Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tính cấp thiết của toàn cầu hoá docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.54 KB, 20 trang )

I.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nhận thức rõ toàn cầu hoá như một tất yếu khách quan, bởi động lực
bên trong của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất mà lực lượng sản
xuất thì không ngừng phát triển và càng về sau thì càng phát triển nhanh
hơn, mạnh hơn.
Do các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hoá và dịch vụ dịch
chuyển tự do từ nước này sang nước khác nên sự phân công lao động ngày
càng sâu sắc và diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, hình thành nên các chuỗi
giá trị toàn cầu. Từ thực tế này, một loạt vấn đề mới đặt ra trong chính sách
thương mại và đầu tư. Trong đó, có đối sách của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
trước xu thế của thời đại, hoặc tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá hay đứng
ngoài tiến trình ấy.
Tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, tiến cùng thời đại tuy thách thức
là rất lớn, nhưng cơ hội cũng rất nhiều. Không tham gia vào tiến trình ấy, trở
thành người ngoài cuộc sẽ bị phân biệt đối xử trong tiếp cận thị trường về
hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, sẽ rất khó khăn trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là trong bối cảnh thế
giới đang diễn ra cuộc cách mạng kỹ thuật - công nghệ lần thứ 3; và từ đó,
dẫn đến làn sóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế lần thứ 3. Mà sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở mỗi nước sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các
nước.
Điều quan trọng nữa là quốc gia nào không tham gia vào tiến trình
này, quốc gia đó sẽ không có địa vị bình đẳng trong việc bàn thảo và xây
dựng định chế của nền thương mại thế giới, không có điều kiện để đấu tranh
bảo vệ quyền lợi của mình.
Việt Nam là một bộ phận kinh tế không thể tách rời của thế giới. Công
cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước làm cho dân giàu
nước mạnh sẽ không thể thực hiện được nếu không gắn liền với sự giao
thương trao đổi hàng hoá, khoa học kỹ thuật tiên tiến với các nước khác. Vì
vậy Việt Nam không thể đứng ngoài vòng xoáy của nên kinh tế toàn cầu.
Trên cơ sở những thành tựu đạt được sau gần 10 năm đổi mới(1986-1995),


năm 1995 nước ta chính thức làm đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới.
1
II.NỘI DUNG
1.Bản chất của WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1
tháng 1 năm 1995 và là một bước phát triển toàn diện của Hiệp định chung
về thuế quan và thương mại (GATT). WTO quản lý các Hiệp định thương
mại do các Thành viên ký kết, đặc biệt là Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT), Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) và
Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs). Các quy định và thủ tục của
WTO tạo ra một khuôn khổ cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ và sở hữu trí
tuệ. Các nguyên tắc và quy định được các Thành viên đàm phán thông qua
các cuộc thảo luận chính thức và không chính thức khác trong các diễn đàn
khác nhau của WTO và các vòng đàm phán thương mại đa phương định kỳ
như Vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển hiện nay (DDA).
Các Thành viên WTO có trình độ kinh tế khác nhau, từ những nền
kinh tế kém phát triển nhất cho tới những nền kinh tế phát triển nhất. Sự
thành công của tổ chức này được thể hiện ở sự phát triển liên tục số lượng
các nước tham gia. Kể từ khi tổ chức này được thành lập đến đã có tổng số
thành viên là 153(tính đến 23/6/2008) chiếm trên 90% tổng thương mại toàn
cầu. Các Thành viên mới của châu Á gia nhập WTO trước Việt Nam là
Trung Quốc và Đài Loan, hai nền kinh tế gia nhập năm 2001 và 2002,
Ácmênia (2003), Campuchia (2004) và Nêpan (2004).
2.Các mốc lớn trong quan hệ của Việt Nam với WTO
1994: Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và thiết lập
quan hệ ngoại giao bình thường vào năm 1995. Điều này đã thúc đẩy việc
mở cửa nền kinh tế Việt Nam.
1995: Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO vào tháng 1 năm 2005.
1996: Bắt đầu cuộc gặp thường kỳ của Ban công tác về việc Việt

Nam gia nhập WTO.
1998: Các cơ quan quản lý Việt Nam quyết định đẩy nhanh tiến trình gia
nhập WTO.
2001: Phiên đàm phán đa phương lần thứ 9 của WTO/GATT – vòng đàm
phán Đôha vì sự phát triển – được khởi động vào tháng 11 năm 2001.
2002: Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên đối với hàng hóa và dịch vụ.
2
2004: Việt Nam đưa ra Bản chào sửa đổi tham vọng hơn về tiếp cận thị
trường vào tháng 6 năm 2004 tại phiên họp lần thứ 8 của Ban công tác, Bản
chào này thể hiện một bước đột phá trong đàm phán gia nhập WTO.
2004: Bắt đầu các cuộc đàm phán song phương với các Thành viên WTO.
Một Thỏa thuận đột phá được ký kết với Liên minh châu Âu.
2005: Ký thỏa thuận với Trung Quốc về việc Việt Nam gia nhập WTO.
2006: Hoa Kỳ và Việt Nam ký Hiệp định song phương về các cam kết gia
nhập WTO của Việt Nam, đây là Hiệp định song phương cuối cùng và
dường như là khó khăn nhất trong số 28 Hiệp định song phương với các
Thành viên WTO.
2002 – 2006: Các cơ quan quản lý Việt Nam đã rà soát sâu rộng hầu hết luật
và quy định của Việt Nam trong các lĩnh vực liên quan tới WTO cũng như
các lĩnh vực khác và đã đưa kế hoạch hành động liên quan tới WTO vào Kế
hoạch phát triển năm năm 2006 – 2010 (SRV, 2006)
2007: Việt Nam trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế
giới vào ngày 11 tháng 1 năm 2007.
2007: Chính phủ Việt Nam đưa ra chương trình hành động thực thi các cam
kết gia nhập WTO.
Vào năm 2002, Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ, sau đó Bản chào sửa đổi vào tháng 7 năm 2004
mang tính tham vọng hơn. Cả hai Bản chào đều được các Thành viên WTO
hoan nghênh. Sau một số vòng đàm phán, các đối tác thương mại của Việt
Nam đồng ý bắt đầu dự thảo Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia

nhập WTO và tiến hành các cuộc đàm phán song phương cần thiết để đạt
được thỏa thuận gia nhập giữa các bên.
Trong quá trình gia nhập WTO của mình, Việt Nam đã không nhận
được nhiều đối xử đặc biệt và khác biệt từ các Thành viên WTO. Việt Nam
đã phải thực hiện các bước cụ thể trước, trong và sau giai đoạn đàm phán để
có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức nhằm hỗ trợ quá trình phát triển
của mình. Các nỗ lực này được một số nhà tài trợ và tổ chức quốc tế hỗ trợ
thông qua việc cung cấp các chương trình xây dựng năng lực và kinh
nghiệm (một trong số các chuyên gia dày dạn kinh nghiệm hỗ trợ Việt Nam
trong những ngày đầu của tiến trình gia nhập là Ông Arthur Dunkel, cựu
Tổng giám đốc của WTO và ông Trần Văn Thìn, cựu đại sứ của EC tại
GATT). Nhờ có sự kết hợp phù hợp giữa các nỗ lực và dự án của Việt Nam
và quốc tế, các mục tiêu phát triển của Việt Nam trong tiến trình gia nhập
WTO đã được làm rõ và Việt Nam đã đưa ra được các chiến lược đàm phán
phù hợp. Cụ thể hơn, các cơ quan Việt Nam đã đưa ra các bước đi để thực
hiện mục tiêu này.
3
3.Cơ hội
a. Đối với quốc gia
Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đứng trước những
cơ hội lớn như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các
nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành
dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước
này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng
thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp
và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc
gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch
xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là
yếu tố bảo đảm tăng trưởng.

Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các
thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước
ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những
phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút
mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công
nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm
và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực,
đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế
này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản
xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút
hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các
thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có
cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn,
hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả
năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
4
Bốn là: Mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách
thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài
nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng
thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của
ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20
năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc
tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo

phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO
mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là
trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý
nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh
nhân còn nhỏ bé.
b.Đối với doanh nghiệp
Sự cần thiết phải tuân thủ các cam kết WTO buộc Việt Nam phải tiến
hành những cải cách quan trọng, cuối cùng sẽ cải thiện môi trường kinh
doanh như: các thủ tục được chuẩn hóa và minh bạch hơn, quyền lợi của các
nhà đầu tư được bảo đảm hơn Việc đơn giản hóa 3 thủ tục cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế và cấp giấy phép khắc dấu có tác
động tích cực đối với các doanh nghiệp mới. Việc mở ra hệ thống tài chính
cạnh tranh sẽ tạo cơ hội tiếp cận tài chính tốt và có tính cạnh tranh hơn cho
doanh nghiệp nhỏ, cùng các dịch vụ tài chính mới trong lĩnh vực cho thuê tài
chính, giải chấp thanh toán, tư vấn tài chính và dịch vụ thông tin. Việt Nam
giảm thuế các nghĩa vụ nhập khẩu đối với sản phẩm như máy móc, thiết bị
tạo điều kiện mang nhiều hàng hóa đến với các doanh nghiệp trong nước với
mức giá hợp lý, giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nâng cao hiệu quả
nhờ được cung cấp nguồn lực tốt hơn.
Tư cách thành viên WTO là bằng chứng của một môi trường kinh
doanh thuận lợi, và nhờ đó, sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
khu vực xuất khẩu và khu vực sản xuất cho thị trường nội địa. Tuy nhiên,
xác định mức độ mà tư cách thành viên WTO tác động đến FDI là một việc
khó khăn, bởi có quá nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư.
5
Từ khi gia nhập WTO, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam
được mở rộng thị trường tiêu thụ đem lại lợi nhuận cao. Hơn nữa, doanh
nghiệp còn tranh thủ được những ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

c.Đối với người tiêu dùng
Theo tính toán của Bộ Tài chính, trong vòng 5 năm sau khi vào WTO,
do phải cắt giảm 3.800 dòng thuế nhập khẩu nên nguồn thu ngân sách từ
nhập khẩu sẽ giảm 300 triệu USD. Tức trung bình mỗi năm giảm khoảng
1.000 tỷ đồng. Điều này cũng có nghĩa là người tiêu dùng được hưởng lợi-từ
những hàng hóa nhập khẩu do được giảm thuế nhập khẩu rẻ đi tương ứng-ít
nhất là tương đương con số nêu trên.
Khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, hàng hóa các nước sẽ thâm
nhập thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh với
hàng nhập nhằm tồn tại, phát triển.
Với 3 nhóm hàng mà người tiêu dùng đang quan tâm là ti vi, điều hòa,
máy giặt, sẽ phải giảm thuế suất thuế nhập khẩu từ 50% và 40% hiện hành
xuống 40% và 38% ngay khi vào WTO và xuống còn 25% sau 3-5 năm.
Ngoài ra, người tiêu dùng Việt Nam cũng sẽ hưởng lợi khi các sản
phẩm công nghệ thông tin sẽ phải giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0% trong
vòng 3-5 năm kể từ khi gia nhập WTO (có khoảng 330 dòng thuế thuộc diện
công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0%).
Hai mặt hàng nhạy cảm là rượu và bia, WTO cho Việt Nam thời gian
3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt xuống tương xứng với mức
chung của WTO (chúng ta đã bắt đầu thực hiện lộ trình kể từ 1/12006 theo
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi).
Đặc biệt là cơ hội mua xe máy, ô tô giá rẻ.
d. Đối với người lao động
Khi Việt Nam gia nhập WTO, cơ hội việc làm sẽ mở ra cho hàng triệu
thanh niên trong các ngành công nghệ cao thuộc các lĩnh vực tự động hoá,
6
công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ sinh học ứng dụng và một số
ngành dịch vụ như du lịch, bảo hiểm, ngân hàng.
VN sẽ có những thuận lợi trong việc đưa lao động tham gia vào thị

trường nhân lực quốc tế. Đó là tranh thủ được vốn, kinh nghiệm quản lý, kỹ
thuật, công nghệ của nước ngoài đầu tư tạo việc làm chất lượng cao và đào
tạo nhân công trình độ cao cho VN.
VN sẽ mở rộng sự tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Khi ấy thị trường lao động không còn bó hẹp trong biên giới quốc gia mà sẽ
được mở rộng tới các tập đoàn quốc tế. Người lao động có cơ hội học hỏi
nhiều hơn, tiếp cận với những môi trường làm việc lý tưởng, và tất nhiên thu
nhập sẽ cao hơn
 Nhận định qua 3 năm thực hiện:
Ngày 11-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Ba năm qua, trên con đường hội nhập quốc tế,
nước ta đã tham gia đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, mở rộng thị trường
hàng hóa dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các
thể chế, đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo hướng hiện đại.
Năm 2010 sẽ là năm đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, nền
kinh tế nước ta sẽ có nhiều chuyển biến. Chúng ta gia nhập WTO đúng thời
điểm kinh tế thế giới diễn biến xấu đến hai lần. Lần thứ nhất là năm 2007 giá
cả thị trường thế giới tăng cao, đặc biệt là giá dầu; lần thứ hai là cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua. Năm 2008 là năm khá đặc biệt, trong nửa
đầu năm, nền kinh tế nước ta phải đối phó với tình trạng lạm phát cao. Năm
2009, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tiếp tục tác động tiêu cực đến tình
hình kinh tế - xã hội của nước ta. Nhất là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). Tốc độ tăng trưởng kinh tế, sản xuất và kinh doanh, xuất
khẩu và đầu tư từ quý 1 đến quý 3 giảm sút nghiêm trọng, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) chỉ còn khoảng 165 tỷ đô-la Mỹ bằng gần 1/3 so với
năm 2008. Những khoản tín dụng đầu tư trong nước không còn dồi dào như
các năm trước; nhiều hợp đồng cho vay trở nên chặt chẽ hơn, khiến nhiều
nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc thu xếp tín dụng cho các dự án mới.
Nếu chưa gia nhập WTO thì chắc chắn Việt Nam sẽ gặp khó hơn
nhiều vì hàng hóa của chúng ta phải chịu thuế rất cao. Theo đánh giá của

nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan thì 3 năm hội nhập nền kinh tế thế giới,
chúng ta thấy những tác động hữu hình và vô hình rõ hơn. Về hữu hình, xuất
khẩu đã gia tăng đáng kể, tuy nhiên đến năm 2009 lại bị âm 9% do tác động
7
của khủng hoảng kinh tế thế giới. Nhưng nếu chúng ta không tham gia hội
nhập, xuất khẩu sẽ còn bị giảm nhiều hơn. Về mặt vô hình, xã hội đã nhận
thức được nhu cầu hội nhập và đồng thuận cao. Đặc biệt để hội nhập vào nền
kinh tế thế giới đã tạo ra sức ép buộc các cơ quan trung ương và địa phương
phải giảm khoảng 30% các thủ tục hành chính. Nhấn mạnh ý nghĩa của sự
kiện Việt Nam gia nhập WTO, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đánh giá:
“Nếu không hội nhập thì chúng ta sẽ chịu những rào cản lớn hơn, những chế
xuất cao hơn rất nhiều, không phải dừng ở 0,9%. Nổi bật nhất là thể chế của
chúng ta đã đổi mới đáng kể, trước và sau khi ra nhập WTO, đặc biệt nghị
định 30 của chính phủ về vấn đề giảm bớt 30% thủ tục, cũng là biểu hiện
mới từ sức ép của quá trình hội nhập, sức ép của quá trình khủng hoảng đưa
tới những cải cách đó. Chúng ta đã dần nhận biết rõ hơn cái đỏng đảnh của
thể chế thị trường và nền kinh tế thế giới và từ đó tìm cách ứng phó cơ động
linh hoạt. Kết quả là chúng ta ứng phó tương đối thành công, qua đó nó bộc
lộ rõ những cơ hội, thách thức của quá trình hội nhập đồng thơìbộc lộ rất rõ
điểm mạnh điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam”.
Ba năm chưa phải là một khoảng thời gian dài để Việt Nam hoàn toàn
hội nhập được với nền kinh tế thế giới, trước mắt còn nhiều thách thức lớn
đặt ra. Vì vậy cần phải nhận biết tốt hơn các thị trường tự do, thể chế thị
trường, nếu không sẽ khó ứng xử. Các cơ quan nhà nước cũng cần nghiên
cứu nhiều hơn về thị trường thế giới để có các chính sách cơ động, linh hoạt
nhưng phải dễ tiên đoán. Trong năm 2010, Việt Nam cũng phải chọn lựa
giữa chất lượng và tốc độ tăng trưởng; đối mặt với mâu thuẫn muốn ổn định
vĩ mô phải thắt chặt tiền tệ; Cân bằng giữa thị trường ngoài nước và trong
nước, giữa can thiệp của Nhà nước và điều tiết thị trường; Đặc biệt là chọn
lựa mô hình phát triển phù hợp để Việt Nam có thể trở thành nước công

nghiệp vào năm 2020.
4.Thách thức

a. Đối với quốc gia
Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của
đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của
chính quá trình hội nhập. Những thách thức này gồm:
8
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình
diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản
phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước,
không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế
nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức
trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm
mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh
nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước
trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát
huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy
được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt
trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không.
Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản
xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư
thông thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh
trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh
quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng
đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở
mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân
cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu

hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ
tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính
sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt
chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các
nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có
chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình
hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích
cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường
thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa
hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây
9
là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ,
với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ
môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
b. Đối với doanh nghiệp
Trước tiên, các nhà máy Việt Nam có chất lượng thấp, kỹ thuật lạc hậu, giá
thành cao, hệ thống phân phối kém, thiếu hiểu biết về hệ thống pháp luật.
Khi trở thành thành viên WTO, ngay lúc đầu giới kinh doanh Việt Nam sẽ
mất thị trường và phải bước vào đoạn điều chỉnh cấp thời.

Thứ hai, rất nhiều doanh gia Việt Nam không am tường luật lệ và thủ tục
(mới) của WTO. Những luật lệ và thủ tục hiện hành của WTO còn thay đổi
nhiều. Trong bước đầu hội nhập WTO, giới kinh doanh Việt Nam gặp phải
những cạnh tranh rất gay gắt vì giới quản lý cũng như nhân viên phải cấp kỳ
lãnh hội cách làm ăn mới để thích hợp với thương trường WTO. Nhiều nguy

cơ thua đậm trong những vụ tranh chấp pháp lý.

Thứ ba, sự thay đổi trong luật lệ kinh doanh là thử thách lớn cho khu vực
dịch vụ Việt Nam, không có vốn, không có công nghệ, và cũng chẳng có
kinh nghiệm so với các đối thủ quốc tế. Hệ thống phân phối hàng hóa trong
nội địa của Việt Nam sẽ gặp phải những cạnh tranh mãnh liệt của những
công ty nước ngoài.

Thứ tư, tất cả những xí nghiệp nội địa phải cạnh tranh ở mức cao hơn. Các
xí nghiệp này phải tự chỉnh đốn để sản xuất hàng chất lượng và có dịch vụ
tốt hơn, hay phá sản. Những khu vực yếu kém trong cạnh tranh như dịch vụ,
sản xuất sắt thép, lắp ráp xe hơi và nông nghiệp sẽ bị đe dọa trầm trọng.

Khu vực trước đây thuộc độc quyền kinh doanh của nhà nước như điện lực,
viễn thông, sẽ bị áp lực nặng nề để mở cửa cho tư doanh. Nhiều công ty Việt
Nam có khả năng bị công ty ngoại quốc nuốt chửng.

Thứ năm, sự phá sản của công ty nội địa làm tăng nạn thất nghiệp và gây
bất ổn định trong xã hội. Mặt khác, ngay cả nguồn vốn đầu tư nước ngoài có
khả năng, trong vài trường hợp, đưa đến tình trạng tài chính bất ổn định.
10

c. Đối với người tiêu dùng
Khi gia nhập WTO, người ta hi vọng việc giảm thuế sẽ làm giảm giá
một số sản phẩm, đặc biệt là thực phẩm. Tuy nhiên, người tiêu dung Việt
Nam vẫn phải chịu một mức giá cao trong thời gian qua. Thể hiện rõ nhất là
việc giảm thuế ngành sữa và các sản phẩm từ sữa.
Thực tế cho thấy, hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường nội địa
khiến cho người tiêu dùng có thể không muốn nhưng vẫn phải mua hàng với
giá cao mặc dù chất lượng có thể không được như mong muốn.

Một số sản phẩm nước ngoài khi nhập về Việt Nam được kiểm định
không chặt chẽ gây tác hại cho sức khỏe của người dân: đồ đông lạnh, sữa
quá hạn sử dụng…
Các thị trường như Hoa Kỳ, Úc, Hà Lan đã tận dụng được cơ hội cắt
giảm thuế quan của VN theo cam kết để tăng giá trị xuất khẩu của họ vào thị
trường nhưng ngược lại giá bán trong nước vẫn lien tục bị đẩy lên cao. Đây
là khó khăn lớn nhất cho người tiêu dùng nước ta.
d.Đối với người lao động
Thách thức đối với LĐ ở chỗ nguy cơ mất việc làm treo trên đầu bất
cứ ai. Khi gia nhập WTO, hàng hóa, dịch vụ nước ngoài tràn vào thị trường
VN; các doanh nghiệp, lĩnh vực VN không cạnh tranh được, sản xuất bị thu
hẹp hoặc khó tồn tại, ảnh hưởng đến công ăn việc làm. Tác động trực tiếp
nhất của việc thu hẹp sản xuất là người LĐ có nguy cơ mất việc làm. Không
loại trừ ngành dệt - may, da - giày mà những lĩnh vực dịch vụ, nông sản yếu
kém cũng bị đe dọa.
Tình trạng mất việc làm còn bởi trình độ của người lao động Việt
Nam còn hạn chế, chương trình đào tạo, hệ thống bằng cấp của Việt Nam
không phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Rất có thể thanh niên Việt Nam phải
đứng nhìn lao động từ các nước vào VN làm việc và hưởng lương rất cao.
Thời cơ đòi hỏi DN và chính mỗi người lao động Việt Nam phải nâng
tầm lên cao hơn và phải có sự bứt phá về chất lượng. Nếu làm được như vậy,
thị trường lao động sẽ có bước chuyển mới.
11
Câu hỏi đặt ra: Ai là người bị thách thức nhiều nhất??
Đó chính là doanh nghiệp nông nghiệp với chủ thể là người nông
dân.
Để gia nhập WTO, Việt Nam đã phải đàm phán tất cả các nội dung
liên quan đến nông nghiệp và đi tới cam kết điều chỉnh hệ thống chính sách
trong nước phù hợp với quy định của WTO, không trợ cấp xuất khẩu nông
sản ngay khi gia nhập.

Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn trong xuất khẩu nông sản.
Từ chỗ 20 năm trở về trước, Việt Nam hầu như không xuất khẩu nông sản,
cho tới nay, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo và cà phê đứng thứ
hai trên thế giới và cũng là nước đứng trong nhóm quốc gia hàng đầu về
xuất khẩu thuỷ sản và nhiều sản phẩm nhiệt đới khác như cao su, hồ tiêu, hạt
điều, chè.
Tuy nhiên, thực tế của môi trường kinh doanh mới khi Việt Nam gia
nhập WTO sẽ đặt ra những vấn đề khó khăn cho nền nông nghiệp nói chung
và các doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng.
Dưới đây là một số ý kiến về những kinh nghiệm và bài học hay,
những giải pháp, hành động khả thi đặc biệt về hoàn thiện vai trò quản lý
Nhà nước, hành lang pháp lý giúp các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
có thể tồn tại và phát triển hiệu quả trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt khi
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, qua đó thúc đẩy sự phát triển bền vững
của ngành, tạo thêm nhiều việc làm thu nhập thoả đáng, cải thiện đời sống
cho người lao động trong ngành nông nghiệp.
Những vấn đề lớn của doanh nghiệp nông nghiệp
Việt Nam đang hội nhập ngày một sâu rộng vào nền kinh tế khu vực
và thế giới. Đến nay, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành việc cắt giảm thuế
hàng nông sản trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Mức thuế
bình quân đã giảm xuống còn khoảng 4% so với mức thuế MFN hiện hành
bình quân của hàng nông sản là 24,5%.
Đối với Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA),
Việt Nam đã thực hiện giảm thuế trong Chương trình “Thu hoạch sớm” đối
với các nông sản tươi sống (từ chương 1 đến chương 8 của biểu thuế) từ
1/1/2004 và sẽ hoàn thành vào 1/1/2008.
12
Chương trình “cắt giảm thông thường” cho các sản phẩm còn lại cũng
đã bắt đầu triển khai từ giữa năm 2005 và sẽ cơ bản hoàn thành để có thuế
suất xuống 0 - 5% vào năm 2013. Còn Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-

Hàn Quốc vừa kết thúc đàm phán sẽ được triển khai thực hiện trong tương
lai không xa. Ngoài ra, Việt Nam đang tích cực tham gia đàm phán về Khu
vực mậu dịch tự do giữa ASEAN với các nước Nhật Bản, Ấn Độ, Australia
và New Zealand.
Để gia nhập WTO, Việt Nam đã phải đàm phán tất cả các nội dung
liên quan đến nông nghiệp và đi tới cam kết điều chỉnh hệ thống chính sách
trong nước phù hợp với quy định của WTO, không trợ cấp xuất khẩu nông
sản ngay khi gia nhập; về mở cửa thị trường nông sản cũng đã kết thúc đàm
phán song phương với 28 nước.
Theo đó, Việt Nam sẽ giảm thuế hàng nông sản khoảng 20%) so với
mức MFN hiện hành trong vòng 3- 5 năm (từ mức 24,5% hiện nay xuống
còn xấp xỉ 20%). Tất nhiên sẽ có sự khác nhau về mức độ giảm thuế giữa
các sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm. Những nhóm hàng phải giảm nhiều nhất
là thịt, sữa, rau quả chế biến, thực phẩm chế biến, quả ôn đới.
Cam kết về hệ thống chính sách nông nghiệp điều chỉnh phù hợp với
WTO sẽ tạo ra môi trường kinh doanh trong nước bình đẳng cho mọi thành
phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Bên cạnh cơ hội
tiếp cận thị trường các nước trong khu vực, gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện
mở rộng thị trường cho nông, lâm sản Việt Nam do được hưởng quy chế
MFN của 149 nước thành viên WTO. Điều này rất phù hợp với chiến lược
phát triển nông nghiệp và nông thôn đến năm 2010 là phát triển một nền
nông nghiệp hướng mạnh ra xuất khẩu. WTO còn là diễn đàn để các nước
đấu tranh chống lại những đối xử bất công trong thương mại.
Trong quá trình đổi mới và hội nhập, các doanh nghiệp trong ngành
nông nghiệp đã đúc rút, tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm để phát triển.
Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư theo chiều sâu và đa dạng hoá sản phẩm để
tăng khả năng xâm nhập thị trường, đây là cơ sở tốt để các doanh nghiệp
vươn lên khi cơ hội thị trường rộng mở.
Tuy nhiên, ngành nông nghiệp nói chung, các doanh nghiệp nông
nghiệp nói riêng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức từ nội tại

cũng như từ quá trình tự do thương mại đem đến. Những khó khăn mang
tính nội tại này xuất phát từ nền nông nghiệp nước ta có trình độ phát triển
13
thấp, quy mô sản xuất nhỏ bé, manh mún, năng suất lao động rất thấp, chất
lượng nhiều loại nông sản không cao, nhiều doanh nghiệp chế biến luôn
trong tình trạng thiếu hoặc không đảm bảo nguyên liệu dẫn đến giá thành
cao, chất lượng thấp.
Đa số doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp đều là doanh nghiệp
vừa và nhỏ, có tới 60% số doanh nghiệp nông lâm nghiệp có vốn dưới 10 tỷ
đồng. Vì thế, hiệu quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp thấp
hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác.
Những yếu tố để đánh giá năng lực hội nhập kinh tế quốc tế như tỷ lệ
cán bộ biết ngoại ngữ, vi tính, tham gia đào tạo, xây dựng mạng lưới khách
hàng, thương hiệu trong các doanh nghiệp nông nghiệp nhìn chung còn
thấp, nhất là doanh nghiệp địa phương và doanh nghiệp tư nhân.
Bên cạnh đó, thách thức mang đến cho từng ngành có sự khác nhau
khi tham gia tự do hoá thương mại khu vực hoặc WTO, trong đó, các doanh
nghiệp thuộc ngành mía đường, rau quả, chăn nuôi sẽ phải chịu nhiều áp lực
lớn từ việc mở cửa thị trường nội địa.
Ngoài các cam kết về mở cửa thị trường, Việt Nam còn cam kết mở
rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, quyền phân phối cho các doanh
nghiệp nước ngoài. Vì thế, các công ty đa quốc gia vốn rất mạnh về tài
chính, hệ thống phân phối, thông tin, trình độ quản lý khi vào kinh doanh
tại Việt Nam sẽ là những thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp nội địa,
đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh chóng đổi mới, vươn lên để tồn tại và
hoạt động có hiệu quả.
Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
Để có môi trường cạnh tranh lành mạnh và đáp ứng những quy định
của WTO thì tự thân thị trường và các doanh nghiệp không thể tạo ra, mà
phải có vai trò can thiệp của Nhà nước khi trên thị trường xuất hiện các hành

vi kinh doanh sai luật và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trong điều kiện ở nông thôn của một nền kinh tế như Việt Nam hiện
nay, các doanh nghiệp còn yếu và hạn chế về các hoạt động thị trường (vốn,
đất đai, lao động), chưa hiểu được các nguyên tắc cơ bản của cạnh tranh
trong kinh tế thị trường, giữa những doanh nghiệp Nhà nước với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có sự cách biệt rất xa và sự khác
14
biệt giữa các doanh nghiệp còn tăng lên theo khoảng cách gần, xa với các
thành phố, trung tâm công nghiệp, dịch vụ.
Vì vậy, sự tác động của Nhà nước vào từng khu vực sẽ không giống
nhau và phải theo các đặc thù của từng nhóm doanh nghiệp. Trong thời gian
tới, Nhà nước sẽ thúc đẩy nhanh hơn tiến độ cải cách các doanh nghiệp Nhà
nước trong nông nghiệp, nông thôn theo đúng các quy luật của kinh tế thị
trường.
Theo đó, các doanh nghiệp Nhà nước trong nông, lâm, thuỷ sản được
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của thị trường trên các nguồn
lực mà Nhà nước giao và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh trước pháp luật. Các chính sách hỗ trợ đối với sản xuất
nông, lâm, thuỷ sản sẽ được triển khai chung theo vùng hoặc theo ngành sản
phẩm dựa trên quy hoạch do Nhà nước xác định, đồng thời, xoá bỏ những
ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước trong việc tiếp nhận các khoản hỗ trợ
của Nhà nước như hiện nay.
Đối với khu vực hợp tác xã và các tổ chức kinh tế hợp tác nhỏ ở nông
thôn, Nhà nước cần triển khai đồng bộ những quy định về các chính sách
khuyến khích, hỗ trợ phát triển hợp tác xã, Luật hợp tác xã để giúp khu vực
này có đủ năng lực tham gia cạnh tranh trên thương trường, nâng cao năng
lực hợp tác trong các hoạt động dịch vụ và sản xuất, kinh doanh.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân, cần phải tiếp tục triển khai những
công việc như: tổ chức nối mạng hệ thống thông tin đăng ký kinh doanh
doanh nghiệp trong cả nước và bãi bỏ quy định doanh nghiệp chỉ được đăng

ký thành lập ở cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh; từng tỉnh hoặc một số
tỉnh trong vùng cần phối hợp tổ chức định kỳ hàng năm hội nghị gặp mặt các
chủ doanh nghiệp thuộc mọi loại hình ở nông thôn để trao đổi kinh nghiệm
và đối thoại với các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan
Bên cạnh đó, cần tiếp tục xây dựng và duy trì các điều kiện cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch giữa các loại hình doanh nghiệp trên mỗi vùng sản
xuất ở nông thôn bằng cách quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp, vùng
chuyển đổi sang công nghiệp, dịch vụ cụ thể và mang tính dài hạn, tạo cơ sở
pháp lý ổn định để các loại hình doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển kinh
doanh lâu dài.
Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất, chất
lượng, vệ sinh - an toàn thực phẩm đối với từng loại sản phẩm của nông,
15
lâm, thuỷ sản, công nghiệp chế biến, sản phẩm làng nghề và những hạn
chế trong sử dụng nguồn lực, tài nguyên trên mỗi vùng sản xuất ở nông thôn
cần sớm ban hành cho mọi loại hình doanh nghiệp, không phân biệt thành
phần, quy mô, tạo cơ sở để các loại hình doanh nghiệp và tư nhân xem xét,
quyết định đầu tư tham gia kinh doanh và cạnh tranh trên những điều kiện và
tiêu chuẩn do Nhà nước ban hành.
Định hướng cho nền thương mại nông nghiệp
Chính sách phù hợp của Chính phủ Việt Nam là điều kiện tiên quyết
dẫn đến sự thành công của ngành thương mại nông nghiệp Việt Nam trên thị
trường thế giới. Biện pháp đơn phương xoá bỏ mọi thuế quan đối với mặt
hàng bông và gỗ của Chính phủ giúp cho ngành công nghiệp xuất khẩu may
mặc và đồ gỗ của Việt Nam trở thành ngành hàng mũi nhọn cạnh tranh trên
thị trường thế giới. Xoá bỏ thuế quan đối với mặt hàng khô dầu đậu tương là
một bước tiến không chỉ đối với ngành xuất khẩu thuỷ sản mà còn đối với sự
phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi trong nước.
Thứ hai, việc cho phép các xí nghiệp liên doanh và các công ty 100%
vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam cũng là một bước tiến đối

với ngành thương mại nông nghiệp ở Việt Nam. Sự tham gia của các công ty
nước ngoài rất quan trọng trong việc phát triển ngành chăn nuôi, nuôi trồng
thuỷ sản, may mặc và sản xuất đồ gỗ. Gần đây, Chính phủ Việt Nam cũng đã
cho phép các công ty nước ngoài tham gia hoạt động trong lĩnh vực cà phê,
đây là một bước đi dự báo tốt đẹp cho sự phát triển tiếp theo của ngành này.
Thứ ba, cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục mở cửa
ngành nông nghiệp với các mức thuế thấp hơn và cho phép nhiều công ty
nước ngoài tham gia hơn, các bước đi này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho nền
thương mại nông nghiệp Việt Nam.
Một điều quan trọng đối với Việt Nam là cần đưa hệ thống y tế ngang
tầm với tiêu chuẩn quốc tế sao cho ngành thương mại nông nghiệp Việt Nam
có thể xuất khẩu các sản phẩm cho toàn thế giới và Việt Nam cũng có thể
tiếp cận một cách công bằng và cởi mở với các mặt hàng nông sản nhập
khẩu.
Đồng thời, tất cả các bạn hàng thương mại của Việt Nam trong WTO,
kể cả Hoa Kỳ cần phải bảo đảm rằng những yêu cầu về vệ sinh - an toàn
thực phẩm đối với các sản phẩm của Việt Nam phải dựa trên cơ sở khoa học
vững chắc và đơn giản hoá tối đa để có thể thực hiện được.
16
Ở một lĩnh vực khác, vấn đề có tính cấp bách đối với sự phát triển của
ngành thương mại nông nghiệp là Việt Nam cần tăng cường việc bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ. Mặc dù hiện nay có thể có một số các công ty đang thu
lợi trước mắt từ việc bỏ qua vấn đề bản quyền, đơn giản là do sự yếu kém
của hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, dẫn đến việc các doanh nghiệp
kinh doanh nông sản của Việt Nam không được tiếp cận với các nguồn gen
động thực vật hay máy móc công nghệ chế biến tiên tiến nhất.
Một ví dụ điển hình là trong lĩnh vực trồng hoa. Các nhà sản xuất
nước ngoài không muốn chịu rủi ro đánh mất lợi thế của mình khi chào bán
các loại gen hay công nghệ hàng đầu, và kết quả là họ chỉ chào bán các sản
phẩm loại 2 hay loại 3 cho các nhà nhập khẩu Việt Nam. Không bảo đảm

được quyền sở hữu trí tuệ cũng có nghĩa là các doanh nghiệp nông sản Việt
Nam không thể đưa chính mình vào vị thế đón đầu công nghệ mới.
WTO tác động tích cực đến doanh nghiệp nông nghiệp
Gia nhập WTO mang lại cho các doanh nghiệp nông nghiệp rất nhiều
cơ hội tương đối cơ bản để có thể thay đổi vị thế của họ trên thương trường
cũng như sự phát triển trong tương lai.
Điều đầu tiên, cơ hội lớn nhất chính là sự quan tâm, môi trường pháp
lý và chính sách đối với nông nghiệp sẽ tốt hơn, minh bạch và ổn định hơn
do vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển của Việt Nam, vừa phù hợp với các
cam kết của WTO.
Thứ hai, Nhà nước sẽ điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển
nông nghiệp theo hướng thị trường hơn, bền vững hơn. Đây là điều quan
trọng để giúp cho các doanh nghiệp phát triển bởi nhiều chiến lược, quy
hoạch trong lĩnh vực nông nghiệp cho đến nay vẫn chưa thực sự theo hướng
thị trường hoặc tôn trọng các quy luật của thị trường. Trong thời gian tới, khi
thị trường phát triển tốt hơn thì doanh nghiệp cũng có cơ hội phát triển.
Thứ ba, các biện pháp, công cụ hỗ trợ mới của Nhà nước đối với nông
nghiệp và phát triển nông thôn sẽ công bằng và phù hợp hơn theo cam kết
của WTO.
Thứ tư, các ngành dịch vụ, công nghệ, công nghiệp hỗ trợ nông
nghiệp sẽ phát triển, cơ sở hạ tầng ở nông thôn sẽ được cải thiện. Vì hiện
nay có 2 vấn đề lớn cần phải được cải thiện, đó là dịch vụ tín dụng để cho
thương mại nông sản có thể phát triển và dịch vụ hạ tầng cơ sở.
17
Triển vọng tiếp cận thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp nông
nghiệp cũng tốt hơn do vị thế mới của Việt Nam trong WTO và Việt Nam sẽ
được tham gia vòng đàm phán Doha để bảo vệ quyền lợi về nông nghiệp ở
đó. Thị trường nội địa của Việt Nam cũng sẽ phát triển, hệ thống phân phối
mở rộng, thuận lợi hơn cho tiêu thụ nông sản.
Đến nay, thị trường nội địa vẫn còn đóng góp khoảng 70% cho tiêu

thụ nông sản của Việt Nam nói chung, cho nên thị trường nội địa vẫn còn
tiềm năng rất lớn để các doanh nghiệp nông nghiệp có thể khai thác.
Đồng thời, triển vọng mở rộng thị trường nông thôn cho các sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp nông nghiệp sẽ tốt hơn, cũng như khả năng
tiếp cận các nguồn lực cần thiết sẽ thuận lợi hơn. Đặc biệt, chi phí đầu vào
có thể giảm do cạnh tranh bởi nguồn cung trong nước và nhập khẩu đều tăng
và do Nhà nước tiến hành xã hội hoá một số dịch vụ.
Trong thời gian tới, Nhà nước sẽ cải cách doanh nghiệp Nhà nước, các
nông lâm trường quốc doanh để tạo bình đẳng cho các doanh nghiệp nông
nghiệp, giải phóng một số nguồn lực như đất đai, quyền kinh doanh trong
một số lĩnh vực nông sản; cơ cấu lại lực lượng lao động trong nông nghiệp
với tiêu chí giảm xuống còn 50%.
Khả năng liên kết 4 nhà, liên kết các ngành, vùng sẽ thực chất hơn và
mang tính bền vững hơn. Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài, hợp tác
quốc tế trong nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng sẽ tốt hơn môi
trường kinh doanh, môi trường đầu tư sẽ được cải thiện, tạo niềm tin cho các
nhà đầu tư nước ngoài.
5. Liên hệ với sinh viên
Thế giới cạnh tranh không khoan nhượng với sự đòi hỏi ngày càng
cao của thị trường nhân lực. Việt Nam gia nhập WTO là một cơ hội và cũng
là thách thức với tất cả chúng ta. Vậy để góp phần nâng cao vị thế của đất
nước trên trường quốc tế, thế hệ sinh viên Việt Nam cần phải chuẩn bị
những gì?
Sinh viên Việt Nam được đánh giá là cần cù, ham học hỏi…tuy nhiên
từng đó là chưa đủ với một người sinh viên có đẳng cấp quốc tế. Chúng ta
phải học tập và rèn luyện nhiều hơn nữa để vươn lên một tầm cao mới.
18
Việc cần làm đầu tiên là xác định rõ mình đang học tập để làm gì cho
đất nước, mình đã làm được gì cho đất nước? Để trả lời cho câu hỏi đó, đòi
hỏi sinh viên phải tìm hiểu kĩ về tình hình kinh tế, văn hóa, chính trị trong

nước. Không những thế còn phải tìm hiểu về các nước trên thế giới, học hỏi
ở họ mức độ cần thiết, đúc rút kinh nghiệm và những bài học quý báu.
Thực tế hiện nay nhiều sinh viên ra trường rất khó kiếm được việc
làm như mình mong muốn, hoặc nếu có cũng khó phát huy được khả năng
của bản thân. Sở dĩ như vậy vì khi học tập trong trường đại học, họ chỉ chú
trọng đến lý thuyết mà không để ý đến thực hành, để ý đến một số kỹ năng
cần thiết như kỹ năng giao tiếp, làm việc theo nhóm…Sinh viên thường gặp
khó khăn, lúng túng trong việc cân đối giữa việc học với những hoạt động
khác, thường bỏ phí thời gian mà không đem lại mấy hiệu quả.
Để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập, cần thiết nâng cao trình độ ngoại
ngữ - phương tiện giao tiếp với các đối tác nước ngoài, trình độ sử dụng vi
tính và đặc biệt là trang bị cho mình kiến thức luật thương mại quốc tế.
Ngay từ bây giờ, ngoài việc chăm chỉ lên lớp, tham gia các kì thi bạn
hãy chủ động nâng cao các kỹ năng cá nhân của mình bằng hoạt động thiết
thực như giao lưu ngoại khóa, tình nguyện, trại hè ngôn ngữ, hay học thêm
các văn bằng cần thiết.
Đặc biệt đối với sinh viên nông nghiệp, ngành đang gặp rất nhiều
thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO thì vai trò các cử nhân kinh tế nông
nghiệp, kỹ sư nông nghiệp lại càng quan trọng. Nếu các bạn làm tốt nhiệm
vụ của mình sẽ giúp ích rất nhiều cho đất nước nói chung, cho người nông
dân nói riêng.
Sinh viên Việt Nam “ hòa nhập nhưng không hòa tan’’.
19
III. KẾT LUẬN
Việc nước ta gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này là một
tất yếu để phát triển. WTO không làm cho nước ta giàu lên hay nghèo đi mà
WTO mang đến cho chúng ta nhưng cơ hội lớn trong mọi lĩnh vực của đời
sống, kinh tế, xã hội và kèm theo đó là nhưng thách thức cũng rất lớn. WTO
cho chúng ta cơ hội được xuất khẩu hàng hoá sang nhiều nước trong tổ chức
với mức thuế suất ưu đãi nhưng chúng ta cũng phải cho họ nhập hàng hoá

về, thách thức đối với các nhà sản xuất trong nước là rất lớn. Nếu chúng ta
vượt qua được nhưng thách thức này và tận dụng được nhưng cơ hội mà
WTO mang lại thì chúng ta thành công.
Sau 3 năm gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này,
những thành quả về kinh tế đạt được chưa nhiều do cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu diễn ra năm ngoái và kết quả còn kéo dài đến năm nay nhưng
theo nhận định của Phó thủ tướng Vũ Khoan thì nếu không gia nhập tổ chức
này thì kết quả còn kém hơn nhiều. Sau 3 năm gia nhập Việt Nam đã nâng
cao vị thế và tư duy của mình trên trường quốc tế. Nói tóm lại, WTO là một
sân chơi có được, có mất. Được nhiều hay mất nhiều còn phụ thuộc vào
năng lực của mỗi quốc gia.
20

×