Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bai tieu luan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.05 KB, 18 trang )

Tiểu luận Kiểm toán căn bản GVHD:Th.S, NCS Hồ Tuấn Vũ
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kiểm toán đã có lịch sử phát triển lâu dài và gắn liền với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của loài người để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của xã hội.
Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã tìm được tiếng nói
chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực trình bầy về tình hình tài
chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá, lựa chọn đối tác kinh
doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước ngoài, nếu nhà đầu tư nước
ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình tài chính của một
doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc kiểm toán sẽ
hiệu quả và rẻ hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm phán, tự chứng
minh về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan của kiểm toán luôn
đáng tin cậy hơn. Có thể thấy rằng vai trò của Kiểm toán ngày càng được thể hiện rõ
trong cuộc sống. Từ đó, ta thấy được vai trò quan trọng của những kiểm toán viên. Kiểm
toán viên phải có đầy đủ năng lực và độc lập để có thể thực hiện cuộc kiểm toán bảo
đảm chất lượng. Năng lực của kiểm toán viên là trình độ nghiệp vụ được hình thành qua
đào tạo và tích lũy kinh nghiệm, giúp cho kiểm toán viên có khả năng xét đoán công
việc trong từng trường hợp cụ thể. Việc chứng thực cũng như đánh giá năng lực của các
kiểm toán viên ngoài kinh nghiệm thực tế qua công việc còn được thể hiện ở bằng cấp
và các chứng chỉ trong lĩnh vực kiểm toán.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều các loại bằng cấp, chứng chỉ về lĩnh vực về
kiểm toán. Ở mỗi quốc gia, mỗi tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán sẽ có những Luật
định và có hệ thống quản lý, đạo tạo riêng. Tuy nhiên, tất cả đều có chung những chuẩn
mực về kế toán và kiểm toán để đảm bảo tính thống nhất trên toàn cầu.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Các bằng cấp và chứng chỉ trong lĩnh vực kiểm toán
trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay” làm bài tiểu luận cho mình. Vì thời gian nghiên
cứu có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót, tôi mong sẽ nhận được ý kiến đóng
góp của giáo viên bộ môn để tôi bổ sung thêm kiến thức cho mình.
SVTH: Võ Thị Lan Phương – Lớp: B17KDN1 Trang 1
Tiểu luận Kiểm toán căn bản GVHD:Th.S, NCS Hồ Tuấn Vũ
NỘI DUNG


I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1 Lịch sử hình thành và sự phát triển của hoạt động kiểm toán trên thế giới và
ở Việt Nam:
1.1.1 Trên thế giới:
Kiểm toán là một hoạt động đã có từ rất lâu đời kể từ thời mà các thông tin được
phê chuẩn bằng cách đọc lên trong một buổi họp công khai, vì thế từ gốc của thuật ngữ
kiểm toán (audit) theo tiếng La Tinh là “auditus” có nghĩa là “nghe”. Từ thời trung cổ,
kiểm toán đã được thực hiện để kiểm tra về tính chính xác của thông tin tài chính, trong
giai đoạn này chủ yếu là sự phát triển của kiểm toán tuân thủ do các kiểm toán viên của
nhà nước và kiểm toán viên nội bộ thực hiện. Sau này, với sự ra đời của thị trường
chứng khoán và công ty cổ phần, cũng như do sự mở rộng quy mô của các doanh
nghiệp, nên dần dần đã dẫn đến sự tách rời giữa quyền sở hữu của các cổ đông và chức
năng điều hành của các nhà quản lý. Từ đó đã xuất hiện nhu cầu kiểm tra của các chủ sở
hữu để chống lại sự gian lận của các nhà quản lý lẫn những người làm công, vì thế kiểm
toán độc lập đã được ra đời vào thế kỷ 18 để đáp ứng cho nhu cầu này.
Đến đầu thế kỷ 20, nền kinh tế thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ với sự
xuất hiện của hàng triệu nhà đầu tư chứng khoán. Vì thế, trong khi mục đích của kiểm
toán của nhà nước và kiểm toán nội bộ không có sự thay đổi đáng kể, kiểm toán độc lập
báo cáo tài chính từ mục đích phát hiện sai phạm đã chuyển sang mục đích mới là nhận
xét về mức độ trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính, và lúc này kết quả kiểm
toán chủ yếu phục vụ cho các bên thứ ba để giúp họ đánh giá về độ tin cậy của báo cáo
tài chính. Để đạt được mục đích trên, thông qua quá trình nghiên cứu và hoạt động thực
tiễn, dần dần những tổ chưc nghề nghiệp, các tổ chức kiểm toán độc lập và kiểm toán
viên đã hình thàng nên những phương thức kiểm tra mới. Đó là việc xây dựng và phát
triển của kỹ thuật lấy mẫu, vấn đề đánh giá hệ thống nội bộ và hình thành các kỹ thuật
kiểm toán bằng máy tính. Chúng ta có thể hình dung khái quát các vấn đề này như sau :
Kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán được chấp nhận áp dụng vào đầu thế kỷ 20, khi mà
quy mô của các doanh nghiệp ngày càng mở rộng. Kỹ thuật này giúp cho kiểm toán viên
lựa chọn và kiểm tra một số nghiệp vụ thay vì phải kiểm tra toàn bộ, nhờ đó tiết kiệm
được thời gian và công sức, thế nhưng họ phải bảo đảm hợp lý là không để xảy ra các

sai lệch vượt quá mức trọng yếu, hay nói cách khác rủi ro nằm trong mức chấp nhận
được. Việc đánh giá về hệ thông kiểm soát nội bộ của đơn vị bắt đầu được quan tâm từ
SVTH: Võ Thị Lan Phương – Lớp: B17KDN1 Trang 2
Tiểu luận Kiểm toán căn bản GVHD:Th.S, NCS Hồ Tuấn Vũ
quá trình tích lũy kinh nghiệm khi áp dụng kỹ thuật lấy mẫu của các kiểm toán viên.
Kiểm soát nội bộ là hệ thống tự kiểm soát của đơn vị nhằm giúp họ bảo vệ tài sản, ghi
chép kế toán đúng đắn… Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là một điều quan trọng để
sử dụng tốt kỹ thuật lấy mẫu. Nhờ sự đánh giá này, kiểm toán viên sẽ xác định phạm vi
và phương hướng của những thủ tục kiểm toán.
Trong những hoạt động có kiểm soát nội bộ vững mạnh thì độ tin cậy của thông
tin sẽ cao, vì thế chuẩn mực kiểm toán cho phép kiểm toán viên được giảm bớt việc
kiểm tra chi tiết những khoản mục hay những nghiệp vụ có liên quan; còn ngược lại khi
kiểm soát nội bộ yếu kém, kiểm toán viên cần phải gia tăng việc kiểm tra chi tiết. Do
khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển nên số lượng đơn vị ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý ngày càng nhiều. Chính vì thế, kiểm toán viên phải tiếp cận và tìm hiểu
về hệ thống kiểm soát nội bộ trong môi trường xử lý số liệu bằng phương pháp điện tử,
và họ phải nghiên cứu để áp dụng các kỹ thuật để kiểm soát trong môi trường này.
Những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, vai trò của kiểm toán ngày càng tăng
lên do tiến trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nhất là thị trường vốn. Sự phát triển
lực lương của các nhà đầu tư quốc tế ra khỏi biên giới của các quốc gia lam tăng nhu
cầu bảo đảm độ tin cậy của báo cáo tài chính và các thông tin khác. Yêu cầu này thúc
đẩy việc mở rộng và nâng cao hơn nữa của chất lương kiểm toán. Chính vì thế đã hình
thành một số xu hướng nổi bật trong lĩnh vực kiểm toán vào những năm gần đây là :
Tăng cường tính độc lập của kiểm toán viên thông qua việc hạn chế khả năng
một tổ chức kiểm toán cung cấp cùng lúc nhiều dịch vụ cho một khách hàng. Nâng cao
trách nhiệm và khả năng của kiểm toán viên trong việc phát hiện các hành vi gian lận
gây ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính.
Mở rộng các kỹ thuật tiếp cận kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro. Kiểm toán
viên không thể chỉ quan tâm đến rủi ro tài chính mà còn phải tìm hiểu rủi ro kinh doang
của khách hàng để hoạch định kế hoạch và chương trình kiểm toán.

Mở rộng các dịch vụ kiểm tra ra ngoài hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính
truyền thống để phục vụ nhu cầu bảo đảm độ tin cậy của các thông tin khác nhau trong
giao dịch kinh tế.
I.1.2 Ở Việt Nam:
Hoạt động kiểm toán tại Việt Nam tuy đã có một lịch sử lâu dài, thế nhưng đến
trước thập niên 90, hoạt động này chủ yếu là do nhà nước tiến hành thông qua các công
tác kiểm tra kiểm toán. Phải đến cuối những năm 1980, khi Việt Nam từng bước chuyển
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là từ khi có Luật
Đầu Tư nước ngoài, chính sự xuất hiện của nhà đầu tư nước ngoài đã tạo nên nhu cầu về
SVTH: Võ Thị Lan Phương – Lớp: B17KDN1 Trang 3
Tiểu luận Kiểm toán căn bản GVHD:Th.S, NCS Hồ Tuấn Vũ
loại hình kiểm toán độc lập để kiểm toán các báo cáo tài chính.
Để phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới, vào đầu thập niên 90, hoạt động kiểm
toán độc lập tại Việt Nam đã bước đầu hình thành với sự ra đời của công ty kiểm toán
Việt Nam (VACO) vào tháng 5/1991. Sau đó nhiều công ty kiểm toán khác của Việt
Nam lần lượt được thành lập, cùng với sự có mặt của các công ty kiểm toán quốc tế và
công ty kiểm toán liên doanh. Khách hàng của các công ty kiểm toán cũng gia tăng
nhanh chóng và mở ra nhiều loại hình doanh nghiệp, như các doanh nghiệp nhà nước,
các công ty cổ phần có yết giá ở thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại…
Việt Nam cũng đã từng bước thể chế hóa hoạt động kiểm toán. Khởi đầu là vào
tháng 01/1994, chính phủ ban hành quy chế kiểm toán độc lập theo nghị định 07/CP
ngày 19/01/1994 và được hướng dẫn thực hiện với thông tư 22/TC/CĐKT ngày
19/03/1994 của Bộ Tài Chính. Thứ đến vào tháng 07/1994, cơ quan kiểm toán nhà nước
trực thuộc Chính Phủ được thành lập và hoạt động theo điều lệ tổ chức và hoạt động của
kiểm toán nhà nước. Tháng 10/1997, Bộ Tài Chính đã ban hành Quy Chế kiểm toán nội
bộ áp dụng tại các doanh nghiệp Nhà nước theo quyết định 832 TC/QĐ/CĐKT. Gần
đây, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004 về kiểm toán
độc lập để thay thế cho Nghị định 07/CP; sau đó Bộ Tài Chính đã ban hành thông tư
64/2004/TT-TC ngày 29/06/2004 để hướng dẫn thi hành nghi định 105/2004/NĐ-CP và
thay thế vào Thông tư 22/TC/CĐKT.

Việc nghiên cứu để xây dựng các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã được tiến
hành từ năm 1997. Đến tháng 9/1999, Bộ Tài Chính đã ban hành 04 chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam (VSA) đầu tiên và đến nay (01/2005) đã có 33 chuẩn mực kiểm toán
được ban hành. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho sự phát triển nghề nghiệp, Hội Kế toán
Việt Nam ( nay la Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam,viết tắt là VAA) đã được thành
lập vao năm 1994. Đến tháng 5/1998, VAA được kết nạp là thành viên chính thức thứ 7
của AFA ( Liên đoàn Kế toán ASEAN) và là thành viên thứ 130 của IFAC ( Liên đoàn
Kế toán Quốc tế). Ngoài ra, cơ quan kiểm toán nhà nước Việt Nam cũng đã là thành
viên của INTOSAI (Tổ chức Quốc tế các Cơ quan kiểm toán Tối cao). Đến tháng
4/2005, Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã được thành lập với tư
cách một tổ chức nghề nghiệp của kiểm toán viên hành nghề. VACPA là một thành viên
của VAA.
Tóm lại, trong những năm vừa qua, hệ thống kiểm toán Việt Nam đã hình thành
và phát triển cả về lượng và chất. Quá trình phát triển đó đã đặt nền tảng ban đầu cho
những bước phát triển trong tương lai cho ngành nghề này ở Việt Nam.
SVTH: Võ Thị Lan Phương – Lớp: B17KDN1 Trang 4
Tiểu luận Kiểm toán căn bản GVHD:Th.S, NCS Hồ Tuấn Vũ
II. CÁC BẰNG CẤP VÀ CHỨNG CHỈ TRONG LĨNH VỰC KIỂM TOÁN
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Các tổ chức kiểm toán:
Tổ chức nghề nghiệp của các kiểm toán viên được thành lập ở nhiều quốc gia.
Thành viên của tổ chức này bao gồm những kiểm toán viên, các tổ chức kiểm toán, và
nhiều tổ chức chuyên ngành khác như Phòng thương mại, Hiệp hội ngân hàng, Ủy ban
chứng khoán… Có những quốc gia chỉ thành lập một tổ chức nghề nghiệp, nhưng có
quốc gia lại đồng thời có nhiều tổ chức. Sau đây là một vài tổ chức nghề nghiệp tại một
số quốc gia:
- Hiệp hội kiểm toán viên Công chứng Hoa Kỳ (American Institute of Certified
Public Accountants – AICPA).
- Hiệp hội kế toán viên Công chứng Nhật (Japanese Institute of Certified Public
Accountants - JICPA).

- Hiệp hội Giám định viên kế toán Anh quốc và xứ Wales (Institute of Chartered
Accountants in England and Wales – ICAEW).
- Đoàn kiểm toán viên Đức (Wirchaftsprferkammer – WPK).
- Liên đoàn quốc gia các chuyên viên kế toán Pháp (Compagnie Nationale de
Commissaires aux Comptes – CNCC)…
Các tổ chức nghề nghiệp có thể được hình thành trên cơ sở tham gia tự nguyện
của các thành viên sau khi đạt được những tiêu chuẩn nhất định (thí dụ AICPA,
ICAE…) ; hoặc được quy định bắt buộc cho tất cả các cá nhân hành nghề kiểm toán (thí
dụ WPK, CNCC,…). Có những tổ chức đã thành lập cách đây hơn hàng trăm năm, thí
dụ như ICAEW, hay có tổ chức có số thành viên rất đông, chẳng hạn như AICPA có trên
300.000 hội viên. Những tổ chức này đã và đang là nhân tố quan trọng để phát triển
ngành kế toán nói chung, và ngành kiểm toán nói riêng. Tổ chức nghề nghiệp quốc gia
có thể bao gồm các ủy ban chuyên môn về kế toán, đào tạo, đạo đức nghề nghiệp… và
thường có các chức năng sau :
Tổ chức nghiên cứu và xuất bản các tài liệu về kiểm toán, nhằm giúp cho các
thành viên luôn tiếp cận được với các kiến thức mới để nâng cao trình độ. Ban hành
điều lệ đạo đức nghề nghiệp, và xử lý những vi phạm điều lệ của các thành viên. Quản
lý chất lượng hoạt động kiểm toán, bằng cách quy định người tiêu chuẩn kiểm tra chất
lượng, tổ chức kiểm tra chéo giữa các công ty kiểm toán.Tổ chức các kỳ thi cấp chứng
chỉ kế toán viên công chứng… Một số tổ chức nghề nghiệp còn có chức năng soạn thỏa
và ban hành các chuẩn mực nghề nghiệp (thí dụ AICPA, WPK,…), nhưng một số tổ
SVTH: Võ Thị Lan Phương – Lớp: B17KDN1 Trang 5
Tiểu luận Kiểm toán căn bản GVHD:Th.S, NCS Hồ Tuấn Vũ
chức khác chỉ tham gia hội đồng tư vấn cho nhà nước để ban hanh chuẩn mực (như
JICPA).
Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam được thành lập vào năm 1994 và là thành
viên của Hội đồng Quốc gia về Kế toán, một tổ chức được thành lập vào năm 1999 với
chức năng tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Tài Chính. Trong thời gian qua Hội kế toán và kiểm
toán Việt Nam đã tập trung thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến chuẩn mực và chế độ
kế toán, chuẩn mực kiểm toán, huấn luyện nghiệp vụ… Bên cạnh đó do sự phát triển

mạnh mẽ của hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam trong những năm gần đây, hội
kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã được thành lập vào tháng 04/2005.
Theo điều lệ, VACPA chủ yếu bao gồm các kiểm toán viên hành nghề tại Việt Nam, với
mục đích tập hợp, đoàn kết những người hành nghề kiểm toán; duy trì sự phát triển và
nâng cao trình độ kiểm toán viên hành nghề, chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, giữ
gìn phẩm chất đạo đức nghề nghiệp nhằm góp phần tích cực trong công tác quản lý kinh
tế, tài chính cho các doanh nghiệp và đất nước; mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập với
các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán ở các nước khu vực và thế giới. VACPA là
tổ chức thành viên của Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam, chịu sự quản ký về nghề
nghiệp của Bộ Tài Chính. Theo dự kiến, trong một vài năm tới, Bộ tài chính sẽ chyển
giao dần chức năng quản lý nghề nghiệp kế toán, kiểm toán mà Bộ tài chính đang thực
hiện nay cho Hội nghề nghiệp.
Liên đoàn Kế toán Quốc tế ( International Federation of Accountants – IFAC ) là
tổ chức phi Chính phủ bao gồm các tổ chức nghề nghiệp của nhiều quốc gia trên thế
giới. Ra đời vào ngày 07/10/1977, tính đến nay IFAC có 163 thành viên ở 119 nước, đại
diện cho hơn hai triệu kiểm toán viên trên toàn cầu. Mục tiêu chính của IFAC được nêu
rõ trong Hiến chương thành lập là : “ phát triển và tăng cường phối hợp nghiêp vụ kế
toán bằng các chuẩn mực hài hòa trên phạm vi toàn thế giới.” IFAC được lãnh đạo bởi
Hội đồng với sự giúp việc của Ủy ban điều hành và Ban thư ký. Ngoài ra IFAC còn có
bảy ủy ban trực thuộc để đảm nhận các nhiệm vụ cụ thể theo từng lĩnh vực, trong đó có
Ủy ban Quốc tế về Chuẩn mực Kiểm toán và Dịch vụ bảo đảm (International Auditing
and Assurance Standards Board – IAASB ) chịu trách nhiệm nâng cao tính thống nhất
của dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ có liên quan trên phạm vi toàn cầu. Ủy ban này
ban hành các chuẩn mực về kiểm toán và xác nhận, thúc đẩy chấp nhận các chuẩn mực
này trên toàn cầu. Các chuẩn mực quốc tế về kiểm toán được trình bày ở phụ lục II-A.
Một tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực nghề nghiệp là ủy ban Chuẩn mực Kế toán
Quốc tế (International Accounting Standards Board – IASB ), tiền thân của IASB là
IASC ( International Accounting Standatds Committe) được thành lập năm 1973. Tổ
SVTH: Võ Thị Lan Phương – Lớp: B17KDN1 Trang 6
Tiểu luận Kiểm toán căn bản GVHD:Th.S, NCS Hồ Tuấn Vũ

chức này soạn thảo và ban hành các chuẩn mực quốc tế về kiểm toán. Khi xây dựng các
chuẩn mực quốc tế, những tổ chức trên làm việc theo nguyên tắc là cố gắng dung hòa tối
đa các chuẩn mực và chính sách khác nhau của những quốc gia, nhằm giúp cho chúng
có thể được các thành viên tự nguyện chấp nhận và áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Nghĩa là IFAC và IASB tập trung tiêu chuẩn hóa về những vấn đề quan trọng và cố
gắng không phức tạp hóa các chuẩn mực làm cho chúng trở nên khó áp dụng trên thế
giới. Các chuẩn mực cũng thường xuyên được bổ sung và liên tục cập nhật để phù hợp
với sự phát triển chung và những yêu cầu của những quản lý hiện đại. Khi tham gia
IFAC và IASB các thành viên tại những quốc gia khác nhau đều có nghĩa vụ ủng hộ
công việc của IFAC và IASB bằng cách ấn hành những chuẩn mực quốc tế đã được
duyệt và phải nổ lực tốt nhất nhằm mục đích:
Bảo đảm rằng báo cáo tài chính được ban hành phải tuân thủ các chuẩn mực
quốc tế về các mặt quan trọng, và công bố việc tuân thủ này.
Thuyết phục các chính phủ và những tổ chức có trách nhiệm ban hành những
chuẩn mực quốc gia rằng báo cáo tài chính cần phải tuân thủ chuẩn mực quốc tế về các
mặt quan trọng.
Thuyết phục các cơ quan kiểm soát thị trường chứng khoán, cũng như cộng đồng
thương mại và kỹ nghệ rằng khi công bố báo cáo tài chính phải cần phải tuân theo chuẩn
mực quốc tế về mọi mặt quan trọng và phải công bố rõ về sự tuân thủ đó.
Bảo đảm rằng các kiểm toán viên cảm thấy thỏa mãn khi báo cáo tài chính đã tôn
trọng chuẩn mực quốc tế trên những phương diện trọng yếu.
Khuyến khích việc công nhận và tôn trọng hệ thống chuẩn mực quốc tế trên bình
diện thế giới. Nói cách khác, tuy các chuẩn mực quốc tế không mang tính chất cưỡng
chế, thế nhưng do lợi ích của chúng, nên hầu hết các tổ chức thành viên ở những quốc
gia đều nổ lực tìm cách đạt được sự hòa hợp với các chuẩn mực quốc tế, thông qua việc
sữa đổi, bổ sung hệ thống chuẩn mực hay chế độ về kế toán và kiểm toán của quốc gia
mình. Bởi lẽ nhiều quốc gia nhận thức rằng việc tuân thủ chúng sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho chính họ; và chính nhờ việc thực hiện các nghĩa vụ trên ở từng quốc gia, đã dần
dần giúp cho kế toán trở thành ngôn ngữ chung trong kinh doanh quốc tế, cụ thể như tạo
dần sự hòa hợp giữa những chuẩn mực hay chế độ kế toán khác nhau giữa các nước trên

thế giới, nâng cao chất lượng và tính có thể so sánh được của báo cáo tài chính, tăng
cường độ tin cậy và sự hữu dụng của báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán. Ngoài ra,
trên thế giới còn có các tổ chức quốc tế khác của nghề nghiệp kiểm toán là IIA (Hiệp hội
kiểm toán nội bộ ) và INTOSAI ( Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán Tối cao).
2.2 Kiểm toán viên độc lập:
SVTH: Võ Thị Lan Phương – Lớp: B17KDN1 Trang 7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×