong quá trình CNH,
HÐH và đô thị hóa. Ba là, điều kiện văn hóa tức là chính sách, thể chế, hành lang pháp lý
cần và đủ cho hoạt động văn hóa và xã hội hóa văn hóa. Bốn là, quản lý văn hóa, tức là
quản lý tri thức. Trong quản lý xã hội thì quản lý những cái vô hình (tâm trạng, tâm lý, tình
cảm, nguyện vọng của quần chúng) là khó nhất; trong quản lý con người thì khó nhất là biết
"đo lòng người". Vào thời đại "thế giới phẳng" người quản lý tài năng không phải là người
giỏi nhất mà là người biết thu gom những tri thức, quy tụ được những người tài. Tất cả
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những nội dung trên được triển khai một phần những luận điểm của Ðảng ta về giao lưu
văn hoá được ghi trong văn kiện Ðại hội X (2006).
Giao lưu văn hoá là sự đối thoại giữa các nền văn hóa nhiều khi đóng vai trò quan
trọng, thậm chí quyết định những cuộc đàm phán về biên giới, lãnh thổ, xung đột sắc tộc.
Quá trình giao lưu văn hoá cần tính đến giá trị chung, giá trị nhân loại, đồng thời thừa nhận
cái khác biệt của người, để các dân tộc khác thừa nhận cái khác biệt của ta. Vấn đề còn lại
là bản sắc, bản lĩnh, đạo lý dân tộc. Câu sau này của Thomas L.Friedman viết trong cuốn
Chiếc Lexus và cây ô liu có thể chiêm nghiệm được: "Một đất nước không có rặng cây ô liu
khỏe khoắn (biểu trưng gốc rễ dân tộc) sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được
duy trì hay an tâm để hội nhập với thế giới. Nhưng một đất nước chỉ có rặng cây ô liu
không thôi, chỉ lo cội rễ mà không có xe Lexus (biểu trưng tính hiện đại) thì sẽ không bao
giờ tiến xa được. Giữ cân bằng hai yếu tố trên là cuộc vật lộn triền miên".
2. Khái lược tương tác của văn hoá Việt Nam với văn hoá bên ngoài
Ở nước ngoài, nhiều người vẫn còn nghĩ rằng văn hóa Việt Nam chẳng khác gì văn
hóa Trung Quốc. Muốn chứng minh sự khác biệt về văn hóa, ít ai có thể đưa ra được những
bằng cớ xác thực. Cũng có người cho rằng văn hóa Việt ảnh hưởng văn hóa Pháp. Chính

điều này dẫn đến không ít những cuộc tranh luận quốc tế rất sôi bỏng về vấn đề “đâu là văn
hóa Việt Nam”.
Điều chúng ta cần nhấn mạnh ở đây là người Việt chúng ta xứng đáng tự hào về nền
văn hóa độc lập của dân tộc. Tính độc lập của văn hóa Việt thể hiện bằng nhiều góc độ
khác nhau. Chẳng hạn, phải tự hào rằng chúng ta còn giữ được ngôn ngữ của riêng mình
khi phải trải qua thời kỳ thuộc địa. Các nước khác chấp nhận bị lệ thuộc để canh tân đất
nước, còn người Việt chấp nhận canh tân chứ không chịu bị đồng hóa.
Quan trọng nhất là phải hiểu được tư duy của người Việt, chứ không hải nhìn thấy
hiện tượng bên ngoài. Nếu không thì chẳng thể nào hiểu được thế nào là bản sắc VN.
Người Việt có tư duy mềm dẻo, có thể ví với nước. Do vậy, có tính thích nghi với mọi hoàn
cảnh. Người Việt rất thực tiễn, nhanh chóng hội nhập vào thế giới, quên đi hận thù, biết
làm bạn với những ai để xây dựng đất nước. Không chỉ biết thích nghi, người Việt còn biết
cảm thông, tha thứ. Chính vì tư duy VN mang đặc tính nền văn minh lúa nước mà tính tiếp
nhận và chuyển hóa rất linh hoạt. Nhiều tư tưởng tôn giáo du nhập vào VN cũng được Việt
hóa, những yếu tố trừu tượng khác như triết học đi vào con người VN. Đó cũng là nét đặc
thù của văn hóa Việt,
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Về mặt khiếm khuyết, thói hư tật xấu của người Việt nhìn chung không phải là quá
nhiều, hay quá nghiêm trọng. Người mình nhiều khi quá lời cho đó là vấn đề lớn, nhìn
quanh ra các nước trên thế giới thì không hẳn như thế. Điểm tựa tinh thần của người Việt là
gia đình, sau đó là làng xã. Con hư cha mẹ dạy, sau đó mới đến làng xã dạy, tức sự giáo
dục nằm ngay ở phút ban đầu của sự lầm lỡ.
Chúng ta liệt kê những thói xấu, để làm gì? Điều quan trọng là phải quay về với giáo
dục trong gia đình và tăng cường giáo dục ngoài xã hội. Tuy nhiên, trong tính cách, không
nên quá dễ dãi, xí xóa, xuề xòa, sợ bị phê bình, sợ nhìn thẳng vào sự thật. Nhưng nếu chúng
ta thiếu tranh luận khoa học, không đưa ra một tiêu chuẩn trước tiên rằng tranh luận để tìm
thấy chân lý chứ không phải vì ghét bỏ nhau, thì nhu cầu ấy ắt phải cần thiết cho sự tiến bộ.
Mặt khác, có người cho rằng người Việt hay bắt chước. Tôi nghĩ ấy không phải chỉ là
đặc tính của người Việt mà là con người ở khắp nơi trên trái đất. Một phần nó chứng tỏ ta

yếu kém về khả năng và thiếu tự tin. Phần khác nó cũng chứng tỏ chu cầu học hỏi ở nước
ngoài.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng xã hội của người Việt vẫn
là xã hội nông thôn. Thế giới ngày càng thay đổi không ngừng. Chúng ta phải trau dồi tư
duy mới và liên tục bổ túc cái mới. Giữ gìn bản sắc là trau dồi không ngừng chứ không
phải cứ đứng 1 chỗ để bị tụt hậu. Tuy nhiên, nếu chưa hiểu thì nên học tập, chớ vội vã chê
truyền thống của cha ông mình là không hay, thiếu khoa học, thiếu tinh vi như các nước
phương Tây. Thái độ này cần xem lại để tránh sự nhầm lẫn và tự hủy.
Thẩm mỹ quan của một dân tộc rất quan trọng. Hiện nay, ta đêm ra những gì ta có mà
nước ngoài không có mới là quý. Đừng nghĩ cái mình có là cái lạc hậu. Chỉ điều gì biểu
hiện đặc trưng của một văn hóa Việt thì thế giới mới không có sự cạnh tranh.
Nhìn chung, trên bước đường phát triển của lịch sử loài người, cơ sở kinh tế là nhân
tố quyết định. Bởi vậy, giao lưu văn hoá được diễn ra trước hết thông qua các hoạt động
trao đổi kinh tế, ban đầu là giữa các tộc người gần gũi nhau về địa lý và cùng trình độ phát
triển; nhưng về sau, là giữa các tộc người hay dân tộc có trình độ phát triển khác nhau.
Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó, ngoài hoạt động trao đổi kinh tế, lịch sử giao
lưu văn hoá ở Việt Nam đã chứng kiến nhiều cách thức giao lưu văn hoá “phi kinh tế” và
rất đa dạng giữa các chủ thể văn hoá (ở mọi cấp độ: cá nhân, tộc người, dân tộc, quốc gia
hay khu vực). Có thể liệt kê ra một số hình thức giao lưu cơ bản trong lịch sử như:
Buôn bán, thương mại;
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các cuộc di cư lớn nhỏ;
Các cuộc chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ;
Con đường hoà huyết, hôn phối giữa các tộc người;
Con đường truyền giáo;
Con đường ngoại giao;
Hoạt động cống nạp của những tộc người, cộng đồng, dân tộc yếu thế trước những kẻ
mạnh;
Con đường du học;

Thông qua sự trao đổi tặng phẩm, vật phẩm tôn giáo.
Lịch sử giao lưu văn hóa ở Việt Nam cho thấy, có những yếu tố văn hoá ngoại sinh dễ
dàng bắt rễ và tồn tại lâu dài, để rồi dần dần chuyển thành yếu tố nội sinh, hoặc bị biến đổi
một cách căn bản để phù hợp với văn hoá Việt Nam. Nhưng cũng có không ít trường hợp,
những yếu tố ngoại sinh chỉ tồn tại trong thời gian ngắn rồi bị đào thải.
Trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá, văn hoá Việt Nam đã hình thành một
cấu trúc gồm một cái lõi bên trong và các lớp phủ ngoài. Cái lõi đó là văn hoá cơ tầng và
các lớp phủ như văn hoá Ấn Độ, văn hoá Trung Quốc và văn hoá Phương Tây.
Văn hoá bản địa của Việt Nam là văn hoá cơ tầng, tức thứ văn hoá có mặt trên giải
đất này từ khi có con người đến năm 179 tr.CN. [xem Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử
cương 1938]. Giai đoạn văn hoá bản địa tồn tại rất dài trong thời gian và có tính quyết định
đối với sự hình thành và định vị bản sắc văn hoá Việt Nam.
Văn hoá Ấn Độ thẩm thấu rất sâu vào trong tân thức người Việt vì bản tính hoà bình,
giá trị nhân bản và cũng vì con đường du nhập tự nhiên, phi cưỡng chế của nền văn hoá
này. Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ trên toàn lãnh thổ Việt Nam là không đồng đều. Từ
Đèo Ngang trở ra Bắc phần nhiều chịu ảnh hưởng Phật giáo, còn từ Đèo Ngang trở vô Nam
– chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo. Người Việt, Bắc hay Nam đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của
Phật giáo, ở Bắc chủ yếu là đại thừa, còn trong Nam chủ yếu là tiểu thừa [xem Đỗ Thuý
Lai, Văn Hoá Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hoá, 2005].
Văn hoá Trung Hoa có ảnh hưởng rất lớn đến văn hoá Việt Nam. Khác với văn hoá
Ấn Độ đến Việt Nam với ngọn cờ hoà bình trên tay, văn hoá Trung Hoa đến đất này theo
vó ngựa của những đội quân xâm lược. Bởi vậy, sự tiếp nhận văn hoá Trung Hoa của người
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việt mang tính chất cưỡng bức. Ảnh hưởng lớn nhất của văn hoá Trung Hoa vào Việt Nam
là tam giáo Nho – Phật - Đạo, trong đó ảnh hưởng của Nho giáo là lớn nhất [xem Trần
Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, 2006].
Văn hoá Việt Nam tiếp xúc với văn hoá phương Tây từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ
XVI, khi các giáo sĩ Kitô đi truyền đạo, khi các thuyền buôn phương Tây đi tìm thị trường.
Ảnh hưởng của văn hoá phương Tây có thể chia làm 3 giai đoạn chính: Giai đoạn từ đầu

thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX (1858), được đánh dấu bằng sự xuất hiện của Kitô giáo và
sự ra đời chữ quốc ngữ. Giai đoạn nửa cuối XIX – giữa thế kỷ XX (1954), là giai đoạn thực
dân Pháp thiết lập nền cai trị trực tiếp của nó đối với Việt Nam và đi kèm theo đó là thứ
văn hoá phương Tây mang nặng màu sắc thực dân. Giai đoạn từ 1954 đến nay, đây là gian
đoạn nhân dân Việt Nam đấu tranh thống nhất, xây dựng và phát triển đất nước. Giai đoạn
này được đánh dấu bằng những tiếp xúc văn hóa quan trọng như: giao lưu với văn hoá Xô
Viết (Miền Bắc); giao lưu với văn hoá Mỹ (Miền Nam); giao lưu văn hoá ở cấp độ khu vực
và toàn cầu (hiện nay) [xem Phạm Thái Việt, Đại cương về văn hoá Việt Nam 2005].
Như vậy, lịch sử đã chứng kiến nhiều cuộc giao lưu giữa văn hoá Việt Nam với văn
hoá bên ngoài trong quá trình lịch, thông qua đó chúng ta đã tiếp thu những nhân tố hợp lý
nhằm làm phong phú và phát huy hơn nữa bản sắc văn hoá dân tộc trong hơn hai nghìn năm
qua. Giao lưu với các nền văn hoá bên ngoài không hề xa lạ đối với văn hoá Việt Nam,
nhưng trong xu thế toàn cầu hóa, giao lưu văn hoá có gì mới? Có sự biến đổi về chất
không?
3. Giao lưu văn hoá ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, ít nhất chúng ta đã trải qua hai lần biến đổi lớn về
văn hóa xã hội và phải nói rằng hệ quả của nó đã đưa tới những biến đổi tích cực, theo
hướng đi lên của dân tộc. Lần một, sự biến đổi ấy đã kéo dài và phát triển trong ngót nghét
hai thiên niên kỷ ( trước và sau thiên niên kỷ I) mà ảnh hưởng của nó là văn hóa phương
Đông, rõ nét và mạnh mẽ hơn, nhanh chóng hơn trong một bối cảnh toàn cầu hóa...
Trong quá trình biến đổi lần hai bằng quá trình "âu hoài'. Xét về văn hóa - văn minh,
đây là lần đầu tiên văn hóa Việt Nam tiếp xúc - giao lưu - tiếp biến với một văn hóa - văn
minh hoàn toàn khác biệt so với những gì đã tiếp xúc giao lưu - tiếp biến từ hàng chục thế
kỷ trước. Một tư duy hoàn toàn khác (tư duy phân tích một hệ thống giá trị văn hóa văn
minh lạ lẫm được du nhập... đã gây nên một cuộc đảo lộn và một quá trình "đứt gãy", hội
nhập xuất hiện. Nhưng quá trình du nhập ấy, sự "đứt gãy" ấy dẫu mạnh mẽ đến đâu vẫn
không thể nhanh chóng thay thế tất thảy mọi hành vi ứng xử, mọi thói quen, nề nếp văn
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoá... có tuổi đời đã hàng nghìn năm. Nó phải chấp nhận một tình trạng "lưỡng phân", như

chấp nhận sự chung sống giữa khăn xếp áo the với complet, giữa "giầy giôn" với guốc mộc,
giữa rau diếp với salade, giữa khoai lang với khoai tây... Tình trạng "lưỡng phân" kéo dài
trong nhiều thập kỷ, và chưa lúc nào sự "Âu hóa" thể hiện được khả năng thật sự lấn lướt.
Rồi mọi thứ diễn ra quá nhanh, quá gấp gáp(?) quá trình "âu hoá" mới bước sang một
thời kỳ mang tính công nghệ nhưng dường như, nó không khởi nguồn từ một sự tự giác mà
được khởi nguồn một cách tự phát? Hôm nay ở vùng đô thị, vốn liếng thời gian rỗi ít ỏi và
cả sự đua theo những kiểu lối thời thượng đã lôi cuốn người ta đến với các siêu thị, trung
tâm thương mại. Nơi những người mẹ trẻ có thể mua thức ăn sẵn dành cho cả tuần, để cha
mẹ già chỉ còn việc lên gác xuống nhà, xem TV hoặc rủ nhau đi tập thể dục dưỡng sinh.
Trong mâm cúng gia tiên ngày Tết ở nhiều gia đình. đã thấy có mặt thịt hun khói, Jambon,
ngô ngọt xào và xúc xích Đức - những món ăn mấy chục năm trước vẫn chưa thể len lỏi
vào mâm cơm Việt. Cho nên không có gì đáng ngạc nhiên nếu thấy trong bữa tiệc gia đình
lại được tổ chức mô phỏng theo thực đơn (menu) nhà hàng để bắt đâu bằng súp gà và kết
thúc bằng bánh mì phết bơ. Rồi nữa là những bộ Jean "cả cây". những chiếc mini jube tối
màu, những complet - crava"e (hàng mã)... cùng với sự hiện diện của những chai XO,
Rémy. Blue...trên bàn thở các cụ... tất cả thật sự đang tiềm ẩn khả năng biến khăn xếp, áo
dài thành trang phục của những dịp lễ lạt hoặc cần giới thiệu bản sắc, và biến những chai
"quốc lủi" thành thú vui của những cuộc nhậu bình dân và những người hoài cổ.
Ngoảnh đi ngoảnh lại, đa số lớp trung niên chưa kịp hiểu internet là gì thì lớp cháu
con đã kịp chat qua mạng để kết bạn với một John, một Smith nào đó ở phía trời Tây. Rồi
người ta chấp nhận, dù vẫn thấy "chường mắt về sự hiện diện hàng ngày không chỉ trên
đường phố mà trong cả ngôi nhà của mình những mái tóc nhuộm xanh đỏ tua tủa như lông
nhím vì được xịt "keo bọt", hoặc những tấm áo kẻo phía trước thì hở phía sau và ngược lại.
Rồi cánh thanh niên trẻ tuổi bắt đầu không quan tâm tới ý nghĩa của quan niệm "mất dông",
họ đi chơi giao thừa tới 4 - 5 giờ sáng. Họ phấp phỏng chờ đón ngày Valentin để gửi cho
nhau một nhánh hoa hồng - thứ quà tặng mà đôi khi nhiều người do không nắm bắt được
"thông điệp tình yêu của nó nên vẫn vác đại lên sân khấu tặng cho các diễn viên(!). Một
cách tự nhiên, người ta chấp nhận luôn cả lời "Hapy New Year" qua telephone, qua SMS,
qua Email và không cảm thấy có điêu gì thất thố. Nghĩa là đã có những "chuyển dịch văn
hoằn mới đang bắt đầu và phần nào được thừa nhận như những kiểu loại hành vi được coi

là phù hợp với tiết tấu, nhịp điệu. Quan niệm thẩm mỹ, khuôn mẫu ứng xử của lối sống
đương đại.
17

×