Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY – BỒI DƯỠNG
HỌC SINH YẾU MÔN NGỮ VĂN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
hực tế đã cho thấy: lịch sử càng tiến lên, xã hội càng phát triển, khoa học công
nghệ ngày càng thêm phong phú; cuộc sống đòi hỏi ngày được nâng lên. Để đáp
ứng mọi yêu cầu của thời đại đòi hỏi con người phải có tri thức. Thế nên việc nâng
cao chất lượng giáo dục đã được Đảng và nhà nước rất quan tâm. Như các đồng
nghiệp cũng đã biết, từ khi nước nhà mới được giải phóng, Bác Hồ có nói “giặc đói ta
không sợ mà chỉ sợ giặc dốt”. Tại sao Bác phải nói vậy? Đó là vấn đề để cho ta suy
nghĩ. Vì đối với một đất nước muốn thoát nghèo thì việc trước tiên phải xóa hết nạn
mù chữ. Chính điều này đã làm cho các nhà mô phạm trăn trở nhiều hơn.
T
Chúng ta cũng đã biết rằng, đất nước ta đã trãi qua bao biến cố lịch sử, phải chịu mọi
áp lực của giặc ngoài; Hán học và Tây học lấn áp Tiếng Việt ta rất nhiều bởi nhu cầu
phát triển về kinh tế. Đến khi nước nhà được thống nhất, ngành giáo dục được đổi
mới, Tiếng Việt có điều kiện phát triển và vươn lên. Song, vấn đề cần giải quyết là
phải làm thế nào để mọi người, mọi lứa tuổi đều biết viết, biết đọc. Đây cũng là việc
không khó gì, từng bước, từng bước đã tháo gỡ dần. Nhưng ngày nay do mưu cầu về
cuộc sống, về sự phát triển của đất nước đòi hỏi mỗi người phải biết chữ, đặc biệt là
đối với trẻ đúng 6 tuổi phải vào lớp 1 và hết độ tuổi 15 phải tốt nghiệp THCS. Trong
khi đó phổ cập THCS phi chính qui mở ra hàng loạt, ở các địa phương, số lượng và
chất lượng đang chạy đua nhau làm cho rất nhiều giáo viên phải đau đầu và đặt ra
nhiều câu hỏi (?) Làm thế nào để giải phóng các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục?
và làm cách nào để thực hiện triệt để trong việc thực hiện hai không theo chỉ đạo của
bộ giáo dục – đào tạo?
Trang 1
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
hực chất trong môi trường giáo dục cũng có rất nhiều giáo viên muốn đem hết
khả năng của minh để truyền đạt cho học sinh; muốn dạy cho các em hiểu thấu
đáo những gì các em chưa biết. Nhưng vẫn có một số em do ảnh hưởng của cuộc sống
gia đình và hoàn cảnh xã hội hoặc cha mẹ thiếu quan tâm… làm các em mất đi khả
năng nhận thức về việc tiếp thu kiến thức ở trường, từ đó sinh ra lười học, biếng học
thậm chí còn sinh ra các tệ nạn khác làm cho môi trường giáo dục không đạt theo ý
muốn. Và cũng bắt đầu từ những hiện tượng này để chạy theo số lượng, một số giáo
viên không tự tìm ra cho mình một giải pháp tối ưu nào để ngăn chặn mà chỉ biết
dùng những con số “trái lương tâm” để cuối năm các em cũng là những học sinh
được lên lớp. Chính điều này mà mỗi năm cứ từ lớp dưới đưa lên lớp trên đến khi xét
tốt nghiệp THCS thì cũng đạt theo đúng chỉ tiêu, đến thi tuyển sinh vào lớp mười thì
vần đề cần xem lại!
T
ậy bản thân là một giáo viên dạy cuối cấp THCS, một mặt quyết tâm tháo gỡ
những vướng mắc mà một số học sinh đã trãi qua ở các lớp dưới; một mặt
trang bị cho mình một số giải pháp, xây dựng kế hoạch để đút kết thành sáng kiến
kinh nghiệm là làm thế nào để “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY – BỒI
DƯỠNG HỌC SINH YẾU MÔN NGỮ VĂN” đúng với chỉ đạo của ngành “Nói
không với tiêu cực và bệnh thành tích trong thi cử”.
V
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG:
I.1 Những thuận lợi và khó khăn:
I.1.1 Thuận lợi:
Được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương, Hội cha mẹ học sinh
và Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện thích hợp trong việc sắp xếp giờ
giấc hợp lí, phân công đúng với chuyên môn, cùng với sự giúp đỡ của đồng
Trang 2
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
nghiệp đặc biệt là tổ chuyên môn tiếp sức để từng bước nâng cao tay nghề,
nâng cao chất lượng giảng dạy.
Phần đông là học sinh ở trong địa bàn và giáo viên chủ nhiệm gần địa phương
nên việc liên hệ trong giảng dạy và liên hệ cha mẹ học sinh thuận tiện hơn so
với trước.
I.1.2 Khó khăn:
Do trường THCS Long Hòa mới tách ra từ trường THCS Long Sơn cách đây 2
năm và năm đầu còn học tạm ở trường THCS Long Sơn, giáo viên thực dạy 2
buổi, giữa các giáo viên trong tổ dạy trùng buổi, trùng tiết ảnh hưởng không
nhỏ đến việc dự giờ rút kinh nghiệm cũng như trong hội họp hay bồi dưỡng trái
buổi, dạy bù, . . . đều gặp khó.
Từ việc dạy trái buổi mà giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm ít gặp nhau
để thông tin về tình hình học tập của các em, chỉ thông qua việc ghi sổ đầu bài;
đôi lúc sự việc kéo dài đến năm – ba ngày hoặc một tuần mới được giải quyết
thì cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em.
Đến năm học 2009 – 2010, trường được chuyển về địa bàn mới (trường THCS
Long Hòa). Cơ sở vật chất, đồ dùng, thiết bị chưa đủ, mọi thứ còn phải mượn
hoặc giáo viên tự làm. Học sinh phải học 2 buổi, việc bồi dưỡng học sinh yếu
còn phải tùy thuộc vào điều kiện trường, lớp. Đến học kỳ II mới thực hiện được
toàn cấp nhưng mỗi khối chỉ bồi dưỡng 2 tiết trên một tuần của một bộ môn.
I.2 Thực trạng về chất lượng:
Tính từ năm 2005 (thay sách) đến nay, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, bản
thân còn gặp nhiều cái khó, cần đầu tư thêm về chuyên môn nhất là việc thảo luận
nhóm của học sinh; thứ hai là trong giảng dạy giáo viên cần đặt câu hỏi thích hợp
Trang 3
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
sao cho khoa học, vừa ôn lại kiến thức cũ vừa gây hứng thú trong học tập của các
em. Đặc biệt là làm cách nào để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Cụ thể là một số học sinh viết chữ yếu, vậy trong thảo luận: các em phải
luân phiên làm thư ký, liệu có thực hiện được không? Từ những yếu điểm của học
sinh mà bản thân từng bước đưa ra những giải pháp để áp dụng sao cho phù hợp
với tình hình học tập của các em.
Kết quả giảng dạy năm học 2008 – 2009.
Chất lượng giảng dạy của bản thân năm học 2008 – 2009
(thực dạy 3 lớp 9)
Ở học kỳ I:
Lớp 9
1,2,3
: trên trung bình 65,3%
Cả năm học:
Tổng
số
108
Giỏi Khá TB Trên TB Yếu Kém Dưới TB
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
6 5,56 43 39,81 37 34,26 86 79,63 22 20,37 0 0 22 20,37
II. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT:
II.1 Giai đoạn 1:
- Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm xây dựng nề nếp học tập, phân công cán bộ lớp
kiểm tra tình hình học tập của các em, báo cáo kịp thời những hiện tượng tiêu cực
trong mỗi giờ học, buổi học.
- Sắp xếp chỗ ngồi cho từng đối tượng, chia đều theo nhóm (mỗi nhóm có giỏi,
khá, trung bình, yếu). Phát động phong trào đăng ký đôi bạn cùng tiến, giúp đỡ
nhau trong học tập, tổ chức học nhóm có kiểm tra, . . .
Trang 4
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
- Kết hợp với tổ phát động phong trào học sinh làm đồ dùng học tập chấm điểm,
khuyến khích lấy điểm cộng vào cột 15 phút.
- Tham mưu với tổ chuyên môn và ban chuyên môn xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
học sinh yếu, mục đích yêu cầu, chương trình thực hiện đúng đối với đối tượng
học sinh.
- Thường xuyên cho kiểm tra 15 phút, kể cả bài tập ở nhà để khích lệ tính ham học
của các em (qui định đối với những bài làm ở nhà điểm giỏi cộng 2 vào cột 15
phút ở lớp, điểm khá cộng 1 điểm, trung bình cộng nửa điểm).
II.2 Giai đoạn 2: Xây dựng kế hoạch.
Định hướng: Sau khi xây dựng được nề nếp học của học sinh, bản thân là giáo viên
dạy lớp tự định ra kế hoạch học tập của học sinh là: ngoài việc chuẩn bị ở nhà (học
thuộc bài cũ, làm bài tập và soạn bài mới) học sinh cần phải nắm bắt các thao tác ở các
phân môn như sau:
II.2.1 Đối với học sinh:
- Đối với một tác phẩm văn học phải nắm thời gian và hoàn cảnh sáng tác. Ngoài ra:
+ Đối với tác phẩm thuộc thể loại truyện, tiểu thuyết, ngoài việc phải nắm nội
dung, phân tích học sinh phải tóm tắt được tác phẩm.
+ Đối với tác phẩm thơ: học sinh phải thuộc lòng thơ và nắm nội dung từng
phần và nghệ thuật của bài thơ đó.
- Đối với tiếng Việt: phải biết ứng dụng lí thuyết vào thực hành và giải quyết mọi
bài tập (ở lớp + ở nhà).
- Đối với tập làm văn: thuộc ghi nhớ để ứng dụng vào thực hành, biết vận dụng một
cách thích hợp ở phân môn văn và tiếng Việt vào bài tập làm văn.
Trang 5
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
II.2.2 Đối với giáo viên (bản thân):
- Thường xuyên theo dõi sát các em qua từng tiết học.
- Em nào thực hiện tốt hoặc chưa tốt hay không thực hiện được thì tìm cách giúp đỡ.
Hướng dẫn các em cách học, cách làm, có thể hỏi bạn, trao đổi trong học nhóm, . . .
- Theo dõi kết quả học tập trong tuần, trong tháng để khen ngợi, khuyến khích hoặc
góp ý xây dựng. Đồng thời giành ít thời gian riêng tư góp ý về phương pháp học tập
cũng như làm công tác nhẹ nhàng một vài học sinh cá biệt để bước đầu các em nhận
thức được mục đích học tập của mình.
- Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm thông tin nhanh những biểu hiện lơ là trong học
tập của học sinh. Bên cạnh đó cũng trực tiếp gặp những phụ huynh có con em học
tốt, cần tạo điều kiện cho các em phấn đấu tốt hơn.
- Đối với học sinh có ý thức học tập tốt, bản thân cũng giới thiệu thêm một số tài
liệu tham khảo truy cập trên mạng nhằm nâng cao kiến thức, phát huy khả năng vượt
trội làm gương tốt trong tập thể lớp.
II.3 Biện pháp thực hiện:
II.3.1 Những biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng học sinh trung bình, yếu, kém:
II.3.1.1 Thực hiện trên lớp (dạy buổi chính thức):
Song song với kế hoạch và những định hướng đã đề ra, bản thân đã trang bị cho
mình một số biện pháp dựa trên sự chỉ đạo của trường và ngành giáo dục sao cho
kết quả giảng dạy đạt mức cao nhất.
- Thực tế hiện nay đang dạy 2 lớp 9 và một lớp 8.
Trang 6
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
Theo tình hình chung đầu năm học (đầu tháng 8) giáo viên chủ nhiệm huy động
học sinh xây dựng nề nếp cùng với việc ôn tập của giáo viên bộ môn (ở 2 tuần
đầu), bản thân đã dự kiến kế hoạch ôn tập của năm cũ và đưa ra một số yêu cầu để
các em có một số hướng chuẩn bị.
- Một là: giới thiệu nội dung chương trình của phân môn ngữ văn đang học (năm
2009 – 2010) khối lớp này có liên quan đến phần nào của các lớp trước. Nêu một
số câu hỏi có liên quan để các em về nhà tham khảo những kiến thức cũ để chuẩn
bị cho phần học sắp tới.
- Hai là: làm công tác tư tưởng, xây dựng nề nếp học tập và xác định mục đích
học tập của mình sao cho cuối năm đạt kết quả khả quan.
- Ba là: Mỗi học sinh phải tự sắp xếp cho mình phương pháp học tập, có sổ tay,
nhật kí ghi chép những thông tin của thầy cô, nhà trường dặn dò những việc hằng
ngày để nhớ mà về nhà thực hiện.
- Bốn là: đòi hỏi tính năng động của mỗi học sinh, thực hiện tốt phương châm
“học đi đôi với hành”, học về kiến thức ở nhà trường, học về đạo đức, tác phong,
lối sống của người học sinh trong môi trường xã hội đang phát triển. Các em có
quyền học ở mọi nơi, mọi lúc, học ở thầy, ở bạn, không ngần ngại khi gặp khó.
Cùng với những giải pháp phát sinh của cá nhân đặt ra cho mình trong quá trình
giảng dạy, bản thân còn thực hiện:
II.3.1.2 Thực hiện ở trường:
+ Khâu kiểm tra bài cũ, đầu giờ giáo viên qui định học sinh được mở tập, tất cả
các em nghe đặt câu hỏi và cách trả lời của bạn, sau đó có thể nhận xét bổ sung
khi nghe giáo viên gọi.
Trang 7
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
Mục đích của giáo viên là cốt để các em tập trung vào nội dung bài cũ, đồng thời
ôn lại kiến thức giúp các em cũng cố lại phần đã học nhằm khắc sâu kiến thức.
+ Bài mới: Trong quá trình giảng bài, giáo viên có qui định từ đầu năm: các em
có quyền nghe và trả lời câu hỏi, riêng những câu hỏi khó có điểm cá nhân hoặc
bài tập (nhóm) cũng vậy, có điểm khuyến khích cộng cho nhóm. Nhưng đối với
học sinh thiếu tập trung, trả lời không được, sau khi nghe bạn nhắc nội dung bài
học lần 2, nếu lặp lại không được thì sẽ có dấu trừ trong cột kiểm tra miệng.
Mục đích là để học sinh tập trung vào nội dung bài học, không phải phân tâm vào
chuyện riêng tư.
+ Phần luyện tập (bài tập):
• Bài tập dành cho cá nhân lên bảng làm. Sau khi làm xong, giáo viên cho gọi
các em khác lên nhận xét, sau đó giáo viên chốt lại nội dung và hình thức
(xem có đúng với yêu cầu của bài tập không? Và nhận xét cách viết: lỗi chính
tả, lỗi ngữ pháp, dấu câu, . . .) nhằm điều chỉnh cách viết văn của các em.
• Bài tập nhóm (thảo luận), thực hành qua bảng phụ, sau khi nhóm thống nhất,
thư kí ghi, các em khác phải tập trung theo dõi và kiểm tra cách viết về lỗi
thường mắc phải mà giáo viên đã sửa như phần bài tập cá nhân.
Mục đích là luyện cho các em cách viết đúng, từng bước có khả năng diễn đạt tốt
khi viết tập làm văn.
II.3.1.3 Thực hiện ở nhà:
- Học sinh phải làm bài tập, học bài cũ và soạn bài mới. Về việc làm bài tập và
soạn bài mới đối với học sinh trung bình, yếu khó mà thực hiện tốt được. Ở phần
này các em có thể học hỏi lẫn nhau, trao đổi trong học nhóm.
Trang 8
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
Mục đích là tất cả đều có làm bài tập và soạn bài mới, các em tự kiểm tra và quan
tâm giúp đỡ nhau trong học tập.
Riêng đối với một số bài có địa chỉ tích hợp về môi trường và kế hoạch hóa gia
đình, ngoài việc hướng dẫn theo yêu cầu sách giáo khoa, còn nêu một vài câu hỏi
phụ có liên quan đến môi trường hoặc dân số tùy theo đặc thù của mỗi bài gắn với
thực tế, đời sống để các em liên hệ. Song song với vấn đề trên, còn hướng dẫn các
em về cách học ứng dụng công nghệ thông tin, phần nào xem trả lời, phần nào là
nội dung bài học cần ghi giúp các em thực hiện hoàn hảo trong tiết học, không có
em nào phải lúng túng.
Đó là một số biện pháp mà bản thân xem là biện pháp cứng. Nhưng cũng không
quên rằng bên cạnh đó có rất nhiều học sinh trung bình, yếu, dạng cá biệt đôi lúc
áp dụng không đúng sẽ gây phản tác dụng. Vì vậy mà trong quá trình giảng dạy
bản thân luôn theo dõi thái độ, tác phong của từng học sinh để xem khả năng tiếp
thu bài của các em thế nào, dành riêng một số câu hỏi để cho đối tượng này,
khuyến khích các em trả lời để lấy điểm nếu cần nhằm kích thích các em có tinh
thần ham học. Với những đối tượng này, bản thân cần gần gũi nhiều hơn, trao đổi,
tìm hiểu nguyên nhân do hoàn cảnh, điều kiện gia đình, động viên các em khá
giỏi tạo điều kiện giúp đỡ để các em không chán học.
II.3.2 Bồi dưỡng học sinh trung bình, yếu trái buổi:
II.3.2.1 Nhận thức tình hình chung:
Để đạt được mục tiêu giáo dục của ngành và kết quả đăng kí của trường, bản thân đã
kết hợp với tổ chuyên môn, ban chuyên môn đề ra kế hoạch bồi dưỡng học sinh
trung bình, yếu. Nhưng do mới vừa về trường mới, cơ sở vật chất còn thiếu thốn,
chưa đáp ứng đủ yêu cầu học tập. Cho nên kế hoạch mới được thực hiện kể từ học
kỳ II (đối với lớp 9 và 8).
Trang 9
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
Kết quả bước đầu: số lượng học sinh có trong danh sách bồi dưỡng đến lớp khoảng
80%, nề nếp học tập khá ổn định. Các em chịu khó học hỏi, ít nhiều nhận thức được
vai trò học tập của mình và có chiều hướng phấn đấu. Riêng đối với một số học sinh
không đến lớp, bản thân có tham mưu với Ban giám hiệu kết hợp với giáo viên chủ
nhiệm, cho mời phụ huynh của những em đó để nắm lí do, cùng tạo điều kiện cho
các em học tập tốt hơn.
Trước tình hình chung của trường, hầu như còn gặp khó, nên việc bồi dưỡng chỉ
thực hiện có 2 tiết trên một tuần. Vậy bản thân phải làm gì để đạt kết quả khả quan!
Đây là vấn đề nan giải trong nghề nghiệp.
II.3.2.2 Kế hoạch thực hiện:
- Bước một là: làm công tác tư tưởng các em, xác định được mục đích học tập, lấy ví
dụ từ bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới”. Cái quan trọng nhất là sự chuẩn bị
của con người.
- Bước hai là: xây dựng cho mình kế hoạch là làm sao cho tất cả học sinh dự tuyển
vào lớp mười không bị điểm cản. Bằng mọi cách các em phải viết được, làm được
dù là mức thấp nhất.
- Bước ba là: xây dựng kế hoạch cụ thể dựa theo phân phối chương trình:
+ Xác định mục tiêu cần bồi dưỡng.
+ Rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
+ Yêu cầu nội dung bài học:
• Giải quyết mọi tồn đọng, vướng mắc còn lại ở giờ học chính thức mà các
em chưa nắm.
• Dạy từ kiến thức cơ bản và từng bước nâng lên.
• Củng cố lại các kiến thức của tiết học trước có liên quan và kiến thức trước
đó để các em vận dụng vào thực hành.
Trang 10
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
Phần trọng tâm là phần giải quyết bài tập, đặc biệt là phần tiếng Việt, các em cần
luyện cách viết (dùng từ, đặt câu, dấu câu) vì dễ bị sai sót. Luyện cách này để các
em có cơ sở thích hợp trong việc viết tập làm văn.
Cuối bài học là phần bài tập (ở lớp và ở nhà) và hướng dẫn soạn bài mới - cách
hướng dẫn như phần thực dạy trên lớp có điều là giáo viên có điều kiện gợi ý kĩ hơn.
- Bước cuối cùng là khâu kiểm tra việc học của các em:
+ Kiểm tra việc ghi bài, làm bài (phần ở nhà, ở lớp); giải quyết mọi bài tập để
các em biết đúng sai.
+ Theo dõi việc học, nhận xét: khen ngợi hay động viên phấn đấu tốt hơn, . . .
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
III.1 Những chuyển biến trong học sinh:
Qua các giải pháp trên, học sinh đã có những chuyển biến:
- Về hành vi:
Học sinh từng bước ổn định nề nếp, có tập trung trong giờ học, chuẩn bị bài trước khi
đến lớp tương đối tốt hơn so với trước, không có hiện tượng nghỉ học không lí do
hoặc cúp cua.
- Về nhận thức:
Các em chịu khó học bài và soạn bài, mặc dù chất lượng chưa cao nhưng bước đầu
các em có ý thức học tập, chịu học hỏi lẫn nhau. Chất lượng bài kiểm tra, điểm ngày
một có nâng lên. Học sinh trả bài điểm thấp có xung phong trả nữa để tăng thêm điểm
cộng. Ở các nhóm có ý thức thi đua trong học tập. Nói chung là các em có tính tự học.
III.2 Chất lượng:
Trang 11
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
III.2.1 Thống kê chất lượng năm học 2009 – 2010 (ở học kỳ I):
Lớp TS/
nữ
Giỏi Khá TB Trên TB Yếu Kém Dưới TB
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
9
1,2
73/36 7/5 9,58 26/16 35,61 30/13 41,1 63/34 86,29 8/2 10,96 2/0 2,74 10/2 13,71
8
2
37/17 6/4 16,21 17/10 45,9
5
7/2 18,92 30/16 81,08 7/1 18,92 0/0 0 7/1 18,92
III.2.2 Thống kê chất lượng năm học 2008 – 2009:
So với cùng kì của 3 lớp này (9
1,2
và 8
2
ở mục a)
8
1,2
: Trên trung bình 75,0%
7
2
: Trên trung bình 60,9%
Cả năm:
8
1,2
: Trên trung bình 86,3%
7
2
: Trên trung bình 63,8%
Phụ ghi: Do tách trường nên có một số học sinh gần địa bàn Long Sơn chuyển về trường
Long Sơn, vì vậy không thống kê cụ thể.
III.3 Nguyên nhân thành công và hạn chế:
III.3.1 Nguyên nhân thành công:
* Cá nhân:
- Bản thân không ngừng học hỏi nâng cao tay nghề, bồi dưỡng chuyên môn, học hỏi thêm
ở đồng nghiệp qua việc dự giờ rút kinh nghiệm, tham dự các tiết chuyên đề thao giảng có
ứng dụng công nghệ thông tin do trường tổ chức cũng như ở hội đồng bộ môn.
Trang 12
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
- Thường xuyên kết hợp sát giữa sách giáo khoa và sách giáo viên cùng một số tài liệu có
liên quan đến môn ngữ văn để tham khảo; chọn những bài tập nhanh (ngoài sách giáo
khoa) để cho các học sinh trung bình, yếu nhận biết, bước đầu kích thích tính ham học
của các em, sau đó vận dụng vào các bài tập ở sách giáo khoa, từng bước nâng lên từ
thông hiểu đến vận dụng, thấp đến vận dụng cao, . . .
- Cùng với những việc làm trên, bản thân cũng luôn quan tâm đến việc làm bài của học
sinh yếu, xem các em hiểu ở mức độ nào để có những giải pháp thích ứng với từng đối
tượng học sinh trong giảng dạy. Tạo mọi điều kiện để các em ham học.
- Thực hiện đúng chỉ đạo phân công của trường, của ngành, giờ nào việc ấy; nắm sát
thông tin chuyên môn: phần nào giảm tải phần nào hướng dẫn đọc thêm hoặc thay đổi tiết
phân phối chương trình hoặc chỉnh sửa một số từ ngữ trong sách giáo khoa.
- Luôn quan tâm học sinh có hoàn cảnh khó khăn, khen ngợi các em chịu khó học tập,
biết giúp đỡ nhau để vượt lên hoàn cảnh. Động viên các em xây dựng tổ học tập để cùng
nhau tiến bộ, . . .
* Tổ chuyên môn:
- Tổ hỗ trợ về mặt chuyên môn – dự giờ rút kinh nghiệm, xây dựng tiết dạy chuyên đề
trường, thao giảng có ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng tiết dạy hoàn chỉnh để
nâng cao tay nghề, góp ý trong giảng day, quản lí lớp, . . .
- Hướng dẫn cách ra đề kiểm tra đúng với chỉ đạo của ngành, phù hợp với từng đối tượng
học sinh để khỏi ảnh hưởng về chất lượng.
* Trường:
- Sắp xếp thời gian hợp lí, kiểm tra, nhắc nhở thường xuyên về những qui chế của
ngành qui định; kiểm tra việc soạn giáo án, ký sổ đầu bài, vào điểm, báo cáo thống kê
chất lượng qua các đợt khảo sát cũng như thi học kỳ.
Trang 13
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
- Mở ra các đợt thi đố vui dưới cờ hàng tuần ở các môn và tổ chức thi rung chuông
vàng ở các ngày chủ điểm giúp các em say mê học tập.
- Tổ chức ngoại khóa, thi đố vui dành cho học sinh trung bình, yếu.
III.3.2 Hạn chế:
Còn do một số hoàn cảnh khách quan như một bộ phận học sinh có gia đình đi làm ăn
xa, các em ở nhà với ông bà hoặc chú, bác nên ít được quan tâm do đó ảnh hưởng
nhiều đến việc học.
- Một số học sinh chữ viết còn yếu nên làm bài chất lượng chưa đạt.
III.4 Bài học kinh nghiệm:
Từ những giải pháp và thành công đã đạt được, bản thân rút ra những kinh nghiệm
như sau:
* Về học sinh:
- Tạo cho các em môi trường thân thiện trong quan hệ giữa thầy và trò, tránh sự
mặc cảm giữa học sinh trung bình, yếu với học sinh khá, giỏi qua các đợt thi đua,
phong trào, thảo luận nhóm.
- Trong soạn giảng có những câu hỏi vừa sức, đúng với từng đối tượng học sinh, cô
đọng phần chính, phần trọng tâm để các em nhận biết.
- Chấm, sửa bài: Có lời phê cụ thể, góp ý xây dựng cách diễn đạt, dùng từ, đặt câu,
lỗi, . . . phải cụ thể rõ ràng.
- Trả bài: Xây dựng hệ thống câu hỏi với nhiều hình thức tự luận, trắc nghiệm; có
câu hỏi dễ, có câu hỏi khó. Nhận xét kĩ sau khi các em trả lời.
Trang 14
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
- Có những phần thưởng nhỏ khích lệ các em như là chấm điểm hoặc khen ngợi
nếu là mức độ thấp.
- Rèn luyện cho các em đam mê, vui thích trong học tập.
* Về bản thân:
- Không ngừng học hỏi để nâng cao tay nghề, vận dụng việc đổi mới phương
pháp giảng dạy để nâng chất cho học sinh.
- Áp dụng công nghệ thông tin nhiều hơn trong giảng dạy để gây hứng thú cho
học sinh học tập.
- Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm theo dõi sát tình hình học tập của từng đối
tượng học sinh.
- Dành ít thời giờ đến gia đình những học sinh trung bình, yếu, tìm hiểu, giúp đỡ
các em vươn lên.
- Rèn luyện cho mình là tấm gương mẫu mực, tạo sự tin cậy ở học sinh và phụ
huynh các em.
IV. KẾT LUẬN:
ua quá trình giảng dạy nhiều năm, tiếp xúc với từng đối tượng học sinh khác nhau,
bản thân đã rút ra một số giải pháp xem như là bài học kinh nghiệm áp dụng trực
tiếp trong thời gian giảng dạy gần đây. Tuy nhiên, nó chưa hẳn là hoàn hảo, cần học hỏi
thêm ở đồng nghiệp; nắm bắt thêm từng đối tượng học sinh để có những kinh nghiệm
mới, tích lũy, bổ sung thêm cho vốn hiểu biết của bản thân mình.
Q
Đề nghị:
Trang 15
Trường THCS Long Hòa
Trường THCS Long Hòa
GV: Trần Thị Nhàn
GV: Trần Thị Nhàn
Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân đã nhận thấy được, làm được. Song, để
cho chất lượng giảng dạy đạt hiệu quả, bản thân xin kiến nghị về phía:
- NGÀNH: Trang bị kịp thời các thiết bị, đồ dụng dạy học, tranh ảnh hay băng đĩa
về danh lam thắng cảnh hoặc khu di tích lịch sử để trình chiếu cho học sinh thực
hành ở các tiết “chương trình địa phương phần tập làm văn” (đối với những học sinh
chưa có điều kiện đến đó tham quan) nhằm phục vụ giảng dạy tốt hơn.
- TRƯỜNG: Sắp xếp việc bồi dưỡng học sinh trung bình, yếu trái buổi, tăng tiết ở
môn ngữ văn vì đây là môn thi tuyển sinh vào lớp 10.
- Ban ngoài giờ kết hợp với giáo viên chủ nhiệm và hội cha mẹ học sinh cùng với
gia đình các em theo dõi sát tình hình học tập của các em nhất là những ngày học trái
buổi.
0
rước khi dứt lời, tôi xin kính chúc ban chấm chọn dồi dào sức khỏe và thành
công trong công tác. Và, luôn mong rằng ban chuyên môn của ngành quan tâm,
giúp đỡ, đóng góp xây dựng để cá nhân tôi được hoàn thiện hơn trong công tác.
T
Trân trọng kính chào!
Người viết
Trần Thị Nhàn
Trang 16