Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kiến thức lớp 10 Truyện Kiều - Nguyễn Du-cảm nhận về nổi thương mình pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.7 KB, 12 trang )

Kiến thức lớp 10
Truyện Kiều - Nguyễn Du-phần 1
Cảm nhận về "Nỗi thương mình"
(trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Nghệ Tĩnh, vùng đất địa linh nhân kiệt, nới thoát ẩn của những
bậc thi sĩ, anh hùng, nơi ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi
sinh ra những con người có chí vững, tâm hồn mạnh mẽ. Đại thi
hào Nguyễn Được cũng là một trong những người con được sinh
ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Sự nghiệp thơ văn của ông không
nhiều, nhưng những gì mà ông đóng góp cho kho tàng văn học
dân tộc lại vô cùng đồ sộ, vĩ đại. Truyện Kiều là một trong những
kiệt tác của Nguyễn Được. Từ cốt truyện của Thanh Tâm tài
nhân. Nguyễn Du đã tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn mới
về con người, xã hội với Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện tài
mệnh tương đố mà còn là câu chuyện geữa tài và tâm. Chính
điều này đã mang đến cho Truyện Kiều có một linh hồn mới, một
sức sống mới, phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện
Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt
Nam và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời
sống. Nhân vật trung tâm của Truyện Kiều là Thúy Kiều –con
người tài sắc vẹn toàn. Những cũng không tránh khỏi bi kịch của
cuộc đời. Đoạn trích Thúy Kiều tự thương mình tả lại cảnh Kiều bị
mắc lừa sở khanh bị Tú bà đánh đập tàn nhẫn. Thúy Kiều phải
nhận lời tiếp khách làng chơi. Đoạn trích Kiều thương mình nằm
từ câu 1229 đến 1240. Đoạn trích lên cảnh lầu xanh và tâm trạng
của Thúy Kiều sau khi tỉnh giấc à tự thương mình.

Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đi miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở
chốn lầu xanh:


Lầu xanh mới rủ trướng đào
Cành treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Bướm lả -ong lơi
Lá gió –cành chim

Nguyễn Du diễn tả những du khách làng chơi ở một tầng bậc cao
độ. Đây là cảnh sinh hoạt của một tổ ăn chơi, một cái gì đó dữ dội
xô bồ, gấp gáp bởi những từ ngữ gợi hình, gợi cảm độc đáo.
Chính sự tác từ đã làm cho cuộc vui tăng lên gấp bội: lả lơi…một
cách ăn chơi nổ trời và không lúc nào ngớt khỏi cảnh kiếm tìm,
đưa đón tấp nập khiến cảnh trông thấy được nhân lên gấp bội với
hình thức ngôn ngữ đặc biệt. Đó là xé các nhóm từ rồi đan chéo
lại với nhau. Cho nên trong một câu thơ, một chủ thể, một vật thể
đựợc tách thành hai chủ thể, hai vị thể. Sự tách bạch đó không
đơn thuần chỉ được nhân lên về lượng mà còn nhân lên cả về
chất. Cuộc sống buông thả, không nề nếp, quy củ và vô cùng trác
táng.

Trướng đào tức là biểu hiện quảng cáo có hàng mới và có hàng
mới ắt có đông người tìm đến, vì đông người nên giá mua vui
càng cao.
Hai câu tiếp theo của đoạn trích:

Biết bao bướm lả ong lơi
…Dập dìu lá gió cành chim

Rồi tiếp đó là những cuộc say sưa nào là trận cười, cảnh đưa
rước tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt
tháng…Đây chính là cách dùng ngôn ngữ độc đáo của Nguyễn
Du khi miêu tả về những cuộc vui ở lầu xanh. Khách làng chơi

đến lầu xanh được ví như những loài ong bướm lúc nào cũng lả
lơi.
Trước hết câu thơ không có chủ từ, đó là chốn lầu xanh, bởi đâu
đâu cũng thấy nàng Kiều xuất hiện là nhân vật trung tâm của giá
ngọc phẩm người:

Khi tỉnh rượu lúc tàng canh Nguyễn Du không để cho nàng Kiều
xuất hiện trực tiếp, ông chỉ lách ngòi bút của mình thôi mà đã hiện
lên tất cả.

Tỉnh rượu khi tàn, Kiều tỉnh giấc và thương thân mình: Giật mình,
mình lại thương mình xót xa. Chỉ với câu thơ này mới đưa nàng
Kiều tự phận gái lầu xanh trở về với thân phận nàng Kiều trong
chính bản thân mình.
Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng mình
nhất, tự thức về những hành
động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay của
bản thân mình. Và một khi đã ý thức được những hành động của
mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, là
nhân phẩm, bản chất tốt đẹp của nàng Kiều. Chỉ trong một câu
thơ thôi đã có đến ba chữ mình là lúc Kiều cảm thấy mình cô
đơn. Kiều tự suy nghĩ, đánh giá, tự thương mình. Chữ mình thứ
hai có ý nghĩa quan trọng nhất, chính chữ mình này biểu hiện sự
tự thương mình lớn nhất, chỉ có mình thấu hiểu hoàn toàn nỗi
lòng của nhân vật trữ tình trong lúc này. Chữ mình thứ hai là loại
câu nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời từ Kiều nói cho mình, cũng
là lời nói của tác giả, tác giả như xông vào câu chuyện của Kiều
như thấu hiểu mọi nguồn cơn, mọi sự tình vào câu chuyện của
Kiều để cùng chia sẻ, cảm thông với thân phận bọt bèo, nổi trôi
của nàng Kiều. Đây là một câu thơ đa nghĩa, làm lay động lòng

người.

Sau đó Kiều luôn sóng trong tâm trạng buồn thương:

Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường thế thân
Mặc người mưa Sở, mưa Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?

Trong Kiều lúc này đang có sự phân thân. Hiện tại thì đau đớn,
tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập bơ với quá khứ, một
qua khứ êm đềm, trong trắng trinh nguyên. Cuộc sống khi xưa
thơ mộng đẹp đẽ bao nhiêu thì cuộc sống hiện tại nhục nhã ê chề
bấy nhiêu. Những dằn vặt da diết đớn đau của một con người bị
xô đẩy vào một hoàn cảnh đối lập hòan toàn với bản chất tâm
hồn và với cuộc sống trong sạch trước đây. Thúy Kiều trước đây
là Thúy Kiều rung động trước hình bóng văn nhân, một đóa hải
đường hay một ánh trăng xanh, một xúc động trước cảnh ngộ
thương tâm của con người đời xưa…

Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi
thân chua xót đến cùng cực mà trước đó là cuộc sống êm đềm
hạnh phúc kẻ đón người đưa, tinh khôi, nõn nà, thơm tho…và
bây giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị vùi dập giữa đường, bị
ngắt khỏi cành bị lìa khỏi cội. Một cuộc sống thật phũ phàng, một
cuộc đời thê bỉ, với cảnh tượng giày vò mua đi bán lại:

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Ở đây không đơn thuần chỉ là sự so sánh. Hai từ sao đặt liền câu
trước, câu sau tạo nên sự cách biệt, một nhân vật thành hai nhân
vật, hai thân phận. Khi sao -giờ sao đây là hai khoảng thời gian
cách biệt khác nhau cộng lại là nỗi chua xót đắng cay tủi thân đến
vô bờ:

Mặt sao dày gió dạng sương
Thân sao bướm chán ong chường thế thân.

Biểu hiện tại dày gió dạn sương nỗi buồn chán tăng lên gấp bội.
Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đây mặt trơ trơ. Nàng
nhớ đến hành vi đã qua cay đắng tủi nhục khôn cùng chỉ khi tâm
hồn chết theo thì Kiều mới sống được ở chốn lầu xanh này mà
chi có thể quên đi những gì êm đềm tốt đẹp trước đây, một thời
trướng phủ màn che quên đi bản thân mình thì Kiều mới có thể
tồn tại được trong xã hội này.

Thông qua việc miêu tả đoạn trích Kiều tự thương mình Nguyễn
Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của Kiều.
Cái biệt tài của Nguyễn Du trong đoạn trích này là miều tả tâm
trạng cô độc của Kiều, bị tách ra khỏi sự giao tiếp với nội tâm thì
thiên nhiên lập tức xuất hiện để nói hộ lòng người. Thiên nhiên
với con người làm một, cảnh hòa với tình Nguyễn Du có được
thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về
cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật như
nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng
tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Nguyễn Du đã diễn tả tâm
trạng của Kiều, một tâm trạng bi thương, thấm thía. Một con

người có ý thức sâu xa về nhân phẩm của mình và giữ gìn phẩm
chất ấy cho dù cuộc đời có vùi dập đến đâu vẫn không sao xóa
bỏ được ý thức ấy ở chốn lầu xanh. Khi xây dựng nhân vật Thúy
Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với
nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội
một cách sâu sắc.

×