Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Các tật khúc xạ của mắt pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.16 KB, 7 trang )

Các tật khúc xạ của mắt

Chức năng của mắt là giúp cho chúng ta nhìn rõ được những vật
ở xung quanh. Mắt bình thường (hay còn gọi là mắt chính thị, mắt
không có tật khúc xạ) là mắt có hình ảnh của vật hội tụ đúng trên võng
mạc và chỉ khi đó thì vật mới được nhìn rõ. Khi mắt không có khả năng
hội tụ một cách chính xác những tia sáng đi từ ngoài vào mắt đúng trên
võng mạc thì gọi là mắt có tật khúc xạ.
Các loại tật khúc xạ thường gặp ở trẻ em là: cận thị, viễn thị, loạn thị
và chênh lệch khúc xạ giữa hai mắt (lệch khúc xạ). Ở người lớn tuổi (ngoài
40 tuổi trở ra) khi khả năng điều tiết của mắt suy giảm thì mắt còn bị lão thị.




Cận thị

Hình ảnh cận thị
Mắt cận thị là mắt có trục nhãn cầu dài hơn bình thường hoặc công
suất khúc xạ quá lớn, khi đó hình ảnh của vật sẽ hội tụ ở phía trước của võng
mạc. Người bị cận thị nhìn xa mờ nhưng nhìn gần vẫn rõ nhờ vào chức năng
điều tiết của mắt trừ khi cận thị quá nặng. Cận thị có thể là bẩm sinh (thường
là cận thị nặng) hay mắc phải do quá trình phát triển (thường xuất hiện lúc
trẻ 7-10 tuổi). Cả hai dạng cận thị đều có xu hướng tăng dần nên cần thiết
phải kiểm tra khúc xạ thường xuyên định kỳ (từ 6-12 tháng/lần tuỳ theo sự
tiến triển của cận thị) để thay đổi số kính đeo thích hợp. Điều chỉnh mắt cận
thị là đeo kính phân kỳ (thường được kí hiệu là dấu trừ ở trước số kính đeo)
để giúp cho ảnh của vật hội tụ đúng vào võng mạc và khi đó vật sẽ được
nhìn rõ.



Viễn thị:

Hình ảnh viễn thị
Mắt viễn thị ngược lại với mắt cận thị là mắt có trục nhãn cầu ngắn
hơn bình thường và khi đó hình ảnh của vật nằm ở phía sau của võng mạc.
Người bị viễn thị nhìn xa rõ hơn nhìn gần tuy nhiên nếu bị viễn thị nặng thì
người bệnh nhìn mờ cả khi nhìn xa và khi nhìn gần. Phần lớn ở trẻ nhỏ trong
những năm đầu là viễn thị và không cần phải đeo kính do khả năng điều tiết
của mắt (viễn thị sinh lí). Tuy nhiên khi mức độ viễn thị vượt quá khả năng
điều tiết của mắt thì có thể gây ra nhìn mờ, gây lác mắt hoặc các triệu chứng
cơ năng khác như: khó chịu, nhức đầu, hay phải nheo mắt để nhìn Cần lưu
ý là mắt viễn thị thường gây nhược thị và có thể là yếu tố gây ra lác điều tiết
nên cần phải được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Điều chỉnh viễn thị
bằng đeo kính hội tụ (thường được kí hiệu bằng dấu cộng ở trước số kính
đeo) để kéo ảnh của vật về đúng trên võng mạc và khi đó người bệnh nhìn
rõ.
Loạn thị:

Hình ảnh loạn thị
Mắt loạn thị là mắt có các kinh tuyến khúc xạ không đều nhau. Vật
nhìn không in hình rõ nét trên võng mạc và người bệnh nhìn mờ cả xa và
gần. Trẻ bị loạn thị thường nhìn mờ khi nhìn lên bảng hay hay đọc nhầm
chẳng hạn như chữ H đọc thành chữ N, chữ B đọc thành chữ H, chữ I đọc
thành chữ T … Loạn thị có thể là đơn thuần hoặc phối hợp với cận thị (loạn
thị cận), viễn thị (loạn thị viễn) hay cả loạn thị cận và viễn (loạn thị hỗn
hợp). Điều chỉnh mắt loạn thị bằng cách đeo kính trụ.
Lệch khúc xạ:
Lệch khúc xạ là hiện tượng có sự khác nhau về khúc xạ giữa hai mắt
có thể là một mắt cận còn mắt kia viễn hoặc cả hai mắt cùng cận hay cùng
viễn nhưng khác nhau về mức độ. Đôi khi là một mắt chính thị còn mắt kia

là cận thị đơn thuần, viễn thị đơn thuần hay cận thị loạn hoặc là viễn thị
loạn. Điều đó có thể gây ra nhược thị do thị lực ở mắt có tật khúc xạ lớn hơn
phát triển không bình thường. Trong điều trị ngoài việc kính đeo ra thì đôi
khi bịt mắt là cần thiết để đảm bảo cho cả hai mắt cùng nhìn rõ.
Lão thị:
Thông thường chúng ta có thể nhìn rõ cả khi nhìn xa và nhìn gần được
là nhờ có chức năng điều tiết của mắt. Điều tiết là cơ chế để mắt thay đổi
công suất khúc xạ bằng cách thay đổi hình dạng thể thuỷ tinh để giúp cho
hình ảnh của vật luôn nằm đúng trên võng mạc. Khi tuổi càng cao thể thuỷ
tinh mất dần độ đàn hồi do đó khả năng điều tiết giảm dần nên bệnh nhân
không nhìn rõ khi nhìn gần và phải đưa ra xa mắt để đọc hay nhìn cho rõ.
Khi đó người bệnh bị lão thị và cần đeo kính hội tụ (kính cộng) để giúp cho
nhìn gần được rõ nét.
Nhìn chung mắt có tật khúc xạ thường là mắt có thị lực kém và ở trẻ
em thường biểu hiện bằng nheo mắt, nghiêng đầu vẹo cổ khi nhìn, đôi khi có
thể có nhức đầu nhức mắt… Trong lớp học trẻ nhìn không rõ trên bảng, hay
cúi đầu lại gần sách để nhìn cho rõ, hay chép nhầm bài, đọc nhầm chữ thậm
chí còn có thể ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Những trường hợp này cần
được phát hiện sớm và gửi đi khám bác sĩ mắt để có phương hướng điều trị
thích hợp. Trẻ có tật khúc xạ cần phải đeo kính thường xuyên để giúp cho
trẻ nhìn rõ và tạo điều kiện cho sự phát triển hoàn thiện chức năng thị giác
của mắt. Cũng cần phải nhớ rằng do trẻ còn đang phát triển, khúc xạ ở mắt
của trẻ còn thay đổi nên cần phải đưa trẻ đi khám thường xuyên theo định kỳ
và thay đổi số kính đeo cho phù hợp với tình trạng khúc xạ của mắt trẻ.
Ngoài ra trẻ cũng phải tuân thủ đầy đủ chế độ vệ sinh học đường như tư thế
ngồi học, bàn ghế bảng đen, ánh sáng phòng học, chế độ giải lao vui chơi
giải trí và dinh dưõng hợp lí để không bị mắc phải cận thị học đường hoặc
nếu có bị những tật khúc xạ bẩm sinh thì cũng không bị nặng hơn gây ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống sau này.
Theo nghiên cứu mới nhất của Bệnh viện Mắt TP.HCM năm 2005, tỉ

lệ tật khúc xạ (cận thị, loạn thị, viễn thị ) của học sinh tại TP.HCM là
42,7%, trong đó tật cận thị chiếm 41,2%.
Trong khi đó, năm 2005 Trung tâm Sức khỏe lao động và môi trường
TP.HCM khám mắt cho 5.000 học sinh cấp II thì phát hiện 52% trong số này
bị tật khúc xạ mắt, có trường tỉ lệ này chiếm đến 74%. Một con số thống kê
khác cho thấy, tỉ lệ cận thị học đường nói chung hiện nay chiếm tới 20% số
học sinh, sinh viên.
Theo các nhà chuyên môn, trong 100 trường hợp cận thị thì chỉ
khoảng 30%-35% cận thị bệnh lý do di truyền (chỉ yếu tố gia đình), còn
65%-70% cận thị là do mắc phải.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hiện vấn đề vẫn chưa được sự
quan tâm của người dân. Hiện cứ 1/3 dân số thế giới (hơn 2 tỷ người) bị tật
khúc xạ, đa phần là cận thị. Khoảng 37 triệu người mù và 124 triệu người thị
lực thấp có nguy cơ dẫn đến mù.

×