Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Nguyên nhân và cách điều trị đau vai pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.44 KB, 23 trang )


Nguyên nhân và cách điều trị đau vai




Nguyên nhân các rối loạn ở vai, giống như những rối loạn của nhiều
vấn đề cơ-xương khác, gồm một giải từ sinh-cơ học (biomechanical) đến
thoái hóa. Như một quy luật chung, dưới tuổi 45 nổi bật lên là những nguyên
nhân cơ-sinh học, đặc biệt là những chấn thương tái diễn. Khi tuổi càng cao
thì tình trạng thoái hóa càng tang lên trong các chứng của vai.
Hai loại trên gắn bó với nhau: những chấn động cơ học sẽ đẩy nhanh
các quá trình thoái hóa, và những biến đổi thoái hóa thường chỉ trở thành có
triệu chứng bởi những chấn động cơ học.
GIảI PHẫU HọC
Vai gồm có hai khớp chức nǎng, khớp bả - cánh tay và khớp cùng
vai xương và ba rặt trượt, đầu dài của cơ nhị đầu, túi hoạt dịch dưới
mỏm quạ, và những ống cơ gân (xem hình 42.1). Những ống cơ - gân
hay ống quay là một nhóm cơ làm vững chắc thêm bao khớp. Nǎm cơ
ống quay tròn là: trên gai, dưới gai, cơ tròn nhỏ (teres minor), dưới bả,
và đầu dài của cơ tam đầu.

Hình 42.1. Giải phẫu sâu của vai
Trong các hội chứng của vai, đau thường xuất hiện do viêm.
Trong các cấu trúc thường bị nhất là bao khớp bả - cánh tay, gân trên
gai và túi hoạt dịch dưới mỏm cùng vai.
NHữNG NGUYÊN NHÂN ĐAU VAI
Mặc dầu nhiều bệnh đặc biệt được mô tả trong các bài viết về
chỉnh hình, hầu hết các chứng bệnh về vai thường là những hội chứng
cơ - mac (myofascial syndrome) hoặc là vấn đề tiếp tục của những quá
trình chấn thương hay thoái hóa mô mềm có liên quan, chẳng hạn viêm


bao hoạt dịch, viêm gân, hội chứng ống quay, hoặc viêm dính bao khớp.

Hội chứng cơ mac (Myofascial syndrome): nguyên nhân thường
có nhất của chứng đau vai, có đặc điểm với "các điểm nổ", nghĩa là các
điểm đau rất khu trú khi chạm vào trong hay xung quanh cơ. Lấy ngón
tay ấn mạnh vào điểm nổ, bệnh nhân có thể nhǎn nhó hoặc co rúm lại.
Anh sẽ cảm thấy một cục, một vùng cứng lại hoặc như sởi thừng trong
cơ. So sánh với cơ lành của bên vai đối diện sẽ giúp ích cho việc đánh
giá. Vị trí thường có của các "điểm nổ" là:
- Mặt giữa trên của xương bả.
- Các cơ ở ngay dưới ụ gáy trong vùng cổ.
- Cơ thang và cơ ức - chũm.
- Các cơ liên sườn, các cơ ngực , mặt bên.
Các điểm nổ hình thành do nhiều yếu tố bao gồm thiên hướng di
truyền, tình trạng cơ không tốt (chấn thương cơ học) và các stress xúc
cảm. Một khi đã hình thành, những chỗ đau này trở nên tự tồn tại bền
vững dù tác nhân kích thích đã hết, vì sự cǎng thẳng, chứng đau, và sự
mệt mỏi tạo ra một chu kỳ phản hồi, chu kỳ này lại gây ra sự co thắt cơ.
Viêm bao hoạt dịch, viêm gân và hội chứng ống quay là một loạt
các rối loạn có liên quan mà chúng vốn là những phần của một quá
trình mạn tính duy nhất và về mặt lâm sàng thường không phân biệt
được. Quá trình này thường bắt đầu ở cơ trên gai hay gân nhị đầu nơi
được cung cấp máu tương đối ít và có thể trở nên hư hại và viêm do
chấn động cơ học bất thường hoặc tái diễn. Quá trình viêm lúc đó có thể
lan tới các gân hay bao hoạt dịch khác và cuối cùng toàn bộ bao khớp
và khớp cùng vai- đòn (AC). Bệnh nhân có biểu hiện đau ở bất cứ bộ
phận nào của các cấu trúc này. Các trạng thái đó thường thấy nhiều
hơn ở tuổi trung niên "vận động viên cuối tuần", ở bệnh nhân ở lứa tuổi
50-60, ở phụ nữ và về những tháng mùa đông, quá trình bệnh chỉ ở một
bên chiếm 75% các Bảng 42.1 và hình 42.2 là để tóm tắt các bệnh cảnh

lâm sàng, nhằm giúp cho sự phân biệt những rối loạn trùng lặp trên.
Bảng 42.1. Những đầu mối khám xét để tìm ra nguyên nhân
thường có của chứng đau vai.
Vấn đề Kỹ thuật khám xét Điều tìm ra
Viêm gân cơ nhị đầu Quay cánh tay hay
vai ra ngoài
Đau nhức ở rãnh nhị
đầu
Viêm gân trên gai Quay cánh tay hay
vai ra ngoài, dạng cánh tay
Đau khi vận động
theo hướng này (cung gây
đau từ 45 đến 120° )
Viêm bao hoạt dịch
dưới mỏm cùng vai
Quay cánh tay hay
vai vào trong, dạng cánh
tay
Đau khi vận động
theo hướng này (cung gây
đau từ 45 đến 120° )
Hội chứng ống quay Thử tính di động trên
tất cả các hướng
Cử động trên tất cả
các hướng đều đau.


Hình 42.2. Chỗ đau nhức trong các bệnh sau đây:
a- Viêm bao hoạt dịch dưới cơ Delta
b- Viêm gân cơ nhị đầu

c- Viêm bao khớp dính
Viêm bao hoạt dịch là một chứng viêm, thường kèm theo thoát
dịch ít, của một hay vài bao hoạt dịch ở trong hay xung quanh khớp vai.
Bình thường bao hoạt dịch đem lại cơ chế bôi trơn làm cho vận động cơ
dễ dàng ở khớp vai. Viêm bao hoạt dịch thường là do những chấn
thương nhỏ tích tụ lại. Chứng này bắt đầu thường chậm chạp và tình
trạng dai dẳng lúc tǎng lúc giảm trong thời gian tới 2 nǎm. Bệnh thuyên
giảm cũng chậm.
Viêm gân là chứng viêm của chân bám của gân thuộc các cơ khớp
vai, có thể bị xé rách một phần hoặc không. Hội chứng ống quay gồm:
viêm, bong gân, thoái hóa bao khớp vai ở chỗ được tǎng cường bởi các
bao gân của cơ.
ở tuổi 50, gần-25 % số người bị hư tổn hoặc rách ống quay làm
cho nó dễ bị chấn thương. ở tuổi trung niên, rách toàn bộ hay một phần
của ống thường thấy cánh tay rơi xuống khi dạng ra. Bệnh nhân thấy
đau chói và kêu cánh tay bị yếu, giải vận động giảm, và đau ở các giới
hạn khi quay tay vào trong hay quay ra ngoài. Rách một phần ống quay
thường gắn liền với các rối loạn viêm hay thoái hóa của vai.
"Viêm dính bao khớp" (vai cứng đờ) xuất biện do giảm đáng kể
thể tích của khớp cánh tay - bả vai, với bao khớp dầy ra và thít chặt lại.
Tỷ suất mắc cao nhất ở tuổi từ 50 đến 170, phụ nữ mắc nhiều hơn.
Nguyên nhân có thể là chấn thương, nhưng dính bao khớp thường xảy
ra do bất động. Thiếu vận động vai thường do một tình trạng như đột
quỵ (stroke) hay gãy cánh tay. Trong khoảng ít ra từ 2 đến 4 tuần lễ,
đặc biệt ở người già, bất động sẽ gây ra chứng khớp vai chặt cứng và
đau.
Một loại viêm dính bao khớp âm thầm hơn là khi kết hợp với
những chứng bệnh lâm sàng như nhồi máu cơ tim ở tim, truyền dịch
tĩnh mạch kéo dài, bệnh tuyến giáp, đái đường và trầm cảm.
Triệu chứng gồm mất vận động toàn thể và đau mãn tính. Triệu

chứng phát triển trong nhiều tháng và kéo dài tới 2 nǎm. Khám thấy
hạn chế vận động chủ động hay thụ động trên tất cả các hướng, khi sờ
nắn thường rất ít gây đau nhức.
Mặc dù đau vai thường gây ra bởi các rối loạn cơ - xương của vai
và cổ, nhưng cũng có thể xuất phát từ các cấu trúc ngoài vai, chẳng hạn
các đốt sống cổ, tim, phổi, cơ hoành. Bảng 42.2. giúp việc chẩn đoán
phân biệt đầy đủ hơn chứng đau vai.
Bảng 42.2. Chẩn đoán phân biệt chứng đau vai
Chấn thương Bệnh hệ thống
- Sai khớp cấp và mạn tính
- Gẫy xương: cánh tay, xương đòn,
mỏm quạ.
- Rách ống quay
Chèn ép dây thần kinh ở đám rối cánh
tay.
Chèn ép thần kinh ở rễ thần kinh ở đĩa
sống C4-C6
Các bệnh viêm: gút, giả gút, viêm
khớp nhiễm trùng, đau nhiều cơ do thấp
khớp, viêm khớp dạng thấp.
Ung thư: : Nguyên phát di cǎn
Các hội chứng cơ xương Bệnh của thần kinh - mạch máu
- Viêm khớp thoái hóa
Viêm xương khớp của khớp bả - cánh
tay, cùng vai đòn.
Tổn thương đám rối cánh tay.
Hội chứng thoát lồng ngực
- Viêm gân cơ nhị đầu Chèn ép rễ thần kinh cổ.
- Hội chứng ống quay Hội chứng/loạn dưỡng phản xạ
giao cảm

Viêm bao hoạt dịch tính dưới mỏm
cùng vai

Các hội chứng cơ - mac
ĐáNH GIá LÂM SàNG
Bệnh
Đau vai cấp tính thường do chấn thương (chẳng hạn cú đánh trực
tiếp, ngã khi cánh tay duỗi, sử dụng một vật không bình thường nhưng
tiếp diễn (như quét dọn), hoặc chèn ép rễ thần kinh cổ cấp tính (như đĩa
sống bị vỡ). Thông thường hơn, cả đau và giảm vận động tiến triển
trong vài tuần lễ. Trong các bệnh thoái hóa, đau có thể xuất hiện từ từ
và có thể dao động trong nhiều tuần hay nhiều tháng. Thường thường
trong các quá trình thoái hóa, sự vận động nào đó của khớp vẫn còn và
bệnh nhân kêu ca về đau trong một số cử động đặc biệt nào đó hơn là về
hạn chế vận động.
Xem cách phân bố điểm đau có thể đem lại những manh mối có
giá trị trong chẩn đoán xác định. Đau từ bất cứ phần nào của tổ chức
khớp vai, trừ khớp mỏm cùng vai- đòn, đều có thể đối chiếu dọc theo
cùng một vùng khúc bì gồm vai và mặt bên của cánh tay tới tận bàn tay.
Trong các bệnh khớp bao quanh bao khớp và gân, chứng đau sớm nhất
và mạnh mẽ nhất thường thấy ở cơ Delta. Sau đó, nó có thể lan ra toàn
bộ vai, lan xuống mặt bên hay mặt trước cánh tay.
Khám thực thể
Kiểm tra khớp vai xem có sưng và đối xứng không, sờ nắn các
vùng đau, thử các cử động chủ động và thụ động, so sánh với bên vai
lành. Thử sự chuyển động bao gồm dạng: khép, gập, duỗi, quay vòng và
quay vào trong, quay ra ngoài. Khám các động tác bị động do thầy
thuốc tiến hành trên bệnh nhân. Các vận động chủ động chỉ do bệnh
nhân thực hiện.
Chỉ đau khi vận động chủ động hàm ý cơ và bao hoạt dịch là

nguyên nhân chính của đau hơn là bản thân khớp. Đau với chỉ một
động tác gợi ra rằng vấn đề với cơ hay gân liên quan chủ yếu với động
tác đó. Chẳng hạn, đau khi bắt đầu dạng, sau đó giảm đi khi góc dạng
tǎng lên, như vậy là do cơ trên gai . Đau khi cử động thụ động, việc giải
thích cần phải thận trọng. Nó có thể do vận động của các gân hay bao
hoạt dịch bị viêm hay sự chuyển động của bản thân bao khớp bị hạn
chế. Bạn càng hiểu biết kỹ giải phẫu của khớp này, bạn càng có thể
chẩn đoán chính xác khi khám xét lâm sàng.
Cần phải khám thêm cổ và khám xét sàng lọc thần kinh cánh tay
(xem chương 41 "Đau cổ").
Xử TRí NHữNG CHứNG THÔNG THƯờNG
Hội chứng cơ - mac:
Chữa chứng đau cơ - cân bắt đầu bằng việc xác định những yếu tố
gây ra như chiều cao ghế hay cái tựa lưng không đúng đối với một công
chức bàn giấy, một tư thế đặc biệt khi làm việc hay học tập, một cách
làm việc khác thường lặp đi lặp lại, chẳng hạn nâng cao quá đầu trong
dây chuyền lắp ráp. Sự phân tích này có thể mất thì giờ và phải đưa ra
một sự tưởng tượng nào đó, nhưng điều đó rất quan trọng để chữa trị
thành công, vai sẽ ngừng bị làm thương tổn chỉ khi nào bệnh nhân
ngừng làm cái việc gây ra thương tổn đó.
Hội chứng cơ - mac cần được điều trị như các rối loạn cơ - xương
có liên quan tới việc sử dụng: đắp nóng tại chỗ, xoa bóp, các vận động
chủ động, tập luyện kéo dây cǎng. Nhưng việc điều trị quan trọng nhất
là huấn luyện cho bệnh nhân sử dụng các động tác khác nhau để tiến
hành nhưng công việc đang gây ra rối loạn chức nǎng cơ. Các chất thư
giãn không chứng tỏ có hiệu quả. Nếu tìm thấy các điểm nổ (điểm ấn
vào đau). có thể gây tê bằng tiêm 5-10 ml dung dịch Xylocaine 1%, dùng
kim dài 1-1/2 inch, cỡ 22. Cách này sẽ cắt cơn đau, cơn co thắt, các chấn
động (stress) và chu kỳ đau và thường làm dịu đau lâu dài. Nếu lần tiêm
đầu không có tác dụng giảm đau mĩ mãn, có thể tiêm lần thứ hai. Nếu

hai lần tiêm cũng không làm dịu thì cần phải đánh giá lại chẩn đoán của
bạn. Một vài kỹ thuật khác, hay dùng nhất là xoa bóp sâu, kéo cǎng các
cơ bị đau một cách thụ động và tập luyện các cơ khác, sẽ do các nhà vật
lý trị liệu có kỹ nǎng nghề nghiệp giảng dạy và các hội chứng sử dụng
quá mức khác.
Viêm bao hoạt dịch, viêm gân, và hội chứng ống quay
Viêm bao hoạt dịch, viêm gân và hội chứng ống quay là những
chẩn đoán lâm sàng. Nếu không đau và mất khả nǎng kéo dài từ trên 4
tuần đến 6 tuần thì không thể chẩn đoán ra, trong những trường hợp đó
phải có thêm phim X-quang các khớp vai. Hình ảnh X-quang có thể
bình thường hay có biến đổi thoái hóa ở khớp hay có những chỗ lắng
đọng can-xi ở gân cơ trên gai. Những bệnh nhân với triệu chứng và dấu
hiệu của tổn thương nặng, cấp tính của ống quay vòng cầu làm khớp đồ
(arthrogram) vì nếu được sửa chữa bằng phẫu thuật sớm, thường trong
vòng 2 tuần lễ, sẽ đem lại kết quả tốt nhất.
Chỗ dựa chính của điều trị là sau một thời gian nghỉ ngắn, tiến
hành lý liệu pháp điều trị, như vậy sẽ giúp cho sự hồi phục của vận động
bình thường trước khi sự yếu ớt và cứng đờ làm trẩm trọng thêm vấn
đề. Tuy nhiên, rõ ràng nếu vận động lại sóm, thực sự sẽ thúc đẩy sự
lành lại của các tổ chức quanh khớp đã bị tổn thương. Ngoài ra, tiêm
thuốc loại steroid ngay vào tổ chức quanh khớp sẽ có lợi nếu xác định
được vùng viêm cục bộ. Sau khi đã xác định được, tiêm Xylocaine 1%
để xác định xem việc định khu của bạn có đúng không. Đau sẽ dịu đi
ngay. Nếu như vậy, tiêm một liều tương đương 40 mg Prednison dưới
dạng steroid kết tinh (Colestone, Aristocort, Depo-medrol) pha lẫn với
1-2 ml Xylocaine 1%. Cần báo cho bệnh nhân biết là đau ở vai có thể
tǎng lên trong khoảng 12 giờ sau khi tiêm, vì sự bắt đầu của phản ứng
steroid là ở khoảng 12 và 36 giờ. Vấn đề này có thể tránh được bằng sử
dụng thuốc tê tại chỗ có hiệu lực dài, chẳng hạn Mercaine thay cho
Xylocaine. Nếu tiêm liên tiếp steroid vào cùng một chỗ có thể gây ra teo

hay rách gân, do đó trong khoảng thời gian 12 tháng không cho quá 2
đến 3 lần tiêm.
Vật lý trị liệu có thể gồm những cách làm mất đau như chườm
nóng tại chỗ, hoặc chườm đá lạnh, xoa bóp, nhưng cần phải hiểu rằng
những cách đó chỉ dùng để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho bệnh nhân
bắt đầu tập luyện chủ động và bị động. Bệnh nhân có thể chườm nóng
hay lạnh ở nhà một cách hoàn toàn tốt. Vai trò của nhà vật ly trị liệu là
giúp phục hồi chức nǎng, không chỉ là chữa chứng đau. Tiêu chuẩn để
gửi đến tham vấn bác sĩ vật lý trị liệu phần lớn là do cá nhân quyết định
và tuỳ thuộc vào một số yếu tố như việc vật lý trị liệu có sẵn và thuận
tiện hay không, thầy thuốc gia đình có muốn thực hiện phần này của kế
hoạch điều trị hay không. Tập luyện cho bệnh nhân được trình bày ở
hình 42.3.











Hình 42.3. Tập luyện vai
Mỗi động tác làm 3 lần, mỗi ngày tập 3 chuyến.
A. Tập quay vòng (vật đu đưa):
Một tay nắm một trọng lượng 0.5 đến 1 kg (chẳng hạn một túi
chứa sỏi), cánh tay chĩa xuống sàn nhà. Giữ người cho chắc, tay kia vịn
vào bàn. Quay theo 2 chiều, rồi đưa theo đường thẳng bên cạnh, rồi qua

trước mặt.
B. Kéo cán chổi:
Cầm một cái gậy, mức để so sánh, hay cái chổi.
1- Mỗi tay nắm một đầu gậy, đưa gậy sang một bên, rồi đưa sang
bên kia, dùng tay khoẻ đẩy nhẹ tay yếu hơn.
2- Bàn tay và vai rộng cách nhau, đưa cánh tay lên đầu: làm động
tác này khi nằm và dần dần đứng dậy.
C. Ngón tay bò lên:
1 - Đứng trước một bức tường, cho ngón tay bò lên càng cao càng
tốt. Đánh dấu bằng bút chì và ghi ngày tháng. Hàng tuần ghi chép sự
tiến bộ.
2- Quay bên yêu về phía tường, ngón tay bò lên phía trên, cánh
tay nằm ngang. Hàng tuần cũng ghi chép sự tiến bộ.
D. Kéo khǎn tắm:
1- sau khi tắm hoặc tắm bằng hoa sen, nắm chắc hai đầu khǎn
tắm như thể để lau khô lưng; cánh tay yếu để ở eo lưng, tay khoẻ kéo
lên xuống và ra ngoài.
2- Đổi vị trí, kéo tay yếu từ đỉnh vai xuống, hướng về phía sau eo
lưng.
E. Luyện tập dòng dọc:
Lắp một dòng dọc ở trên đầu (trên một khung cửa hoạt động tốt).
Dùng một dây thừng dài khoảng 3m, ở 2 đầu dây có vòng để cầm.
1- Ngồi tập: đưa tay lên trên đầu, dùng tay khỏe kéo tay yếu hay
tay cứng
2- Ngồi nghiêng trên ghế, rồi kéo tay cứng sang khuỷu tay thẳng.
F. Tǎng cường cơ:
Nằm ngửa, tay duỗi xuôi bên cạnh người, nắm một trọng lượng
trong tay. Giữ khuỷu tay thẳng, nâng bàn tay lên đủ để tách dời trọng
lượng ra. Nâng theo 3 tư thế: A: lòng bàn tay úp xuống; B: ngón tay cái
lên phía trên; C: lòng bàn tay ngửa lên. Tǎng dần trọng lượng lên từ 0.5

đến 2.5 kg.
Nếu muốn dùng thuốc, trước hết cần lựa chọn kỹ càng, đặc biệt
nếu dự định một quá trình điều trị kéo dài. Acetaminophene và các dẫn
xuất của Propoxyphen làm giảm đau nhưng không có lác dụng chống
viêm.
Các thuốc chống viêm không phải steroid (NSAIDs) thường dùng
rộng rãi cho các hội chứng cơ xương của khớp, mặc dầu không có
nhưng nghiên cứu kiểm chứng tốt cho biết những ích lợi có ý nghĩa của
các thuốc này, trừ trường hợp viêm cấp tính.
Các thuốc vừa làm giảm đau vừa chống viêm có thể cho điều trị
thử trong 1 đến 2 tuần lễ. Không có một thứ thuốc nào được xác định là
tốt hơn thứ khác. Salicylat (cách 6 giờ, uống 600 đến 900 mg) không đắt
tiền và có hiệu quả. Những thuốc NSAIDs khác thường được dùng bao
gồm Ibuprofen (Motrin), Sulindac (Clinoril), Naproxen (Naprosyn) và
Indomethacin (Indocin).
Bệnh nhân có thể trả lời thứ NSAIDs này tốt hơn thứ khác, vì vậy
phải đổi thuốc nếu ban đầu không thấy đỡ.
Các thuốc này có thể có tác dụng phụ (khó tiêu, xước dạ dày, và
nổi ban) nên cùng với bệnh nhân rà soát lại trước khi kê đơn. Bảng
42.3. tóm tắt liều dùng với tác dụng phụ của một số NSAIDs thường
được cho đơn.
*
Triệu chứng tiêu hóa: khó tiêu, buồn nôn, xước dạ dày; Máu:
giảm bạch cầu loạn sản; Tâm thần: chóng mặt, đặc biệt ở người già,
nhức đầu; Thận: phù, chức nǎng suy yếu và viêm thận kẽ.
(*)NSAIDs: Nonsteroidal Anti-inflammatory Drugs
Viêm bao khớp dính (Adhesive capsulitis).
Với chẩn đoán viêm dính bao khớp, thì ở bệnh nhân tuổi cao
thường rất có khả nǎng tiềm ẩn một bệnh thực thể hay khối u tân sinh.
Do đó, khám xét thực thể chung và có thể làm xét nghiệm, chụp X-

quang. Chụp khớp, nếu làm sẽ có biểu hiện giảm mạnh ổ khớp và có
những chỗ xốp xương. Điều trị bằng đắp nóng, thuốc chống đau, chủ
động tập luyện. Cần hỏi ý kiến bác sĩ vật lý trị liệu sớm, để bảo tồn sự
vận động càng nhiều càng tốt.
Viêm xương khớp thoái hóa
Viêm xương khớp thoái hóa thường gắn với viêm xương khớp của
các khớp khác như đầu gối, xương chậu, các ngón tay. Thường gặp ở
bệnh nhân nhiều tuổi hay ở những người có tiền sử tổn thương vai
trước đây (trật khớp hay gẫy xương). Thông thường bệnh nhân kêu đau
nhức từng đợt, mạn tính, thường ở cả 2 vai. Mỗi khi thời tiết ẩm ướt
hay lạnh, bệnh nhân thấy tồi tệ hơn. Chứng đau có xu hướng khư trú lại
ở khớp và không chuyển xuống tay. Cử động có thể hơi hạn chế nhưng
không ở một hướng đặc biệt nào. Tiếng kêu rǎng rắc thường cảm thấy ở
khớp khi vận động.
Phim X-quang có thể giúp làm sáng tỏ mức độ nặng nhẹ của quá
trình xương khớp và loại trừ những rối loạn khác hiếm gặp hơn, chẳng
hạn bệnh Gút, bệnh chất hoạt dịch trong suốt và viêm khớp dạng thấp.
Đếm máu và thử tốc độ huyết trầm cũng có ích lợi. Như một quy luật
chung, một chứng đau khớp cấp tính bùng lên cần có một thời gian nghỉ
ngắn, đắp nóng, thuốc chống viêm. Một chương trình tập luyện lâu dài
có thể làm giảm bớt tình trạng mạn tính, tiềm tàng.
Những nguyên nhân khác của chứng đau vai
Khớp vai có thể bị ảnh hưởng của nhiễm khuẩn, khớp viêm, bệnh
chuyển hóa hay ung thư. Đau vai có thể chuyển từ các cấu chức ngoài
vai, chẳng hạn đốt sống cổ, tim, phổi hay cơ hoành. Thông thường, tiền
sử của bệnh nhân và khám xét lâm sàng sẽ cung cáp những chứng cứ
mạnh mẽ về những nguyên nhân nói trên và gợi ra những thǎm dò
chuyên biệt khác.


×