Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

"Made in USA" = "Thương hiệu toàn cầu"? docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.43 KB, 10 trang )

"Made in USA" = "Thương hiệu toàn cầu"?
Không ít người vẫn luôn coi mác "Made in USA"
(Được sản xuất tại Mỹ) là một dấu hiệu nhận biết
"thương hiệu toàn cầu". Nhưng một cuộc khảo sát
trên phạm vi 12 quốc gia đã chứng minh một điều
hoàn toàn khác.

Vào năm 2002, chúng tôi thực hiện một dự án nghiên
cứu với 2 giai đoạn cùng cộng tác với công ty nghiên
cứu thị trường của Mỹ (Research International) để tìm
hiểu xem người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau
đánh giá xem thương hiệu toàn cầu như thế nào.

Trước hết, chúng tôi thực hiện một nghiên cứu định
tính ở 41 quốc gia để biết được những đặc tính chính
mà người tiêu dùng thường gắn với các thương hiệu
toàn cầu. Sau đó, chúng tôi, chúng tôi đã tiến hành
khảo sát 1800 người ở 12 quốc gia để đo lường mức
độ quan trọng của những yếu tố đó khi người tiêu
dùng mua sản phẩm.

Qua phân tích tỉ mỉ, chúng tôi phát hiện ra người tiêu
dùng trên thế giới luôn gắn thương hiệu toàn cầu với
3 đặc tính và đánh giá chúng trong những yếu tố đó
khi đưa ra quyết định mua sản phẩm. Chúng tôi thấy
rằng yếu tố - các giá trị Mỹ - không ảnh hưởng lắm tới
người tiêu dùng, mặc dù các công ty thường coi đó là
yếu tố quan trọng.

Dấu hiệu chất lượng (Quality Signal)


Người tiêu dùng quan sát những cuộc chiến khốc liệt
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của các công ty
xuyên quốc gia và ấn tượng mạnh với người giành
chiến thắng. Một người Nga tham gia vào thảo luận
chuyên đề đã nói với chúng tôi rằng: "Càng có nhiều
người mua sản phẩm của một thương hiệu nào đó thì
chất lượng của nó càng tốt." Một người tiêu dùng ở
Tây Ban Nha cũng đồng ý với ý kiến trên: "Tôi thích
những thương hiệu toàn cầu bởi chúng luôn mang lại
chất lượng và sự đảm bảo tốt hơn những sản phẩm
khác".

Nhận thức đó thường được xem như là lý do căn bản
cho các thương hiệu toàn cầu tính thêm phần lãi cho
họ trong giá hàng hóa. Một người Thái tham gia cuộc
phỏng vấn chỉ ra rằng "các thương hiệu toàn cầu tuy
đắt nhưng giá của chúng sẽ trở nên hợp lý khi bạn
nghĩ đến chất lượng của nó". Người tiêu dùng cũng
tin rằng các công ty xuyên quốc gia cạnh tranh với
nhau bằng cách phát triển những sản phẩm mới và
có những bước đột phá công nghệ nhanh hơn đối thủ
của mình.

Một người Ấn Độ cho rằng các thương hiệu toàn cầu
"rất năng động và luôn nâng cấp đổi mới bản thân".
Một người Australia cũng cho biết thêm các thương
hiệu toàn cầu "thú vị hơn bởi vì họ lúc nào cũng đưa
ra được các sản phẩm mới, trong khi đó các sản
phẩm nội địa thì không như vậy."


Đó là một sự thay đổi rất quan trọng. Cho đến tận bây
giờ, nhận thức của con người về chất lượng giá trị và
năng lực công nghệ luôn gắn chặt với các quốc gia
chính gốc sản xuất sản phẩm đó. Cái mác "Được sản
xuất tại Mỹ" là rất quan trọng, cũng tương tự như vậy
đối với chất lượng Nhật Bản và thiết kế kiểu Italia ở
một vài ngành công nghiệp.

Tuy nhiên, phần lớn sự lớn mạnh toàn cầu của một
công ty ám chỉ việc công ty đó vượt trội hơn về chất
lượng sản phẩm so với các công ty khác như thế nào.
Chúng tôi kết luận rằng thước đo tiêu chuẩn nguồn
gốc xuất xứ của các tập đoàn là một nền tảng quan
trọng để so sánh và nhận thấy mặc dù chúng rất quan
trọng nhưng cũng chỉ chiếm 1/3 trong nhận thức của
con người về sự toàn cầu hóa của một thương hiệu”.




Truyền thuyết toàn cầu

Người tiêu dùng coi những thương hiệu toàn cầu như
là biểu tượng của những ý tưởng văn hóa. Họ sử
dụng các thương hiệu này để tạo ra một nhân cách
toàn cầu mà họ chia sẻ với những người có chung
khuynh hướng. Vì vậy, các công ty xuyên quốc gia
cạnh tranh với nhau không chỉ để mang lại những sản
phẩm có giá trị cao mà còn phải mang lại những câu
chuyện có tính truyền thuyết văn hóa theo nhu cầu

toàn cầu.

Một người Argentina nhận xét rằng: "Các thương hiệu
toàn cầu khiến chúng tôi thấy mình là những công
dân của thế giới và… chúng tôi đôi khi mang lại cho
chúng tôi một diện mạo". Một người New Zealand
cũng nói lại: "Các thương hiệu toàn cầu khiến bạn
thấy mình là một phần của cái gì đó rất lớn và cho
bạn cảm giác thuộc về nơi đó." Còn một người Costa
Rica lại thể hiện khát vọng mà người tiêu dùng muốn
có được từ các thương hiệu toàn cầu qua nhận xét:
“Các thương hiệu nội địa cho biết chúng ta là ai, còn
các thương hiệu toàn cầu cho ta thấy cái chúng ta
muốn trở thành.”

Điều này cũng không mới lắm. Trước chiến tranh thế
giới thứ 2, các công ty như Disney, McDonalds, Levi
Strauss và Jack Daniels đã tạo nên những truyền
thuyết toàn cầu của ngày hôm nay không còn gắn với
phong cách sống Mỹ. Hơn nữa, những truyền thuyết
không chỉ được tạo ra bởi những thương hiệu xa xỉ
và có phong cách mà còn được tạo ra bởi hầu hết tất
cả những thương hiệu toàn cầu ở các ngành công
nghiệp khác như công nghệ thông tin và dầu mỏ.

Trách nhiệm xã hội

Người ta nhận thấy rằng các công ty toàn cầu có sức
ảnh hưởng khá mạnh tới sự hưng thịnh của xã hội ở
cả phương diện tích cực và tiêu cực. Họ hy vọng các

hãng sẽ giải quyết những vấn đề xã hội liên quan tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Thực tế,
người tiêu dùng sẽ phản đối quyết liệt nếu như họ
thấy rằng các công ty xuyên quốc gia không hành
động vì sức khỏe cộng đồng, cũng như bảo đảm
quyền lợi của người lao động và môi trường.

Một số vụ việc rất đáng hổ thẹn đã làm dâng cao
thêm làn sóng phản đối từ cộng đồng - việc bán bột
ngũ cốc Nestless cho trẻ em sơ sinh tại châu Phi kê
từ những năm 1980, thảm kịch của vụ ngạt khí độc
do Union Carbide gây ra ở Bhopal (1) năm 1984, vụ
tràn dầu Exxon Valdez (2) năm 1989, cuộc phản đối
kịch liệt kế hoạch của hãng Shell giấu việc đầu cơ
dầu Brent Spar và những cuộc phản đối cơ sở hạ
tầng của Nigeria năm 1995.

Chính vì vậy, người tiêu dùng tin rằng những thương
hiệu toàn cầu phải có nhiệm vụ đặc biệt, đó là giải
quyết các vấn đề xã hội. Một người Đức đã nói với
chúng tôi: "Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho Shell vì
vụ việc đầu cơ dầu đó". Một người Australia cũng
tranh luận: "McDonalds cũng phải trả lại tiền cho đất
nước chúng tôi, nhưng đó là trách nhiệm của họ. Họ
đang kiếm được quá nhiều tiền, họ cần phải trả lại
một ít."

Sân chơi này có vẻ không công bằng; người tiêu
dùng không yêu cầu các công ty địa phương phải giải
quyết vấn đề đang nóng lên của toàn cầu, nhưng họ

lại hy vọng những tập đoàn đa quốc gia khổng lồ như
BP hay Shell làm điều đó. Cũng tương tự như thế, họ
có thể phớt lờ đi khi việc các công ty địa phương bóc
lột người lao động nhưng lại không thể chịu được
những công ty xuyên quốc gia như Nike và Polo làm
giống như thế. Những mong đợi tương tự cũng xuất
hiện ở những nước đang phát triển như Trung Quốc
và Ấn Độ, cũng như ở các quốc gia phát triển ở châu
Âu.

Điều mà chúng tôi không tìm ra là quan điểm chống
Mỹ, quan điểm bóp méo những đánh giá về nước Mỹ
dựa vào những thương hiệu toàn cầu. Vì các công ty
của Mỹ chiếm lĩnh độc quyền thị trường quốc tế,
những lời chỉ trích buộc tội họ đã gây tổn hại đến nền
văn hóa bản địa của các quốc gia khác. Những người
ủng hộ tự do thương mại lại cho rằng những người
dân ở các quốc gia này muốn cùng chia sẻ giấc mơ
Mỹ và các thương hiệu như Cocacola, McDonalds và
Nike đã mở đường cho họ.

Cuộc tranh cãi đó đã mở ra và kéo dài một thời kỳ tối
tăm cho các công ty của Mỹ và hơn bao giờ hết họ
trở nên thận trọng hơn trong việc để lộ nguồn gốc,
văn hóa và các giá trị của mình khi làm ăn kinh doanh
ở nước ngoài. Rất nhiều công ty đã cố gắng đặt mình
vào vị trí toàn cầu chứ không phải là người Mỹ (bị cho
là xấu xa).

Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng người tiêu dùng thực

tế không để ý xem liệu những sản phẩm mang
thương hiệu toàn cầu mà họ mua có phải là của Mỹ
hay không. Mặc dù qua lời nói, rất nhiều người thể
hiện rằng họ có quan tâm tới điều đó. Một người
Pháp trong nhóm được phỏng vấn đã gọi các thương
hiệu của Mỹ là "mối đe dọa chủ nghĩa đế quốc đang
ngầm đe dọa nền văn hóa Pháp". Một người Đức
cũng nói với chúng tôi rằng người Mỹ "đang muốn áp
đặt cách thức của họ lên mọi người".

Nhưng lời nói lại trái với thực tế. Khi chúng tôi tính
toán mức độ ảnh hưởng của sản phẩm có nguồn gốc
từ Mỹ tác động đến quyết định mua hàng của người
tiêu dùng hay không, chúng tôi thấy rằng ảnh hưởng
như vậy là không đáng kể.

×