Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Sáng kiến KN tập làm văn lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.68 KB, 12 trang )

Một số biện pháp dạy học sinh dân tộc lớp 5 viết bài Tập
làm văn miêu tả đạt kết quả tốt.
A. Đặt vấn đề:
Có lẽ chúng ta đã biết, ở bậc tiểu học, môn Tiếng Việt cùng với các
môn học khác góp phần giáo dục và phát triển toàn diện cho học sinh. Qua
các bài học, học sinh hiểu biết thêm về thiên nhiên, cuộc sống xung quanh,
đất nước, con người Việt Nam . . . Trong chương trình Tiếng Việt lớp 5 mới,
bên cạnh các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu . . . Phân môn
Tập làm văn góp phần rèn cho học sinh các kó năng sử dụng Tiếng Việt:
Nghe – nói - đọc - viết. Bên cạnh, thông qua học Tập làm văn, học sinh có
điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các bài văn,
đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề Tập làm văn, học sinh lại có dòp hướng
tới cái chân - thiện - mó được đònh hướng trong các đề bài. Những cơ hội đó
làm nảy nở tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với con người và
những việc xung quanh của các em, giúp cho tâm hồn, tình cảm của các em
thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân
cách tốt đẹp của các em, đặc biệt là các em học sinh dân tộc.
Chính vì vậy, việc hình thành và rèn luyện kó năng viết văn miêu tả
cho học sinh dân tộc là một yêu cầu rất cần thiết.
Trong năm học 2007 – 2008 vừa qua, tôi được Ban giám hiệu Nhà
trường phân công giảng dạy lớp 5 với só số là 28 HS. Trong đóù 100% là học
sinh dân tộc.
Qua kết quả thi khảo sát đầu năm, tôi thống kê được chất lượng học
phân môn Tập làm văn như sau:

TSHS
GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU
SL TL SL TL SL TL SL TL
28 0 02 7,2% 12 42,8% 14 50%
Qua một năm tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp rèn kó năng viết văn
cho học sinh, tôi nhận thấy các em có nhiều tiến bộ, kết quả đạt được cuối


học kì II như sau:
TSHS
GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU
SL TL SL TL SL TL SL TL
28 04
14,3% 10
35,7
%
12 42,8% 02 7,2%
1
Năm học 2008 - 2009 này, tôi được BGH nhà trường phân công trực
tiếp giảng dạy và phụ trách lớp 5 với só số 23 học sinh, trong đó 100% là học
sinh dân tộc. Qua một thời gian giảng dạy phân môn Tập làm văn theo
chương trình sách giáo khoa mới, tôi nhận thấy việc dạy và học phân môn
Tập làm văn - đặc biệt là văn miêu tả có một số khó khăn nhất đònh đó là:
- Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, do điều kiện các em còn ít được
tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng nên vốn hiểu biết về thực tế
cũng như vốn từ ngữ của các em còn nhiều hạn chế, bởi thế các em cũng
chưa có kó năng dùng từ đặt câu cho chính xác.
- Các em viết bài văn miêu tả chưa đúng theo trình tự nhất đònh.
- Chưa biết cách chuyển ý giữa các đoạn, làm cho các đoạn văn trong một
bài văn rời rạc, chưa logic.
- Chưa bộc lộ cảm xúc của mình qua bài viết.
- Một sốù em khá- giỏi thì đa số bài viết của các em bó hẹp vào khuôn khổ
của những bài văn mẫu; Tuy nhiên những từ ngữ, hình ảnh trong bài văn mẫu
không phù hợp với thực tế của học sinh dân tộc.
Từ những lí do trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy các em, tôi suy
nghó làm sao tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp nhằm thực hiện mục tiêu
của môn học- đó là giúp các em học sinh dân tộc biết cách quan sát và ghi lại
những quan sát của mình một cách chân thật, sinh động bằng những từ ngữ,

hình ảnh giàu cảm xúc mà phù hợp với thực tế các em, đồng thời góp phần
cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logíc, tư duy trừu
tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mó, hình thành nhân cách cho học
sinh. . . Đó chính là lí do và mục đích mà tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện
pháp dạy học sinh dân tộc lớp 5 viết bài Tập làm văn miêu tả đạt kết quả
tốt”. Đây là kinh nghiệm tôi rút ra trong quá trình giảng dạy.
B. Giải quyết vấn đề:
Phân môn Tập làm văn trong chương trình lớp 5 mới gồm các kiến
thức:
- Văn miêu tả: + Tả cảnh
+ Tả người
- Các loại văn bản khác: + Báo cáo thống kê.
+ Đơn.
2
+ Thuyết trình tranh luận.
+ Biên bản. . .
Trong đó thể loại văn miêu tả khá trọng tâm và quan trọng trong
chương trình Tập làm văn lớp 5. Bởi văn miêu tả vẽ ra các sự vật, sự việc,
hiện tượng, con người. . . bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Văn
miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang “xem tận mắt,
bắt tận tay”. Tuy nhiên hình ảnh một cánh đồng, một dòng sông, một con
người. . . do văn miêu tả tạo nên không phải là một bức ảnh chụp lại, sao
chép lại một cách vụng về. Nó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế,
những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm được khi quan sát cuộc
sống. Tuy nhiên, để thực hiện được các điều này quả là một điều không đơn
giản, đặc biệt là đối với học sinh dân tộc. Việc làm trước tiên của tôi là tiến
hành điều tra thực trạng học sinh trong lớp qua kết quả chất lượng đầu năm,
đánh giá kó năng làm văn theo 4 mức: Giỏi –khá – trung bình – yếu.
TSHS
GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU

SL TL SL TL SL TL SL TL
23 0
0% 2
8,7
%
8 34,8% 13 56,5%

I. Biện pháp tiến hành:
- Nghiên cứu sách giáo viên, các tài liệu tham khảo liên quan đến việc
dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 5 mới.
- Dạy học bằng các phương pháp và hình thức phù hợp nhằm phát huy tính
tích cực học tập môn tập làm văn của học sinh dân tộc.
- Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả ( Tranh ảnh, vật thật ).
- Quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp - đặc biệt là các đối
tượng học sinh yếu; trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ khi các em gặp lúng túng
trong giờ học.
- Kết hợp với các môn học khác cung cấp thêm vốn từ cho học sinh.
- Bản thân giáo viên luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm qua sách báo, qua
đồng nghiệp để cải tiến, đầu tư cho mỗi bài dạy.
3
- Ngoài ra, tôi luôn tìm hiểu về phong tục tập quán cũng như học tiếng mẹ
đẻ của các em, bởi điều này đem lại thuận lợi hơn cho giáo viên khi giao tiếp
với các em, trong khi giảng bài, có những từ, những hình ảnh mà các em
không sao diễn đạt được bằng tiếng phổ thông thì giáo viên có thể thông qua
hiểu biết về tiếng dân tộc của mình để hiểu được và giúp các em tích lũy
thêm vốn từ.
Công việc này được tôi tiến hành xuyên suốt ngay từ đầu năm học.
Đối với học sinh lớp 5 dân tộc ở đòa bàn tôi trực tiếp giảng dạy, vốn
ngôn ngữ của các em còn rất nhiều hạn chế - đặc biệt là các em chưa biết
cách trau chuốt, gọt giũa lời văn, câu văn được bóng bẩy, mang tính “Nghệ

thuật”, mà đa số các em “nghó sao thì viết vậy”; cộng với việc ít đọc sách
báo, ít tham khảo các bài văn hay – câu chuyện hay - bổ ích ở sách báo, làm
cho các em gặp nhiều khó khăn khi làm bài văn miêu tả. Cho nên việc trước
tiên là giáo viên cần kết hợp với các phân môn trong môn Tiếng Việt – nhất
là phân mơn luyện từ và câu - cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh, uốn nắn cho
các em cách dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ “ngôn ngữ tự nhiên”
thành “ngôn ngữ nghệ thuật”. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tập làm văn là
hiệu quả của những bài văn. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về
nội dung, nghệ thuật và cảm xúc. Vì vậy, trong mỗi giờ Tập làm văn giáo
viên cần thực hiện tốt các yêu cầu này.
Ở lớp 5 mới, để viết bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu
cơ bản là:
- Tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả cảnh hoặc tả người.
- Phân tích các văn bản mẫu.
- Quan sát, lập dàn ý chi tiết.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
- Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài.
Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên
và học sinh lần lượt giải quyết các yêu cầu nói trên.
1. Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh hoặc tả người:
- Cho học sinh đọc văn bản mẫu ở sách giáo khoa, hướng dẫn học sinh xác
đònh phần mở bài, thân bài, kết bài.
- Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn tả cảnh ( tả người ).
4
2. Phân tích các văn bản mẫu:
Ở bước này, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, phân tích để hiểu và thấy
được nghệ thuật quan sát và miêu tả, đồng thời thấy được cách chọn lọc chi
tiết, cách sử dụng những hình ảnh đẹp trong bài văn miêu tả.
Ví dụ:
• Bài “Luyện tập tả cảnh”- Sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 14.

- Cho học sinh đọc bài văn “Buổi sớm trên cánh đồng”.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài văn bằng các câu hỏi:
+ Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm mùa thu ?
+ Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào ?
+ Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả.
- Sau khi tìm hiểu xong bài văn, Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh
thấy nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả bài văn.
* Bài “Luyện tập tả cảnh”- sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 21.
- Yêu cầu của bài này là học sinh phân tích 2 văn bản “Rừng trưa” và
“Chiều tối” để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn.
- Cách tiến hành bài này là:
+ Cho học sinh đọc lần lượt từng bài văn.
+ Giáo viên giới thiệu tranh, ảnh về rừng tràm cho học sinh quan sát.
+ Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong mỗi bài
văn ? Có thể yêu cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó.
- Giáo viên cần tôn trọng ý kiến của học sinh, đặt biệt khen ngợi những
em tìm được những hình ảnh đẹp và giải thích được lí do vì sao mình thích
hình ảnh đó ( yêu cầu không bắt buộc ).
+ Sau cùng, giáo viên chốt lại các hình ảnh đẹp ở từng bài văn và
hướng cho học sinh nên đưa các hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả.
3. Quan sát, lập dàn ý chi tiết:
- Để làm tốt được bài văn miêu tả, giáo viên cần yêu cầu học sinh có sự
chuẩn bò bài trước khi đến lớp – đó là nhắc các em quan sát kó cảnh vật, sự
vật hoặc một người nào đó trước khi vào học bài mới, điều này giáo viên
nhắc nhở các em trong phần dặn dò cuối buổi học. Bởi học sinh hay nghó rằng
với cảnh vật quen thuộc hằng ngày thì không cần phải quan sát lại, điều này
5
là hoàn toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta những nhận biết hời
hợt, chung chung, chưa toàn diện. Có quan sát kó nhiều mặt, nhiều lượt, bằng
nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác.

Quan sát trực tiếp còn cho ta những cảm xúc “nóng hổi” để đưa vào bài viết,
tránh được sự tẻ nhạt.
- Bên cạnh, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đôi với việc tìm
từ ngữ để diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được.
- Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà
mình coi là thích hợp hơn cả.
- Khi vào học bài mới, giáo viên luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn
cần có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc
đầu tiên của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài; học sinh đọc kó đề bài
nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề bài.
+ Đề bài thuộc thể loại gì ? Đề bài yêu cầu tả gì ?
- Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để
học sinh chú ý.
- Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh dân
tộc(tả cảnh con sông, tả cảnh ở công viên, …) thì giáo viên cần giới thiệu một
số tranh ảnh minh họa cho học sinh quan sát.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều đã quan sát được.
Ví dụ:
* Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho
bài văn miêu tả ngôi trường ( sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 43 ).
- Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm
lưu ý:
+ Có thể tả ngôi trường vào một thời điểm nhất đònh ( sáng – trưa -
chiều; mùa đông - mùa hè…); Cũng có thể tả ngôi trường với cảnh sắc thay
đổi theo thời gian ( Từ sáng đến chiều; từ mùa xuân đến mùa hè…).
+ Nên tả theo trình tự quan sát sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong…
hoặc ngược lại, tả gần đến xa, từ trong ra ngoài…
+ Ngôi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò. Tuy
nhiên chỉ nên tả lướt qua hoạt động này để không biến bài văn tả cảnh thành
bài văn tả cảnh sinh hoạt.

6
Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn
học sinh cách lập dàn bài.
- Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Miêu tả ngôi trường.
- Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
- Phần mở bài cần giới thiệu bao quát:
+ Vò trí của ngôi trường: Ngôi trường nằm ở đâu ? Quay mặt về hướng
nào?
+ Đặc điểm nổi bật của ngôi trường.
- Phần thân bài gồm các ý:
+ Tả từng phần của cảnh trường:
Cổng trường ( cổng như thế nào ? bản tên trường ra sao ? ).
Sân trường ( sân trường ra sao ? cột cờ, cây cối như thế nào? ).
Lớp học ( các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra
sao? ).
- Phần kết bài cần nêu cảm nghó của em về ngôi trường.
Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều bảo đảm đủ ý
chính.
4. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn:
Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có
nghệ thuật, các em thường được trau dồi qua tiết học “Chuyển một phàn dàn
ý thành đoạn văn”.
- “Một phần của dàn ý” có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một
phần của thân bài.
* Phần mở bài:
Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; có em mở bài chỉ bằng
một câu nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai
được tách rời nội dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài của
mỗi em mà giáo viên góp ý, không nên gò bó, áp đặt.
Ví dụ:

Đề bài: “… Miêu tả một cảnh sông nước ( một vùng biển, một con
sông, một con suối hay một hồ nước ) ( TV 5 tập 1/62)
7
- Có em mở bài thẳng luôn vào đề: “Làng em có một con suối rất
đẹp”.
- Có em mở bài rất sinh động: “Con suối chảy qua làng em, suối chảy
ven theo chân đồi, men theo cánh đồng lúa xanh mượt. Nhìn từ xa, con suối
như một con trăn uốn mình trên tấm tấm thảm màu xanh biếc của cánh đồng
làng. Con suối này gắn liền với tuổi thơ của chúng em và con suối đã trở nên
thân thiết”.
Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách
khác nhau mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài
văn hay, có tính nghệ thuật.
* Phần thân bài:
- Đa phần các em học sinh dân tộc chưa biết cách sử dụng từ ngữ cho
đúng trong văn viết cũng như văn nói.Ví dụ khi tả về hình ảnh của những ô
cửa kính lớp học, các em hay viết: “Các lớp học có những ô cửa kính sáng
long lanh”; Hoặc khi tả hình dáng một người thân trong gia đình, các em viết:
“Bố em có dáng người cao chót vót”…
- Đôi khi các em hay viết “rập khuôn, máy móc” theo những câu văn,
đoạn văn mà giáo viên sử dụng để hướng dẫn mẫu. Ví dụ khi hướng dẫn cách
tả về hình dáng của người, tôi đưa ra ví dụ mẫu:
+ “Chò em có hàm răng trắng đều như hạt bắp”.
+ “ Đôi mắt của cu Tí tròn như hai hòn bi ve”.
Đến khi làm bài, có em viết: “ Em trai của em năm nay vừa tròn một
tuổi. Mắt của nó tròn như hai hòn bi ve, răng của nó trắng đều như hạt bắp”.
Hoặc “Đôi mắt của bà em tròn như hai hòn bi ve”…(!)
- Bên cạnh, giáo viên cần hướng cho học sinh tả một cách chân thực,
không “bắt chước” theo những hình ảnh trong các bài văn mẫu.
Ví dụ: Khi tả về mẹ, có bài văn mẫu viết: “Mẹ của em có dáng người

thon thả, nước da trắng như trứng gà bóc, sóng mũi dọc dừa, cái miệng xinh
lúc nào cũng cười tươi như hoa…”
Thực tế ở lớp tôi đã có em vận dụng những câu văn, những hình ảnh
này vào bài văn của mình. Song điều này là hoàn toàn không thực tế với các
em vì người dân tộc JaRai thì khó có thể ù “nước da trắng như trứng gà bóc”.
- Bởi vậy, trong các tiết học, giáo viên cần tăng cường cung cấp vốn từ
ngữ cho các em, hướng cho các em biết cách sử dụng từ ngữ cho phù hợp với
8
đối tượng miêu tả, phù hợp với văn cảnh cụ thể và phù hợp với thực tế cuộc
sống.
Ví dụ: Người trẻ tuổi thì tóc đen, làn da căng tràn đầy sức sống, đôi mắt
tinh anh; Người già thì tóc bạc, làn da nhăn, đôi mắt hiền từ… Hoặc “Mẹ em
có dáng người cao, mái tóc dài. Vì phải lao động vất vả ngoài đồng ruộng nên
mẹ em có làn da ngăm đen…” ï
* Phần kết bài:
Có nhiều cách kết bài khác nhau: Kết bài mở rộng, kết bài không mở
rộng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ nội dung chính. Vì vậy, giáo viên cần
giúp các em nêu cảm xúc hoặc thâu tóm lại vấn đề như thế nào cho hay.
Có thể chỉ liệt kê sự việc, cảm xúc như:
“Em rất thích cảnh ở công viên”- Tôi yêu cầu các em nêu kết luận
khác, có học sinh đã nêu: “ Công viên làm cho tâm hồn em thoải mái và thư
thái sau những giờ học căng thẳng. Em rất thích cảnh ở công viên”.
Tương tự như vậy, dưới sự hướng dẫn của tôi, học sinh có rất nhiều kết
bài khác nhau khi tả về Bà của mình.
+ “Đến nay, bà đã đi xa, nhưng kỉ niệm về bà vẫn còn sống mãi trong
lòng em”.
+ “Tình cảm sâu sắc, đằm thắm giữa em và bà em là tình cảm sâu lắng
nhất mà em còn giữ mãi trong suốt cuộc đời”.
Trong việc hướng dẫn học sinh diễn đạt thì biện pháp duy nhất là chia
thành câu, ý nhỏ cho nhiều em phát biểu, sau đó chắt lọc, hướng dẫn học sinh

thấy cách nào được, cách nào chưa được để phát huy hay sửa chữa.
5. Viết thành bài văn hoàn chỉnh:
Để giúp học sinh viết một bài văn hoàn chỉnh, tôi tiến hành các bước:
* Tập diễn đạt câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp nghệ
thuật đã học.
- Để tiến hành, tôi gợi ý cho các em những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ.
- Tôi luôn hướng dẫn các em biết lựa chọn chi tiết, diễn đạt bằng câu
văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như: so sánh, nhân
hóa… trong các kiểu bài tập làm văn.
Tuy nhiên khi vận dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa- đôi khi học
sinh dùng những hình ảnh chưa chính xác.
Chẳng hạn với đề bài “Tả một người thân trong gia đình em”. Có em
chọn tả chò gái của mình. Tôi hỏi:
9
+ Hình dáng (mái tóc, hàm răng, nước da…) của chò tả như thế nào ?
- Học sinh nêu:
+ Mái tóc của chò đen và dài như những sợi dây điện (!)
+ Nước da của chò đen như mật ong.
+ Răng của chò rất trắng; …
- Chính vì thế, giáo viên cần hướng cho học sinh biết cách dùng những
hình ảnh so sánh hợp lí hơn.
Ví dụ: Mái tóc của chò gái em đen và mượt mà như dòng suối. Mỗi khi
chò cười để lộ ra hàm răng trắng đều như hạt bắp. Chò em có làn da ngăm đen
nhưng trông chò rất xinh.
- Tương tự, trong các đề bài khác giáo viên cũng nên hướng dẫn cho
các em :
+ Cô hiền như cô Tấm trong truyện cổ tích.
+ Giọng cô nói êm dòu như lời mẹ ru.
+ Mái tóc của bà trắng như cước.
. . .

- Ngoài ra, giáo viên nên kết hợp những câu hỏi gợi ý để giúp học sinh
bổ sung, sửa chữa các câu văn, đoạn văn chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật.
- Trong bài văn “Tả cảnh ngôi trường”; có em nêu :
+ “Giờ ra chơi, sân trường thật ồn ào. Những chiếc áo hoa, áo trắng, áo
màu thật nhộn nhòp” . Ví dụ như thế đã được. câu văn gọn, rõ ý. Nhưng để
sinh động hơn, giáo viên có thể giúp học sinh sửa lại:
+ “Giờ ra chơi, sân trường bỗng trở nên nhộn nhòp. Những chiếc áo hoa,
áo trắng, áo màu như những đàn bướm đủ màu sắc bay rập rờn”.
• Bộc lộ cảm xúc trong bài văn :
- Ngoài việc giúp HS sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu
văn, giáo viên cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn. Bởi một
bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ
bộc lộ ở phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn của bài
văn. Điều này chúng ta cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài.
Ví dụ:
- Sống với bà, em thấy như thế nào ?
(Bà gần gũi, chăm sóc em chu đáo như một bà tiên hiền hậu; em luôn
giúp bà làm mọi việc để bà đỡ vất vả).
+ Được bà chăm sóc hàng ngày em nghó gì ?
10
(Tình cảm gần gũi thương yêu của bà như chắp cánh cho em vững bước
trong cuộc đời).
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghó, cảm xúc
nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kỳ. Bài văn của học sinh tránh
được nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc mà thấm đượm cảm xúc của người
viết.
II. Kết quả đạt được:
Qua quá trình áp dụng giảng dạy theo phương pháp trên, đến nay tôi
nhận thấy các em có nhiều tiến bộ so với đầu năm học. Những học sinh yếu
về kó năng viết văn miêu tả nay đã mạnh dạn, tự tin và có hứng thú hơn trong

giờ học Tập làm văn. Còn những em học lực trung bình và khá đã tự mình
viết được một bài văn, một đoạn văn theo yêu cầu của đề bài. Tuy những bài
văn, đoạn văn đó có thể chưa hay, chưa sinh động như bài viết của học sinh
người Kinh nhưng các em đã tự viết bằng chính tư duy của mình. Tôi xin đưa
ra đây một ví dụ về bài viết của một học sinh có học lực khá ở lớp tôi:
* Đề bài: Dựa theo dàn ý đã lập, hãy viết một đoạn văn miêu tả cảnh
đẹp ở đòa phương em. (TV tập 1 trang 81).
Bài làm:
“Mỗi buổi sớm em thường ra sau vườn đứng nhìn xuống cánh đồng lúa.
Gió thổi nhẹ làm những ngọn lúa xanh mơn mởn nhấp nhô như những đợt
sóng. Những chú cò trắng muốt đang tìm bắt cá trên ruộng lúa làm cho cánh
đồng thêm sinh động. Phía xa xa, một dòng suối nhỏ uốn lượn men theo đồng
lúa trông như một con trăn uốn mình trên tấm thảm màu xanh biếc của cánh
đồng làng. Cánh đồng đẹp như một bức tranh. Bức tranh ấy quen thuộc và
gắn bó với em như một người bạn thân thiết”.
Qua một thời gian áp dụng giảng dạy môn tập làm văn theo các biện
pháp trên, đến nay tôi thống kê kết quả đạt được như sau:
TSHS
G K TB Y
SL TL SL TL SL TL SL TL
23 1 4,3% 5 21,7% 14 60,9% 3 13,1%
Kết quả đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phần nào đánh dấu
bước thành công là làm cho học sinh có kó năng làm văn miêu tả tốt hơn, giúp
11
các em tự tin hơn trong môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Do vậy,
từ nay đến cuối năm học tôi luôn cố gắng phát huy, tìm tòi và vận dụng
phương pháp tốt nhất để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn.
C. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình giảng dạy về phân môn tập làm văn cho HS dân tộc, đặc
biệt là văn miêu tả, bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm như sau :

- Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình và mục tiêu của môn
học để xác đònh các kó năng cần rèn cho học sinh trong việc viết văn miêu tả.
- Cần kết hợp với các môn học khác nhằm cung cấp vốn từ ngữ cho học
sinh, giúp các em dễ dàng hơn trong việc viết văn, đồng thời giúp các em
“thoát li” khỏi bài văn mẫu, biết cách sử dụng từ ngữ chân thực, mộc mạc đối
với học sinh dân tộc.
- Giáo viên cần kiên trì, nhiệt tình, có phương pháp sư phạm kết hợp sử
dụng hệ thống câu hỏi hợp lý để giúp học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức.
- Tránh áp đặt khiên cưỡng, nên biểu dương, động viên, khuyến khích
học sinh tìm tòi, sáng tạo trong văn chương, khơi gợi hứng thú học tập và
tránh tâm lý mặc cảm, tự ti học văn kém trong học sinh.
- Động viên các em thường xuyên đọc sách – báo thiếu nhi, sách những
bài văn chọn lọc dành cho học sinh tiểu học, hướng cho các em sử dụng sổ
tay “Vốn từ” - để tích lũy và sử dụng khi cần thiết.
Trên đây là một số biện pháp dạy học sinh dân tộc lớp 5 viết bài Tập
làm văn miêu tả đạt kết quả tốt mà tôi đã áp dụng vào thực tế từ năm học
2007 – 2008 đến nay có bổ sung. Tôi mong muốn nhận được sự góp ý của
đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng học tập phân môn Tập làm văn
nói riêng, môn Tiếng Việt nói chung cũng như tất cả các môn học khác.
NGƯỜI VIẾT
12

×