Kiến thức lớp 10
Ca dao Việt Nam –phần11
BÌNH GIẢNG BÀI CA DAO "THẰNG BỜM"
Tiếng cười trong văn học dân gian vô cùng phong phú và đa
dạng. Có nụ cười mỉm, có tiếng cười hả hê. Có tiếng cười giễu
cợt, châm biếm sâu cay. Có tiếng cười đả kích sắc nhọn… Thật
là đủ cung bậc, biểu lộ mọi thái độ ứng xử của nhân dân lao động
trong cuộc đời. Tiếng cười là vũ khí chiến đấu tinh thần của
những con người bị áp bức, nó tựa như làn roi quất vào mặt bọn
thống trị xấu xa, đồi bại nhưng lúc nào cũng lên mặt đạo đức giả.
Tiếng cười không chỉ để mua vui, xua tan mọi ngột ngạt mà còn
biểu thị một thái độ, một tâm thế của người lao động. Cho nên nó
giàu chất trí tuệ, có giá trị vạch trần và tố cáo hiện thực xấu xa,
thối nát của xã hội cũ.
Ngoài truyện tiếu lâm, truyện cười, văn học dân gian còn có nhiều
bài ca dao trào phúng, hóm hỉnh, sâu sắc, thú vị. Bài “Thằng
Bờm” là một ví dụ tiêu biểu. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc
Phan đã xếp bài ca dao “Thằng Bờm” là một ví dụ tiêu biểu. Nhà
nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan đã xếp bài ca dao “Thằng
Bờm” vào loại ca dao trào phúng chống phong kiến mang ý nghĩa
như một truyện ngụ ngôn độc đáo:
“Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.”
Cấu trúc của bài ca dao như một chuyện vui, dựng lại cuộc đối
thoại, đổi chác đầy tính giễu cợt. Một bên là Phú ông, một bên là
thằng Bờm. Phú ông là bọn nhà giàu nứt đố đổ vách trong nông
thôn ngày xưa. Thằng Bờm thuộc tầng lớp khố rách áo ôm trong
xã hội cũ. Trong ý niệm của người đời thì thằng Bờm không phải
là loại người thông minh, sắc sảo, mà có chút gì đó hơi “ngớ
ngẩn”. Vì thế câu chuyện được kể lại trong bài ca dao mang tính
kịch một cách hóm hỉnh, hấp dẫn.
Câu đầu giới thiệu “thằng Bờm có cái quạt mo”. Tám câu tiếp
theo kể lại chuyện đổi chác giữa Phú ông và thằng Bờm. Câu
cuối: cuộc đổi chác đã ngã giá - Bờm cười!
Cái quạt mo thật không đáng giá một đồng kẽm, nó chỉ là chiếc
quạt làm bằng mo cau, của người nghèo. Thế nhưng tại sao phú
ông lại tha thiết đến thế? Tuổi ấu thơ, lần đầu tiếp cận với bài ca
dao này, nhiều em bé cứ ngỡ là chiếc quạt mo của thừng Bờm là
một báu vật, có nhiều phép lạ tựa như chiếc chìa khóa bằng vàng
trong truyện cổ. Thế nhưng đâu phải, chiếc quạt mo vẫn chỉ là
quạt mo mà thôi. Càng đọc, đi sâu tìm hiểu ta càng thấythú vị.
Cuộc đổi chác kéo dài. Phú ông năm lần đem những tài sản quý
giá nhất của tên nhà giàu để gạ đổi. Có điều vật đổi cứ bị giảm
gía dần dần. Bọn nhà giàu nông thôn ngày xưa vốn keo bẩn và
hách dịch. Phú ông cũng vậy thôi. Thế nhưng thái độ của hắn lại
tỏ ra rất nhún nhường, trước sau vẫn cứ nài nỉ “xin đổi… xin
đổi…”. Nghệ thuật liệt kê tiệm thoái được sử dụng tạo nên tình
huống và tính kịch của cuộc đổi chác, đồng thời kín đáohé mở
tâm địa của Phú ông:
“… Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu
… Phú ông xin đổi ao sâu, cá mè,
…Phú ông xin đổi một bè gỗ lim,
…Phú ông xin đổi con chim đồi mồi,
… Phú ông xin đổi nắm xôi…”
Thông thường trong mua bán đổi chác bao giờ cũng “thuận mua,
vừa bán”. Nếu bên bán chưa đồng ý với giá mua, thì người mua
cứ trả giá tăng dần lên cho đến lúc ngã giá. Nhưng ở đây, Phú
ông cứ giảm giá dần, giọng nói thì vẫn tha thiết, ngọt ngào “xin
đổi”, ngược lại giá trị vật đổi từ “ba bò chín trâu” sau 5 lần “xin
đổi” chỉ còn lại “nắm xôi” bé nhỏ! Thái độ của Bờm cũng rất lạ!
“Ba bò chín trâu”, Bờm chẳng lấy! Ao sâu cá mè, một bè gỗ lim,
con chim đồi mồi - Bờm cũng chẳng lấy! Thế rồi Bờm cười khi
được Phú ông xin đổi nắm xôi… Phải chăng Bờm ngớ ngẩn, dại
khờ trong cuộc đổi chác?
Bài ca dao “Thằng Bờm” ẩn chứa một nụ cười hóm hỉnh, một thái
độ ứng xử sắc sảo của ngời dân cày Việt Nam. Trong cuộc đổi
chác này, Phú ông hiện nguyên hình là một kẻ xấu xa, đê tiện.
Rất tham lam, thấy người nghèo có thứ gì cũng tìm đủ mọi mánh
lới mua chuộc, dụ dỗ, bòn rút. Cái quạt mo của thằng Bờm có giá
trị gì mấy, thế mà hắn vẫn cứ khẩn khoản “xin đổi”!
Không chỉ có thế, Phú ông cứ ngỡ rằng thằng Bờm ngớ ngẩn nên
đem của ra “dứ”. Thái độ hợm hĩnh, khoe giàu, khoe của, nhạo
báng người nghèo của Phú ông đã bị thằng Bờm chơi cho một
vố. “Bờm cười” đâu phải Bờm đã đồng ý, cuộc mua bán ngã giá?
“Bờm cười” đâu phải là người nghèo tham ăn, lấy miếng ăn làm
đầu, coi miếng ăn bằng trời “dĩ thực vi thiên”? Bờm “ngố” nên đã
coi nắm xôi to tát hơn, giá trị hơn “ba bò chín trâu… ao sâu cá
mè…”? Bờm cứ nhởn nha, đủng đỉnh “Bờm rằng… chẳng lấy”.
Bờm đã “giăng bẫy”, Bờm chỉ lắc đầu “chẳng lấy” bời vì Bờm đã
hiểu rõ tâm địa của Phú ông – tên nhà giàu tham lam định gìơ trò
lòe Bờm, nhạo Bờm! Lúc đầu, người đọc, cứ tưởng Phú ông đã
lừa được Bờm, nhưng ai ngờ hắn đã bị giễu cợt lại. Thật chẳng
khác nào “kẻ cắp bà già gặp nhau” hoặc “vỏ quít dày đã có móng
tay nhọn” như dân gian đã nói.
Bài ca dao “Thằng Bờm” còn đề cao triết lý sống của người nông
dân: sống thiết thực, có đầu óc thực tế. Họ cũng như thằng Bờm
không bị lóa mắt trước núi của, trái lại họ tỉnh táo biết cái quạt mo
không thể nào đổi được “ba bò chín trâu… con chim đồi mồi”. Nó
chỉ đáng gía nắm xôi mà thôi! Bờm cười là vì thế! Trong mua bán,
đổi chác phải ngang giá.
Cái hay, cái độc đáo của bài “Thằng Bờm” là ở tình huống bất
ngờ. Người chiến thắng trong cuộc đọ trí không phải là người
giàu, kẻ hợm của. Trái lại, người chến thắng là anh cu Bờm vừa
nghèo, vừa “ngố”. Phú ông đã bị Bờm giáng cho một đòn sâu
cay. Tâm địa đen tối bản chất xấu xa của Phú ông đã bị lật tẩy.
Thằng Bờm tiêu biểu cho đầu óc thực tế, lối sống thiết thực,
không ngoan, cách ứng xử kín đáo, thông minh, sắc sảo cảu
nhân dân lao động.
Tóm lại, bài ca “Thằng Bờm” có giá trị nhân bản vì trước hết nó là
tiếng cười dân gian, ca ngợi sự khôn ngoan, tỉnh táo của người
lao động, đồng thời nó đã vạch trần bộ mặt xấu xa, hợm hĩnh của
bọn nhà giàu trong nông thôn ngày xưa. “Thằng Bờm” là tiếng
cười dân gian chống phong kiến sáng giá nhất.
Bài ca dao gồm xó 10 câu lục bát được viết dưới hình thức đối
thoại. Có hai nhân vật, hai lớp người giàu, nghèo trong xã hội
phong kiến. Nhà thơ dân gian đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp
ngữ, phép liên hoàn và liệt kê tiệm thoái để làm nổi bật nghịch lý
trong cuộc đời và tình huống hấp dẫn trong câu truyện. Ngôn ngữ
thơ bình dị nhưng nội dung tư tưởng hàm chứa trong câu truyện.
Ngôn ngữ thơ bình dị nhưng nội dung tư tưởng hàm chứa trong
bài ca dao khá sâu sắc. Một cách ứng xử đẹp. Một triết lý sống
lành mạnh, hồn nhiên. Tiếng cười trong bài ca dao “Thằng Bờm”
là tiếng cười hài hước, vui vẻ. Nó vẫn rất cần cho cuộc sống, tựa
như cơn gió mát thổi vào tâm hồn mỗi chúng ta. Nhân dân lao
động đã ký thác bao tình ý, ước mơ vào bài ca dao này. Tiếng ru
của mẹ, của bà không thể thiếu tiếng võng kẽo kẹt, không thể
vắng bóng bài ca “Thằng Bờm”. Kỳ diệu thay ca dao, dân ca Việt
Nam.