Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

báo cáo (tóm tắt) đề tài - xây dựng hệ thống danh pháp và thuật ngữ hóa học việt nam ( phần danh pháp )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.14 KB, 22 trang )

Báo cáo (tóm tắt) Đề tài:
XÂY DỰNG HỆ THỐNG DANH PHÁP VÀ THUẬT NGỮ
HÓA HỌC VIỆT NAM
(PHẦN DANH PHÁP)
Mở đầu
Đề tài “Xây dựng hệ thống Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt
Nam” (dưới đây gọi tắt là Đề tài) do Hội Hóa học Việt Nam chủ trì (Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam quản lý) có ý nghĩa rất lớn đối
với những người học Hóa học, dạy và nghiên cứu Hóa học, sản xuất hóa
chất cũng đối với tất cả những người làm việc trong các lĩnh vực liên quan
đến Hóa học và hoá chất.
Từ khi đất nước ta tiếp cận với các lĩnh vực khoa học tự nhiên đã có
nhiều học giả quan tâm đến việc phiên chuyển các thuật ngữ khoa học sang
tiếng Việt, mà người có đóng góp lớn nhất là GS Hoàng Xuân Hãn. Những
đề xuất của GS Hoàng Xuân Hãn đã đặt nền móng cho việc “Việt hóa” các
danh từ khoa học, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành
khoa học tự nhiên, trong đó có Hoá học, ở nước ta. Sau GS Hoàng Xuân
Hãn, nhất là sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, ở miến bắc cũng
như miền nam đã có những văn bản cấp bộ quy định cách phiên chuyển và
gọi tên các nguyên tố, tên các hợp chất hóa học cũng như dịch hoặc phiên
chuyển các thuật ngữ hóa học từ tiếng nước ngoài, trong đó với tư cách là
những nhà hóa học tiêu biểu, các GS Nguyễn Thạc Cát và Lê Văn Thới đã
có những đóng góp quan trọng. Sau năm 1975 đã có một số hội thảo bàn về
danh pháp và thuật ngữ, trong đó có đề cập đến danh pháp và thuật ngữ hóa
học. Bộ Giáo dục cũng đã ban hành quy định về chính tả tiếng Việt và thuật
ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay chúng ta vẫn chưa có một
hệ thống danh pháp và thuật ngữ hoá học thống nhất, đặc biệt là việc viết tên
các nguyên tố và hợp chất hoá học khá tùy tiện, ngay đối với từng cá nhân
cũng ít khi nhất quán. Trong giới đại học và nghiên cứu tình trạng đó khá
nặng nề. Sinh viên và nghiên cứu sinh không biết viết thế nào cho đúng, thầy
giáo không biết nên sửa như thế nào, thậm chí, trong một công trình khoa


học, tên một hóa chất khi thì viết thế này, khi thì viết thế khác. Chính vì vậy,
nhu cầu xây dựng một hệ thống danh pháp và thuật ngữ hóa học thống nhất
là việc làm có tính cấp bách và đó chính là lý do mà Hội Hóa học Việt Nam
chủ động đề xuất và nỗ lực thực hiện Đề tài này.
Đề tài được khởi động từ năm 2005. Giai đoạn đầu tập trung xử lý
cách viết và gọi tên các nguyên tố hoá học, trên cơ sở đó tiếp tục xử lý tên
các hợp chất hoá học. Ban chủ nhiệm Đề tài đã tổ chức nhiều hội thảo ở Hà
1
Nội và TP Hồ Chí Minh để thảo luận các đề xuất của ban chủ nhiệm theo
từng giai đoạn tiến triển khác nhau của Đề tài cũng như nhận được các bài
viết của nhiều nhà khoa học tham gia thảo luận các nội dung của Đề tài. Tại
các hội thảo và trong các bài viết, các thành viên tham gia Đề tài cũng như
nhiều nhà khoa học khác đã trình bày các ý kiến của mình một cách thẳng
thắn; đặc biệt, các lý lẽ bảo vệ các quan điểm khác nhau đã được trình bày rõ
ràng. Về một số nội dung vẫn còn có hai loại ý kiến khác nhau để có thể đi
đến một phương án thống nhất, tuy nhiên, trong những trường hợp như vậy,
hầu hết ý kiến đều đồng tình với việc đưa ra hai phương án để tiếp tục xử lý
hoặc cho lưu hành cho đến khi một trong hai phương án đó được cộng đồng
hoá học chấp nhận. Điều có thể khẳng định chắc chắn là, ai cũng rất trăn trở
và bức xúc muốn sớm có một hệ thống danh pháp và thuật ngữ hóa học Việt
Nam thống nhất, dù có thể chưa hoàn chỉnh, nhưng khả dĩ đáp ứng được
những đòi hỏi không thể trì hoãn của một xã hội đang phát triển nhanh
chóng trong thế giới ngày càng hội nhập sâu rộng, trong đó hóa học và công
nghệ hóa học, với tầm vóc và tính đặc thù của mình, hiển nhiên có vai trò
hết sức quan trọng.
Các nguyên tắc chung trong xây dựng hệ thống danh pháp
• Tính khoa học;
• Tính hệ thống và nhất quán;
• Tính dân tộc và phổ cập;
• Tính quốc tế và hội nhập

• Tính kế thừa.
Về tổng thể, đã có sự thống nhất ý kiến cao đối với các nguyên tắc
nêu trên. Tuy nhiên, nhiều đề xuất và phương án khác nhau hết sức phong
phú đã xuất hiện khi vận dụng các nguyên tắc đó vào việc đặt ra những quy
tắc cụ thể của hệ thống danh pháp, đặc biệt là những quy tắc phiên chuyển
tên gọi các nguyên tố hóa học và các hợp chất hóa học từ tiếng nước ngoài
ra tiếng Việt.
Tính hệ thống và tính nhất quán, về bản chất, cũng là tính khoa
học, cho nên đảm bảo tính khoa học là nguyên tắc quan trọng nhất. Và nếu
đảm bảo được tính khoa học thì cũng đồng thời làm cho các nguyên tắc về
tính hệ thống và tính nhất quán dễ dàng được tuân thủ. Để các nguyên tắc
trên đây ít bị vi phạm thì khi xây dựng các quy tắc cụ thể cần tránh có nhiều
ngoại lệ. Đây là việc làm rất khó khi phải xây dựng một hệ thống danh pháp
khoa học trong hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt trên cơ sở chất liệu và quy tắc
của một số ngôn ngữ cổ điển và hiện đại phương Tây.
2
Về tính dân tộc và phổ cập phải được hiểu, đây là hệ thống danh
pháp hoá học Việt Nam, áp dụng cho người Việt Nam. Trong quá trình thảo
luận nhiều ý kiến đã đề cập đến nguyên tắc này và nhận thức chung cho
rằng, hệ thống danh pháp này được xây dựng lên không phải chỉ để cho các
nhà khoa học sử dụng, nhưng cũng không phải để phục vụ rộng rãi cho mọi
người dân trong xã hội. Đây là một hệ thống danh pháp khoa học; nó là một
thành tố của hệ thống thuật ngữ tiếng Việt, nhưng có thể có những đặc thù
riêng của một tiểu hệ thống có chứa một số thành tố vay mượn. Vì vậy, tính
dân tộc và tính phổ cập cũng cần phải được hiểu trong khuôn khổ là để đáp
ứng nhu cầu của một số tầng lớp cư dân nhất định, chứ không phải đối với
toàn xã hội. Thực tế thì sự tiếp cận của đại đa số dân chúng đối với các thuật
ngữ hoá học cũng chỉ hạn chế trong một số hoá chất và quá trình công nghệ
hết sức thông dụng; đối với những thuật ngữ này, như đã trình bày ở trên, sẽ
áp dụng hai phương án phiên chuyển. Đối với học sinh trung học bắt đầu

học hoá học thì số lượng các thuật ngữ cũng không nhiều lắm; cách xử lý có
thể giống như đối với những người ít tiếp cận với hoá học và hoá chất. Tuy
nhiên, việc học tiếng nước ngoài, mà chủ yếu là tiếng Anh, ở trường phổ
thông đang có xu thế nhanh chóng được mở rộng quy mô, cho nên, đối
tượng này cũng sẽ ngày càng gặp ít khó khăn trong việc đọc và viết tên hoá
chất (số lượng cũng không nhiều) trong đó có những vần không có trong
tiếng Việt thuần tuý.
Đề tài cũng phải xây dựng được một hệ thống danh pháp và thuật ngữ
hóa học phục vụ cho một giai đoạn lịch sử tương đối dài có tính đến sự phát
triển tất yếu của ngôn ngữ Tiếng Việt nói chung và ngôn ngữ hóa học nói
riêng. Xu thế chung của ngôn ngữ tất cả các dân tộc là phát triển trong một
thế giới ngày càng hội nhập sâu rộng; Tiếng Việt không thể là ngoại lệ. Mặt
khác, Hoá học là một môn khoa học tự nhiên mà trước đây hầu như chưa
được phát triển ở nước ta. Trong khoảng hơn nửa thế kỷ qua, Hoá học được
phát triển ở Việt Nam rất nhanh chóng, tuy nhiên, trên thế giới Hoá học và
Công nghệ hoá học đã và đang phát triển như vũ bão làm cho yêu cầu hội
nhập với thế giới đang trở nên là nhu cầu bức bách không thể trì hoãn đối
với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Không thể không thừa nhận
rằng, đã nhiều thập kỷ nay, trong khi hệ thống danh pháp hoá học Việt Nam
ở trong tình trạng rất thiếu nhất quán thì từng nhà hoá học cụ thể, bằng cách
này hay cách khác, dù không phải dễ dàng lắm, vẫn tìm cách hội nhập với
hoá học thế giới. Rõ ràng là tình trạng lôn xộn trong hệ thống danh pháp hoá
học đang tỏ ra cản trở sự giao lưu và hội nhập của giới hoá học Việt Nam.
Và chắc chắn sự cản trở đó ngày càng tăng lên, nếu chúng ta không nhanh
chóng xây dựng được một hệ thống danh pháp hoá học có tính quốc tế và
hội nhập thoả đáng.
3
Để phát triển không thể không kế thừa những thành quả đã đạt được
trong quá khứ. Những đóng góp của các thế hệ đi trước, đặc biệt là các nhà
khoa học tiêu biểu như đã nhắc đến ở trên, là rất quý giá, có tính khai phá,

đặt nền móng và hướng dẫn các thế hệ nối tiếp hoàn thiện hệ thống danh
pháp và thuật ngữ hoá học. Nhưng thế hệ hiện nay cũng không có quyền
dừng lại chỉ ở những thành quả mà các thế hệ đi trước đã khai phá và để lại.
Bởi vì, so với khoảng 50 – 60 năm trước đây, các ngành khoa học đã được
phát triển đến mức mà có lẽ lượng thông tin đã tăng lên rất nhiều lần. Riêng
số lượng các hợp chất hoá học hiện nay đã lên tới nhiều chục triệu. Trong
lúc đó nhu cầu giao lưu giữa các quốc gia đã thu hút không phải chỉ hàng
trăm, ngàn nhà hoá học như trước đây, mà nhu cầu đó đã trở nên bức thiết
đối với hàng triệu người làm hóa học trên toàn thế giới, trong đó có rất nhiều
người không phải là chuyên nghiệp. Cho nên, đối với tất cả các lĩnh vực
khoa học trên toàn thế giới, không có ngoại lệ cho bất kỳ ở một quốc gia
nào, những người có liên quan đến hoá học và công nghệ hoá học đều đang
trong quá trình hội nhập. Trong Hoá học và Công nghệ hoá học hệ thống
danh pháp IUPAC đang ngày càng được áp dụng rộng rãi, trở thành nền tảng
của hệ thống danh pháp ở nhiều quốc gia. Chúng ta hết sức trân trọng những
di sản có tính khai phá của các bậc tiền bối, đồng thời thừa kế có chọn lọc di
sản đó để phát triển và mở rộng các quy tắc phiên chuyển và đặt tên các đơn
chất và hợp chất hoá học, đáp ứng đòi hỏi của thực tế nhu cầu phát triển
khoa học-công nghệ và kinh tế-xã hội của đất nước.
Đề tài đang được thực thi trong bối cảnh xã hội cũng rất đáng được
quan tâm. Không kể việc sử dụng tiếng Anh trong xã hội hiện nay, trước hết
là trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đang trở nên ngày càng phổ
biến và cũng rất tuỳ tiện (do không có sự chỉ đạo thống nhất), quan điểm coi
tiếng Anh là ngoại ngữ chính, thậm chí là ngoại ngữ phổ cập, đã được chấp
nhận rộng rãi. Có thể coi giai đoạn ngập ngừng trong việc coi tiếng Anh là
đòi hỏi bức bách trong các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và cạnh tranh ngày càng khốc liệt
đã qua. Thực tế, sự yếu kém tiếng Anh đang là rào cản quá lớn không phải
chỉ trong công việc của các nhà chính trị hay văn hoá-xã hội, mà ngay đối
với hàng triệu người lao động để có thể tạo ra năng suất lao động cao hơn,

đóng góp cho GDP nhiều hơn và có thu nhập cao hơn. Vì vậy, hệ thống danh
pháp hoá học Việt Nam cũng chỉ có thể được xây dựng bằng cách “Việt
hoá” trên nền tảng chất liệu của hệ thống danh pháp IUPAC chủ yếu lấy
tiếng Anh làm cơ sở. Như vậy, các thuật ngữ được chọn để phiên chuyển
chủ yếu sẽ lấy từ tiếng Anh, tuy nhiên, riêng đối với tên các nguyên tố hoá
4
học, để có sự tương hợp giữa tên nguyên tố và ký hiệu của nguyên tố đó,
trong nhiều trường hợp, vẫn cần dùng tên Latin làm gốc.
Các quy tắc xây dựng hệ thống danh pháp
Danh pháp hoá học, theo GS Hoàng Xuân Hãn, là cách gọi tên các
đơn chất và hợp chất hoá học và từ đó có thể suy ra cách gọi tên các chất
phụ thuộc. Theo ông, nước nào cũng có danh pháp riêng, nhưng tên đặt ra lại
giống nhau. Trong hoàn cảnh Việt Nam chúng ta, có thể hiểu rằng, danh
pháp bao gồm hai nội dung: (i) các quy tắc phiên chuyển những từ ngữ hoá
học gốc tiếng nước ngoài và (ii) các quy định diễn giải việc cấu tạo tên hợp
chất hoá học. GS Nguyễn Thạc Cát đã viết: “Danh pháp hoá học tiếng Việt
được xây dựng dựa trên danh pháp hoá học đã được nhiều hội nghị quốc tế
công nhận, chỉ riêng thuật ngữ cần phải sửa đổi cho phù hợp với quy định về
cách đặt thuật ngữ tiếng Việt trên cơ sở thuật ngữ nước ngoài”. GS Lê Văn
Thới cũng đã viết: “Phương sách phiên âm rất tiện lợi vì danh từ hoá chất đã
có sẵn và đặt theo một hệ thống quốc tế vững chắc ta khỏi phải tìm đâu xa”.
“Các hội nghị quốc tế” và “hệ thống quốc tế vững chắc” ở đây có thể được
hiểu là hệ thống danh pháp IUPAC. Như vậy, danh pháp hoá học bao gồm
hai nội dung: các quy tắc phiên chuyển và các quy tắc gọi tên hoá chất.
Trong khi “quy tắc gọi tên” chúng ta có thể dựa vào các quy tắc của IUPAC,
thì “quy tắc phiên chuyển” chính là vấn đề hết sức phức tạp, sự không nhất
quán và lộn xộn chủ yếu là ở đây.
Các quy tắc phiên chuyển
Hiện trạng
Như đã nói ở trên, hiện nay việc viết tên các nguyên tố hoá học và các

hoá chất chưa thống nhất, lộn xộn và tuỳ tiện. Đặc biệt, trong các giáo trình,
sách chuyên khảo và các luận án, luận văn, các bài báo đăng trên các tạp chí
khoa học , tình trạng chung là các tác giả lúng túng dẫn đến sự không nhất
quán ngay trong một công trình và tự xử lý theo cách nghĩ của mình.
Nguyên nhân của tình trạng này có thể có nhiều, ví dụ tác giả không nắm
được những quy tắc chính thống (ví dụ, quy định của Uỷ ban Khoa học Nhà
nước trước đây), tuy nhiên nguyên nhân chính là các quy định có tính chính
thống (cả ở miền bắc và ở miền nam) có nhiều yếu tố chưa hợp lý. Có thể
tóm tắt các quy định có tính chính thống hiện nay như sau:
1/ Quy định của Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Các quy định này (chủ yếu
dựa vào gốc tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, tuỳ trường hợp cụ thể và quen
dùng) được thể hiện tương đối nhất quán trong các sách giáo khoa bậc trung
học và trong Từ điển bách khoa Việt Nam (có được mở rộng). Đó là:
5
• Bỏ dấu thanh và dấu mũ (oxi), viết liền các âm tiết (etilen), một phụ
âm viết hai lần liền nhau bỏ đi một (berili), bỏ bớt nguyên âm E nếu
không gây nhầm lẫn (benzen), các cặp nguyên âm đi liền nhau có thể
giữ nguyên nếu dễ phát âm (iot), hoặc chuyển thành một nguyên âm
(ơtecti), bỏ các hậu tố um và ium (natri, omoni, platin, uran);
• Chuyển tất cả nguyên âm Y thành I (hiđro), trừ khi nguyên âm Y nằm
ở đầu từ (Ytri), phụ âm D thành Đ (Inđi), bỏ phụ âm H sau các phụ
âm T (tiophen), C (clo);
• Bổ sung một số phụ âm trong tiếng Việt không có: F (flo), J (jun), Z
(ziriconi);
• Chuyển phụ âm C đứng trước các nguyên âm mềm thành X (axeton,
axit, nhóm hiđroxyl), chuyển phụ âm W thành V (vonfram) và phụ âm
G đứng trước các nguyên âm mềm thành GI (giecmani), mở rộng sử
dụng phụ âm K (kali). Về phụ âm C, thực ra các quy định chính thống
(của UBKHNN và Bộ Giáo dục) cũng không phải giống nhau. Theo
GS Lê Khả Kế, năm 1960 UBKHNN quy định chấp nhận các vần CE,

CI, CY và các con chữ F, J, W, Z và các phụ âm cuối không có trong
tiếng Việt (vd. ID, YD, OZ ), tuy nhiên, sau đó UBKHNN đã tổ
chức một số hội thảo và quy định “phiên theo âm” là chính, nghĩa là
hầu như bãi bỏ các các quy định năm 1960 như đã nhắc đến trên đây.
Trong khi đó, năm 1984, Bộ trưởng Bộ Giáo dục lại ban hành quy
định về chính tả và thuật ngữ tiếng Việt áp dụng cho sách giáo khoa,
báo và văn bản của ngành giáo dục lại cho phép sử dụng các quy tắc
gần giống như trong quy định năm 1960 của UBKHNN. Quy định này
được ban hành trên cơ sở đề nghị của Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ
do Bộ trưởng lập cuối năm 1982. Không rõ vì sao quy định này
không được áp dụng trong ngành giáo dục, mặc dù sau đó không có
quy định nào khác nữa của cấp có thẩm quyền trong ngành.
• Chấp nhận một số tổ hợp phụ âm: Br (brom), Cl (clo), Cr (crom), Đr
(hiđro), Fl (flo) , Fr (franxi), Gl (glucoza), Gr (graphit), Kr (kripton),
Pl (platin), Sp (spinen) , St (stibi), Str (stronti), Tr (triti). Tuy nhiên,
đối với các tổ hợp hai phụ âm ở âm vận giữa thì thêm nguyên âm I
cho dễ đọc, vd., AD (cađimi), RC (ziriconi)
• Chấp nhận ba vần ngược biểu thị nhóm chức là: AL (metanal), OL
(etanol) và YL (axetyl), còn tất cả các vần ngược đều chuyển thành
các vần ngược có trong tiếng Việt được phát âm tương đối giống âm
vận trong tiếng nước ngoài: AL = AN (anđehit), AF = AP (hapni),
AR = AC (cacbon), AS = AT (atpirin), ER = EC (Ytecbi), ID = IT
(anđehit), OL = ON (honmi), OS = OT (photpho), hoặc bỏ đi: OR =
6
O (fomic). Như đã trình bày ở trên, các vần ngược trên đây cũng đã
từng được chấp nhận không phiên chuyển trong các quy định của
UBKHNN (1960) và Bộ Giáo dục, tuy nhiên, việc phiên chuyển như
trình bày ở đây vẫn được coi là chính thống.
• Hậu tố ASE chuyển thành AZƠ (bazơ ) hoặc AZA (amilaza), hậu tố
OSE chuyển thành OZA (glucoza).

• Hậu tố URE (trong tiếng Pháp) hoặc IDE (trong tiếng Anh) của
nguyên tố đứng sau trong công thức hợp chất nhị tố và một số ion đa
nguyên tử chuyển thành UA (clorua, cacbua).
2/ Các quy tắc do GS Lê Văn Thới và Hội đồng biên soạn danh pháp (1963)
đề ra và được áp dụng ở miền nam. Hiện nay các quy tắc này vẫn được sử
dụng trong các trường đại học ở phía nam, tuy nhiên cũng bị pha lẫn với các
quy định nêu tại mục 1 trên đây cũng như sự “tuỳ nghi” của người dùng. Các
quy tắc đó có thể được tóm lược như sau:
• Tên các nguyên tố hoá học, chủ yếu dựa vào tên tiếng Pháp, được viết
theo các quy tắc được liệt kê dưới đây; hậu tố UM và IUM vẫn giữ
nguyên (clor, brom, oxigen, natrium, uranium, magnesium, calcium);
• Bỏ dấu thanh và dấu mũ, viết liền các âm tiết, một phụ âm viết hai lần
liền nhau bỏ đi một;
• Chuyển tất cả phụ âm Y thành I kể cả trong hậu tố chỉ nhóm chức
(etil, oxigen), trừ trường hợp nguyên âm Y nằm ở vị trí đầu của tên
nguyên tố (Ytrium) hoặc nguyên âm Y có trong ký hiệu nguyên tố
(Dysprosium – Dy).
• Bỏ các phụ âm và nguyên âm “câm”: E (benzen), H (metan), S
(verni), T (momen), trừ trường hợp phụ âm H có trong ký hiệu nguyên
tố (Thorium – Th)
• Phụ âm C đọc là “xờ” nhưng không chuyển thành X; chấp nhận thêm
các phụ âm F, J, Z, P và W;
• Các hậu tố ASE và OSE chuyển thành AZ (baz) và OZ (celuloz);
• Chấp nhận các vần ngược không có trong tiếng Việt: AD (cadmium),
AF (hafnium), AL (aldehid, metanal), AR (carbon, argon), ER
(polimer), ES (ester), ID (glucid), IS (histamin) IL/YL (octil), OD
(iod), OL (alcol), OR (cloroform, formol), OS (osmium, phosphoric),
UL (sulfuric, sulfamid), UR (furfural);
• Hậu tố URE (từ gốc tiếng Pháp) chuyển thành UR (clorur).
3/ Bộ Y tế có các quy định riêng cho ngành Dược với nguyên tắc cố gắng

phiên âm sao cho khỏi lầm thuốc, nguy hiểm cho người bệnh dùng thuốc.
Những quy định chính gồm:
7
• Bỏ các dấu thanh, dấu mũ; các âm tiết viết liền; không thay D bằng Đ,
không thay Y bằng I;
• Bỏ ký tự E ở cuối từ (streptomycin), ký tự H câm (cloroform,
colesterol) nhưng H được giữ lại nếu nằm trong ký hiệu nguyên tử
(rhodium – Rh) và trong thiol (thiouracil), một phụ âm viết hai lần
liền nhau bỏ đi một (penicilin);
• Thu nhận các tổ hợp phụ âm không có trong tiếng Việt: BL
(blastolysin), CL (clo), GL (glucose), GN (magnesium), GR
(Grignard), CR (crom), DR (dehydro), FL (flo);
• Giữ nguyên các vần ASE (amylase), OSE (glucose), GE (viết gen,
không viết gien);
• Giữ nguyên các tổ hợp nguyên âm (trừ nguyên âm kép dính của tiếng
Pháp, thay bằng nguyên âm tiếng Anh, vd. oestradiol = estradiol):
EU (leucin), AU (aureomycin), OU (coumarin);
• Chấp nhận các vần ngược; AL (aldehyd), AD (cadmium), AF
(hafnium), AR (carbon), EUR (Pasteur), OS (phosphat), ID
(glucosid), OID (alcaloid), OD (iod);
• Chấp nhận phụ âm C đứng trước các nguyên âm mềm: CI (acid), CE
(aceton, acetic), CY (cyanogen, cyanua);
• Chuyển UL thành UN (acid sunfuric);
• Tên người, tên nước và tên địa danh không phiên chuyển.
Các quy tắc được đề xuất để xây dựng danh pháp hoá học Việt Nam
1/ Áp dụng những quy tắc đã được thống nhất trong cả nước, gồm:
• Bỏ dấu thanh và dấu mũ, viết liền các âm tiết (etylen);
• Giữ nguyên các tổ hợp nguyên âm và đọc nhanh từng âm theo tiếng
Việt: AE (caesi), AU (tautomer), EA (seaborgi), EI (einsteini), EO
(neodym), EU (eugenol), IO (iod, niobi), OU (coumarin), UO (fluor),

YO (yohimbin);
• Bỏ bớt một trong hai phụ âm của phụ âm đôi: CC (sacarose), FF
(cafein), LL (alyl, paladi), MM (amoni), NN (cinamic), RR (pyrole),
TT (ytri), ngoại lệ là vẫn giữ phụ âm kép MM trong ammin là phối tử
của phức chất để khỏi lẫn với amin.
• Bỏ bớt nguyên âm E ở cuối từ nếu không gây nhầm lẫn (viết benzen,
propan, nhưng phải viết indole, pyrole, thiazole, )
• Bổ sung các phụ âm không có trong tiếng Việt: F (ferum), J (jasmin),
Z (benzen); P (paladi, pentan) và mở rộng phạm vi sử dụng phụ âm K
để phù hợp với ký hiệu (kali, krypton ) hoặc danh pháp IUPAC
(alkan);
8
• Chấp nhận các tổ hợp phụ âm: Br (brom), Cl (clor), Cr (crom), Dr
(hydro), Fl (fluor), Fr (freon), Gl (glucose), Gr (graphit), Kr
(krypton), Pt (platin), Pr (proton), Ps (pseudoionon), Sp (spin), St
(sterol), Str (stronti), Tr (natri).
2/ Phụ âm G đứng trước nguyên âm E không chuyển thành GI hoặc GH, có
thể đọc như “gie” hoặc “ghe” (germani);
3/ Phụ âm D không chyển thành Đ nhưng vẫn đọc như Đ trong tiếng Việt
(hydro, indi); các phụ âm I (i ngắn) và Y (i dài) vẫn giữ nguyên như trong
tiếng Anh. Trong tiếng Anh tên các nguyên tố (molybdenum, beryllium) và
cả tên các hợp chất (trừ trường hợp oxygen và oxide) được viết nhất quán
hoặc I hoặc Y. Trong thực tế, mặc dầu có một quy định trong chính tả tiếng
Việt về việc chuyển Y thành I, hầu như rất ít người chịu viết I thay cho Y
trong những trường hợp mà theo thói quen/truyền thống người ta đã quen
viết Y (kỹ thuật, kỳ quan, tỷ lệ ). Điều quan trọng là việc vẫn giữ các
nguyên âm Y và I không trái với quy tắc chính tả Tiếng Việt mà lại đúng
với nguyên gốc tiếng nước ngoài, tạo thuận lợi cho việc tra cứu cũng như
đọc và viết các công trình khoa học.
4/ Không bỏ phụ âm H nếu phụ âm này nằm trong tổ hợp tạo vần tiếng

Việt như methan, ethylen, lithi, thali, thuli, thiophen, chitin, chavebitol,
chalcon , kể cả trường hợp Rhodi (Rh) dù không tạo vần tiếng Việt nhưng
phụ âm H có mặt trong ký hiệu nguyên tố. Như vậy, phụ âm H sẽ bị bỏ
trong các từ như clor, crom, bismut, bicromat và trong các trường hợp
tương tự.
5/ Không thay phụ âm S bằng X hoặc Z. Phụ âm này trong tiếng Pháp
thường đọc là “zờ” nếu đứng giữa hai nguyên âm, vì vậy, được chuyển
thành Z (miền nam: baz, amilaz, glucoz) và ZƠ hoặc ZA (miền bắc: bazơ,
glucoza, amilaza). Người Anh không đọc như vậy. Người Việt cũng đọc phụ
âm này là “xờ” hoặc “sờ”, tuỳ theo địa phương. Cho nên, không nên phụ
thuộc cách đọc của tiếng Pháp, nghĩa là không cần phiên chuyển các vần
được tạo bởi phụ âm S, trong khi quy tắc chính tả tiếng Việt không bắt buộc
phải thay đổi gì cả. Có thể đọc base là “ba-se”, glucose là “glu-co-se”
v.v , nhưng việc đọc là “bax”, “glucox” có thể không phải là khó đối với
bất kỳ ai có học vài bài nhập môn tiếng Anh.
6/ Bỏ bớt âm tiết cuối UM hoặc IUM trong tên phần lớn các nguyên tố hoá
học và một số cation. Ví dụ: kali, natri, uran/urani, fluor, carboni, amoni,
9
oxoni, Riêng hai nguyên tố Curium (Cm) và Thulium (Tm) thì không bỏ
đuôi UM vì để tương hợp với ký hiệu nguyên tố.
7/ Phụ âm C bình thường thì được đọc như K, tuy nhiên, nếu đứng trước các
nguyên âm mềm (E, I, Y) thì phải đọc như X (“xờ”). Việc chuyển C = X có
ưu điểm là tạo thuận lợi cho mọi người đọc, kể cả những người chưa quen
với hoá học, tuy nhiên, gây trở ngại nhất định cho việc hội nhập, trong khi
hầu hết những người có trình độ hoá học nhất định lại không có nhu cầu phải
phiên chuyển như vậy. Đặc biệt, trong hoá học hữu cơ thì số lượng những
hợp chất mà tên gọi có chứa các vần CE, CI, CY lại rất nhiều; những hợp
chất này chủ yếu liên quan đến các công trình khảo cứu chứ ít có liên hệ với
đại đa số công chúng. Những nhà nghiên cứu, bao gồm cả sinh viên, thật sự
không có nhu cầu phải phiên chuyển các thuật ngữ có liên quan đến các vần

của phụ âm C, không những thế, nếu phiên chuyển sẽ gây khó khăn cho việc
tra cứu, bởi vì lúc đó sẽ không thể phân biệt được đâu là vần XE thật đâu là
vần XE được phiên chuyển từ vần CE. Mặc dầu vậy, một số thuật ngữ
tương đối thông dụng có các vần này (vd. axit, axeton, axetic) lâu nay đã
được dùng rộng rãi (ở miền bắc và trong sách giáo khoa bậc phổ thông), kể
cả trong công chúng, cho nên có thể cần tiếp tục duy trì trong những giới
hạn nhất định, mà cụ thể là để tiếp tục tồn tại như một phương án song đôi.
Đối với các hợp chất phức tạp hơn và ít phổ biến hơn thì không phiên
chuyển, như đang áp dụng triệt để trong ngành dược và ở miền nam.
8/ Không sử dụng và phiên chuyển hậu URE (theo tiếng Pháp) mà sử dụng
hậu tố IDE (theo tiếng Anh) trong tên gọi các hợp chất nhị tố, vd., cloride,
carbide, sunfide/sulfide, Có ý kiến đề nghị bỏ nguyên âm E, nhưng như
vậy sẽ có thể bị nhầm lẫn với những hợp chất mà tên gọi có hậu tố ID nhưng
khác về bản chất.
Như vậy, trên cơ sở những quy tắc nêu trên, các đề xuất của Đề tài đối
với hệ thống danh pháp hoá học Việt Nam bao gồm các nội dung như trình
bày dưới đây.
Các nguyên tố hoá học
1. Những nguyên tố đã có tên Việt hoặc Hán-Việt đang được sử dụng
rộng rãi thì cứ tiếp tục gọi như vậy mà không cần phải phiên chuyển
từ tiếng Latin (hoặc tiếng Anh, tiếng Pháp) nữa. Tuy nhiên, để biết
nguồn gốc của ký hiệu và tiện viết tên các dẫn chất cũng như thể hiện
các cation trong các phức chất, vd. kali hexacyanoferat (II) hay
axit/acid tetracloroauric, bên cạnh tên Việt, sẽ viết thêm tên Latin
nhưng để trong ngoặc đơn . Đó là 10 nguyên tố: Ag (Argentum), Au
10
(Aurum), Al (Aluminium), Cu (Cuprum), Fe (Ferrum), Hg
(Hydrargyrum), Pb (Plumbum), Sn (Stannum), S (Sulfur), Zn
(Zincum). Có ý kiến đề nghị xem xét thêm hai nguyên tố Ni và Pt, nên
chăng sử dụng tên Việt là “kền” và “bạch kim”. Tuy nhiên, mức độ

phổ biến của các tên “kền” và “bạch kim” có thể chưa thật rộng rãi
như các nguyên tố nêu trên, cho nên, Ban chủ nhiệm Đề tài thấy
không cần đưa Ni và Pt vào danh sách các nguyên tố được đặt tên
Việt hoàn toàn. Không thể không thừa nhận rằng, đặt tên Việt hoặc
Hán-Việt sẽ làm cho việc gọi tên nguyên tố được dễ dàng, nhưng lại
gây khó khăn cho việc hình thành các dẫn chất của chúng; trong tuyệt
đại đa số trường hợp khi hình thành tên hợp chất hoặc phức chất đều
phải sử dụng tên Latin của các nguyên tố đó. Cho nên không cần mở
rộng việc đặt tên Việt nếu không thật sự cần thiết. Bên cạnh đó, Ban
chủ nhiệm Đề tài lại thấy, vì tên “nitơ”, giống như “hydro” và “oxy”
đã được phổ biến quá rộng rãi, nên chăng coi tên “nitơ” của nguyên
tố N là tên Việt và sẽ viết rời chứ không viết hai từ liền nhau, bởi vì
nếu là tên Việt hoàn toàn thì không viết liền và có thể có dấu thanh,
dấu mũ. Xin lưu ý rằng, theo quy ứơc được nhiều người chấp nhận thì
các thuật ngữ hoá học được hình thành trên cơ sở chất liệu từ thuật
ngữ nước ngoài không nên có dấu thanh và dấu mũ (những trường
hợp như “ơgenol” hoặc “ơtecti” đang được kiến nghị loại bỏ để
chuyển thành “eugenol”, “eutecti”). Nếu xử lý tên nguyên tố này
theo đề xuất trên đây thì sẽ không còn tranh chấp giữa các phương án
“nitơ” và “nitrogen”; lúc đó nó là nguyên tố bình đẳng trong số các
nguyên tố có tên Việt hoàn toàn như “vàng”, “thuỷ ngân” (cũng gồm
hai từ viết rời nhau) v.v Việc hình thành tên các dẫn chất của N cũng
được xử lý như các nguyên tố có tên Việt khác mà không cần quan
tâm mối liên quan giữa tên nguyên tố với tên dẫn chất
1
. Có ý kiến đề
nghị đối với hai nguyên tố H và O nên sử dụng tên Hydrogen và
Oxygen. Thực ra, nếu viết như vậy thì phù hợp với quy tắc đã được đề
ra trên đây về việc bỏ đuôi UM và IUM như đối với các nguyên tố
khác, và cũng không gây khó khăn gì trong việc đọc (đằng nào chúng

ta cũng phải đọc “halogen” khi nhắc đến các nguyên tố thuộc nhóm
này), tuy nhiên vì hiện nay các tên “hydro” và “oxy” đã trở nên quá
phổ biến và cũng không gây trở ngại gì nhiều cho việc hình thành các
dẫn chất của chúng, cho nên, nên để nguyên, không cần thay đổi.
1
Ý kiến này của Ban chủ nhiệm không được đa số đồng tình; ý kiến chung vẫn muốn giữ tên gọi NITƠ như
hiện nay, cũng coi như một ngoại lệ của việc sử dụng dấu thanh. Một số ý kiến đề nghị đưa ra hai phương
án là NITƠ và NITROGEN (không thể viết NITRO vì sẽ gây nhầm lẫn với nhóm NITRO) để sau này khi
viết tên các hợp chất, vi dụ, các phức chất không gặp khó khăn (xem phần sau).
11
2. Để có sự tương hợp giữa tên và ký hiệu nguyên tố, nguyên tố Ce viết
Ceri chứ không viết Xeri, nguyên tố Cs viết là Caesi chứ không viết
Xesi, nguyên tố Cm viết Curium, nguyên tố Tm viết Thulium.
3. Đối với các trường hợp phụ âm đứng ở cuối âm vận mà không có
trong các vần của Tiếng Việt, phần lớn chấp nhận viết như nguyên
tiếng nước ngoài và người đọc có thể xử lý theo hai cách; hoặc đọc
như các phụ âm độc lập với nhau (vd. ly-bờ-đen, ha-fờ-ni ), hoặc đọc
nhẹ vần ngược đó (vd., A-rơ-gon hay Ca-rơ-bon, đọc nhẹ vần “rơ”),
gần như không đọc thành âm. Đó là các trường hợp vần AD (cadmi),
AF (hafni), AG (magnesi), AR (argon, arsen, carbon), AS (astati),
ER (erbi, germani, terbi, yterbi), IR (zirconi), IS (bismut), OD (iod),
OR (bor, clor, fluor), OS (osmi, phospho), YB (molybden). Đối với
các nguyên tố B, Cl, F, I cần giữ các phụ âm R và D ở cuối để dễ
dàng chuyển sang các dẫn chất của chúng như cloric, fluoric, boric,
iodic v.v Một số ý kiến cho rằng các vần ngược: AL, OL, EL thuộc
loại khó đọc, cho nên sẽ áp dụng quy tắc hai phương án, đó là 6
nguyên tố: canxi/calci, honmi/holmi, niken/nickel, coban/cobalt,
tantan/tantal. wonfram/wolfram.
4. Hiện nay tên người và cả tên địa danh nói chung là không phiên
chuyển, vì vậy, nguyên tố Fr (francium) và các nguyên tố sau U

(uranium) là những nguyên tố được đặt tên theo tên của các nhà khoa
học lớn của nhân loại (là chính) và một số địa danh hoặc hành tinh,
cho nên không phiên chuyển mà chỉ bỏ đuôi UM.
Như vậy, tên các nguyên tố sẽ được viết như sau:
1. Hydrogenium → Hydro, ký hiệu H;
2. Helium → Heli, ký hiệu He;
3. Lithium → Lithi, ký hiệu Li;
4. Beryllium → Beryli, ký hiệu Be;
5. Borum → Bor, ký hiệu B;
6. Carboneum/Carbon → Carbon, ký hiệu C;
7. Nitrogenium → Nitơ/Nitrogen, ký hiệu N;
8. Oxygenium → Oxy, ký hiệu O,
9. Fluorum → Fluor, ký hiệu F,
10.Neon → Neon, ký hiệu Ne,
11.Natrium → Natri, ký hiệu Na,
12.Magnesium → Magnesi (5), ký hiệu Mg;
13.Aluminium → Nhôm, ký hiệu Al,
14.Silicium → Silic, ký hiệu Si,
12
15.Phosphorus → Phospho, ký hiệu P,
16.Sulfur → Lưu huỳnh, ký hiệu S,
17.Chlorum → Clor, ký hiệu Cl,
18.Argon → Argon, ký hiệu Ar,
19.Kalium → Kali, ký hiệu K,
20.Calcium → Canxi (1)/Calci (2), ký hiệu Ca,
21.Scandium → Scandi, ký hiệu Sc,
22.Titanium → Titan, ký hiệu Ti,
23.Vanadium → Vanadi, ký hiệu V,
24.Chromium → Crom, ký hiệu Cr,
25.Manganum → Mangan, ký hiệu Mn,

26.Ferrum → Sắt, ký hiệu Fe,
27.Cobaltum → Coban (1)/Cobalt (2), ký hiệu Co,
28.Niccolum/Nickel → Niken (1)/Nickel (2), ký hiệu Ni,
29.Cuprum → Đồng, ký hiệu Cu,
30.Zincum → Kẽm, ký hiệu Zn,
31.Gallium → Gali, ký hiệu Ga,
32.Germanium → Germani, ký hiệu Ge,
33.Arsenicum → Arsen, ký hiệu As,
34.Selenium → Selen, ký hiệu Se,
35.Bromum → Brom, ký hiệu Br,
36.Krypton → Krypton, ký hiệu Kr,
37.Rubidium → Rubidi, ký hiệu Rb,
38.Strontium → Stronti, ký hiệu Sr,
39.Yttrium → Ytri, Ký hiệu Y,
40.Zirconium → Zirconi, ký hiệu Zr,
41.Niobium → Niobi, ký hiệu Nb,
42.Molybdenum → Molybden, ký hiệu Mo,
43.Technetium → Techneti, ký hiệu Tc,
44.Ruthenium → Rutheni, ký hiệu Ru,
45.Rhodium → Rhodi, ký hiệu Rh,
46.Palladium → Paladi, ký hiệu Pd,
47.Argentum → Bạc, ký hiệu Ag,
48.Cadmium → Cadmi, ký hiệu Cd,
49.Indium → Indi, ký hiệu In,
50.Stanum →Thiếc, ký hiệu Sn,
51.Stibium → Antimon/Stibi, ký hiệu Sb,
13
52.Tellurium → Teluri, ký hiệu Tl,
53.Iodum → Iod, ký hiệu I,
54.Xenon → Xenon, ký hiệu Xe,

55.Caesium →Caesi, ký hiệu Cs,
56.Barium → Bari, ký hiệu Ba,
57.Lanthanum → Lanthan, ký hiệu La,
58.Cerium → Ceri, ký hiệu Ce,
59.Praseodymium → Praseodym, ký hiệu Pr,
60.Neodymium → Neodym, ký hiệu Nd,
61.Promethium → Promethi, ký hiệu Pm,
62.Samarium → Samari, ký hiệu Sm,
63.Europium → Europi, ký hiệu Eu,
64.Gadolinium → Gadolini, ký hiệu Gd,
65.Terbium → Terbi, ký hiệu Tb,
66.Dysprosium → Dysprosi, ký hiệu Dy,
67.Holmium → Honmi (1)/Holmi (2), ký hiệu Ho,
68.Erbium → Erbi, ký hiệu Er,
69.Thulium → Thulium, ký hiệu Tm,
70.Ytterbium → Yterbi, ký hiệu Yb,
71.Lutetium → Luteti, ký hiệu Lu,
72.Hafnium → Hafni, ký hiệu Hf,
73.Tantalum →Tantan (1)/Tantal (2), ký hiệu Ta,
74.Wolframium → Wonfram (1)/Wolfram (2), ký hiệu W,
75.Rhenium → Reni, ký hiệu Re,
76.Osmium → Osmi, ký hiệu Os,
77.Iridium → Iridi, ký hiệu Ir,
78.Platinum → Platin, ký hiệu Pt,
79.Aurum → Vàng, ký hiệu Au,
80.Hydrargyrum →Thủy ngân, ký hiệu Hg,
81.Thalium → Thali, ký hiệu Tl,
82.Plumbum → Chì, ký hiệu Pb,
83.Bismuthum → Bismut, ký hiệu Bi,
84.Polonium → Poloni, ký hiệu Po,

85.Astatinum → Astatin, ký hiệu At,
86.Radon → Radon, ký hiệu Rn,
87.Francium → Franci, ký hiệu Fr,
88.Radium → Radi, ký hiệu Ra,
14
89.Actinium → Actini, ký hiệu Ac,
90.Thorium → Thori, ký hiệu Th,
91.Protactinium → Protactini, ký hiệu Pa,
92.Uranium → Urani/Uran, ký hiệu U,
93.Neptunium → Neptuni, ký hiệu Np,
94.Plutonium → Plutoni, ký hiệu Pu,
95.Americium → Americi, ký hiệu Am,
96.Curium → Curium, ký hiệu Cm,
97.Berkelium → Berkeli, ký hiệu Bk,
98.Californium → Californi, ký hiệu Cf,
99.Einsteinium → Einsteini, ký hiệu Es,
100. Fermium → Fermi, ký hiệu Fm,
101. Mendelevium → Mendelevi, ký hiệu Md,
102. Nobelium → Nobeli, ký hiệu No,
103. Lawrencium → Lawrenci, ký hiệu Lr,
104. Rutherfordium → Rutherfordi, ký hiệu Rf,
105. Dubnium → Dubni, ký hiệu Db,
106. Seaborgium → Seaborgi, ký hiệu Sg,
107. Bohrium → Bohri, ký hiệu Bh,
108. Hassium → Hassi, ký hiệu Hs,
109. Meitnerium → Meitneri, ký hiệu Me,
110. Darmstadtium → Darmstadti, ký hiệu Ds,
111. Roentgenium → Roentgeni, ký hiệu Rg.
Tên đồng vị của một nguyên tố hoá học gồm tên của nguyên tố đó
kèm theo chữ số Arap chỉ nguyên tử khối của nó. Trong ký hiệu, chỉ số chỉ

nguyên tử khối viết ở phía trên bên trái (vd.
6
Li,
7
Li, và
35
Cl,
37
Cl ). Những
đồng vị của nguyên tố hydro có tên và ký hiệu riêng: Deutri (D), Triti (T).
Đơn chất có cùng tên với nguyên tố tương ứng. Tên của mỗi dạng thù
hình của đơn chất là tên của đơn chất đó kèm theo tính từ nêu đặc tính của
dạng thù hình hoặc có tên riêng, vd. Phospho trắng và Phospho đỏ của P,
Graphit và Kim cương của C, Ozon (O
3
) của oxy,
Về cách gọi tên các hợp chất hóa học:
Tên các hợp chất hoá học được phiên chuyển theo các quy tắc đã trình
bày trên đây và đã áp dụng cho cách phiên chuyển tên các nguyên tố hoá
học. Đối với tên của một số hợp chất được coi là rất phổ biến sẽ để hai
phương án để người dùng tự lựa chọn. Đó là: axit/acid, axeton/aceton (đối
15
với các keton thì vẫn giữ như nguyên dạng đó của tiếng Anh chứ không sử
dụng tên tiếng Pháp là cetone), axetic/acetic (và các dẫn chất),
axetylen/acetylen, andehyd/aldehyd, ancol/alcol, sunfuric/sulfuric,
xyanide/cyanide (có thể bổ sung).
A. Các hợp chất vô cơ
Theo quy định của IUPAC, một hoá chất có thể có ba loại tên: tên
thông thường (tên truyền thống), tên hệ thống và tên nửa hệ thống. Mặc dù
tên hệ thống thể hiện tính khoa học rất rõ ràng, ví dụ, sulfuric acid là tên

thông thường, còn tên hệ thống phải là dihydrogen trioxosulfate. Tuy vậy,
trên các sách báo quốc tế cả tên hệ thống và tên thông thường đều được sử
dụng.
Vấn đề thứ tự các từ tố trong tên hợp chất được xử lý thống nhất là
trong tên, cũng như trong công thức, phần dương được viết và đọc trước,
phần âm (hoặc âm hơn) được viết và đọc sau. Như vậy, đối với các muối thì
thống nhất như trong hệ thống danh pháp IUPAC (tiếng Anh), nhưng đối với
các axit/acid thì công thức được viết giống, nhưng tên thì viết khác với hệ
thống tiếng Anh (viết công thức HNO
3
như trong danh pháp IUPAC, nhưng
viết tên và đọc tên thì axit/acid nitric chứ không phải nitric axit/acid). Ở đây
không phải chúng ta không nhất quán, khi thì theo tiếng Pháp, khi thì theo
tiếng Anh, mà là theo quy tắc của ngôn ngữ Tiếng Việt. Trong tiếng Việt,
trật tự các từ tố của một từ ghép phụ thuộc vào vai trò của các từ tố; nếu hai
từ tố có vai trò như nhau (đẳng lập) thì thứ tự không quan trọng (vd., khoẻ
mạnh hoặc mạnh khoẻ đều như nhau), nhưng nếu không phải là hai từ tố
đẳng lập thì từ tố đóng vai trò chính phải được đặt trước từ tố kia. Ta nói xe
đạp, chứ không nói đạp xe, cá chép chứ không phải chép cá, bởi vì từ xe và
từ cá mới là các từ chính. Tương tự như vậy, axit/acid mới là từ chính, còn
nitric chỉ là từ phụ, làm rõ nghĩa cho từ chính (axit/acid gì?).
Hợp chất nhị tố
1. Như đã trình bày ở trên về trật tự các từ tố, tên của các hợp chất nhị tố
gồm tên của nguyên tố dương (dương hơn) tiếp theo là tên của nguyên
tố âm (âm hơn) với hậu tố IDE, ví dụ: canxi/calci carbide (CaC
2
),
natri fluoride (NaF), bari cloride (BaCl
2
), sắt sunfide/sulfide (FeS),

hydro cloride (HCl), hydro phosphide (H
3
P).
2. Tên các hợp chất nhị tố của oxy trước đây được phiên chuyển thành
oxit (miền bắc) và oxid (miền nam) đều gần với cách phát âm trong
tiếng Pháp và cách viết cả trong tiếng Pháp lẫn trong tiếng Anh, trong
khi không thể phiên chuyển tên các hợp chất nhị tố khác (từ tiếng
Anh) bằng cách thêm hậu tố IT vào tên nguyên tố âm hơn đứng sau vì
16
sẽ gây nhầm lẫn với các muối của các axit/acid có chứa oxy như
clorit, nitrit. Vì vậy các hậu tố UA và UR đã được sử dụng để phiên
âm các hợp chất nhị tố không phải của oxy. Nay nên thống nhất là tên
tất cả các hợp chất nhị tố, kể cả của oxy, đều được phiên chuyển với
hậu tố IDE. Như vậy các hợp chất nhị tố của oxy sẽ được phiên
chuyển thành OXIDE. Tuy nhiên, đối với các oxide cần phân biệt các
trường hợp sau đây: (i) Nếu nguyên tố bị oxy hoá chỉ có một hoá trị
hoặc cả nguyên tố bị oxy hoá lẫn nguyên tố oxy đều chỉ có một
nguyên tử (ion), thì tên oxide gồm tên nguyên tố bị oxy hoá và tiếp
sau đó là từ oxide, ví dụ: magnesi oxide (MgO), nhôm oxide (Al
2
O
3
)
hoặc carbon oxide (CO), ni tơ oxide (NO). (ii) Nếu nguyên tố bị oxy
hoá chỉ có một nguyên tử nhưng có thể có nhiều hoá trị (thường là các
kim loại) thì tên oxide gồm tên nguyên tố bị oxy hoá có kèm theo hoá
trị viết bằng số La Mã trong ngoặc đơn và sau đó là từ oxide, ví dụ:
đồng (I) oxide (Cu
2
O), đồng (II) oxide (CuO), sắt (II) oxide (FeO), sắt

(III) oxide (Fe
2
O
3
). (iii) Nếu nguyên tố bị oxy hoá có thể có nhiều hoá
trị và có một hoặc nhiều hơn một nguyên tử thì tên oxide gồm tên
nguyên tố bị oxy hoá có kèm theo tiền tố chỉ dẫn số lượng nguyên tử
(ion) của nguyên tố đó tiếp theo là từ oxide có kèm theo tiền tố chỉ số
lượng nguyên tử (ion) oxy, ví dụ: lưu huỳnh dioxide (SO
2
) , lưu huỳnh
trioxide (SO
3
), dinitơ/dinitrogen oxide (N
2
O), dinitơ/dinitrogen
trioxide (N
2
O
3
), dinitơ/dinitrogen tetraoxide (N
2
O
4
), dinitơ/dinitrogen
pentaoxide (N
2
O
5
), diphospho pentaoxide (P

2
O
5
). (iv) Nếu hợp chất
của oxy (oxide) có chứa hai nguyên tử oxy liền nhau trong công thức
cấu tạo (– O – O – ) thì trong tên gọi từ oxide có thêm tiền tố PER, ví
dụ, natri peroxide (Na
2
O
2
), hydro peroxide (H
2
O
2
). Bởi vì, dù các
oxide chứa ít hay nhiều nguyên tử oxy thì hoá trị của oxy trong các
oxide đó cũng không thay đổi mà chỉ hoá trị của nguyên tử bị oxy hoá
thay đổi, cho nên các oxide này cũng có thể được gọi tên theo cách
đơn giản hơn là gồm tên nguyên tố bị oxy hoá với số La Mã trong
ngoặc đơn chỉ hoá trị của nó và tiếp theo là từ oxide (giống như
trường hợp các oxide của các kim loại thay đổi hoá trị). Ví dụ, N
2
O
4
gọi là ni tơ (IV) oxide, P
2
O
5
gọi là phospho (V) oxide.
3. Tên của các hydroacid gồm từ axit/acid và tiếp theo là tên nguyên tố

của anion với hậu tố HYDRIC, ví dụ, các axit/acid: clorhydric (HCl),
bromhydric (HBr), sunfurhydric/sulfurhydric (H
2
S), Muối của các
hydroacid được gọi tên như hợp chất nhị tố đã kể đến ở trên, nghĩa là
có hậu tố IDE ở tên nguyên tố âm hơn nằm ở vị trí cuối trong công
thức của hợp chất, ví dụ, natri cloride (NaCl), bari sunfide/sulfide
(BaS).
17
Hợp chất có hơn hai nguyên tố
Các hợp chất loại này có thể chia thành các nhóm sau đây:
1. Hợp chất, trong đó các nguyên tố ít âm hơn chỉ liên kết với nguyên tố
ít âm nhất. Các hợp chất này được gọi tên bằng cách thêm hậu tố IDE
vào tên của tất cả các nguyên tố, trừ nguyên tố ít âm nhất. Riêng đối
với nguyên tố oxy thì không thêm hậu tố IDE, ví dụ: phospho
trifluoride dibromide (PF
3
Br
2
), phospho oxy bromide (POBr).
2. Hợp chất, trong đó các nguyên tố tạo thành phần âm liên kết với nhau
(trừ các axit/acid có chứa oxy và muối của chúng) thành một cụm gọi
là gốc, có tên riêng và tính chất khác với các nguyên tố tạo ra nó, ví
dụ, anion OH (hydroxide), CN (xyanide/cyanide). Tên những hợp chất
loại này gồm tên phần dương và tên gốc, ví dụ, natri hydroxide
(NaOH), kali xyanide/cyanide (KCN).
3. Các axit/acid có chứa oxy mà công thức có dạng H
m
X
n

O
p
.
a/ Trường hợp n = 1:
• Đối với những axit/acid ương ứng với các muối thường gặp trong
thiên nhiên (dạng bền nhất), theo quy ước của nhiều nước, có tên tận
cùng bằng hậu tố IC, ví dụ, các axit/acid: sunfuric/sulfuric (H
2
SO
4
),
nitric (HNO
3
), cloric (HClO
3
), manganic (H
2
MnO
4
).
• Những axit/acid chứa ít hơn các axit/acid có hậu tố IC một nguyên tử
oxy nhưng có cùng số nguyên tử hydro, theo tiếng Anh có hậu tố
OUS, còn theo tiếng Pháp có hậu tố EUR, và lâu nay được phiên
chuyển (phiên âm) thành Ơ (ở miền bắc) và để nguyên EUR như
tiếng Pháp (ở miền nam). Cả hai phương án đều dựa theo âm của tiếng
Pháp. Phương án Ơ có thuận lợi là dễ phát âm, tuy nhiên có nhược
điểm là vi phạm một quy ước chính tả có thể coi là nhất quán ở chỗ,
nều tiếng Việt thuần thì mới có dấu thanh và dấu mũ, còn tiếng Việt
có nguồn gốc tiếng nước ngoài thì viết liền và không chứa các dấu đó.
Tuy nhiên, như trường hợp nitơ ở trên, có thể chập nhận hai phương

án song song, hậu tố Ơ và hậu tố OUS (như trong tiếng Anh), còn hậu
tố EUR vừa khó đọc vừa xa với tiếng Anh. Như vậy, có thể chấp nhận
tên của HNO
2
là axit nitrơ/acid nitrous, H
2
SO
3
là axit sunfurơ/acid
sulfurous, v.v
• Những axit/acid chứa ít hơn các axit/acid có hậu tố Ơ/OUS một
nguyên tử oxy nhưng có cùng số nguyên tử hydro thì tên gọi gồm tên
của axit/acid có hậu tố Ơ/OUS nhưng thêm tiền tố HYPO, ví dụ, các
axit/acid: hyponitrơ/hyponitrous (HNO), hypoclorơ/hypoclorous
(HClO).
18
• Những axit/acid chứa nhiều hơn axit/acid có hậu tố IC một nguyên tử
oxy nhưng cùng số nguyên tử hydro (H
m
XO
p+1
) hoặc cùng số nguyên
tử oxy nhưng kém một nguyên tử hydro (H
m-1
XO
p
) thì tên gồm tên
axit/acid có hậu tố IC cộng với tiền tố PER, ví dụ, các axit/acid:
percloric (HClO
4

), permanganic (HMnO
4
).
b/ Trường hợp n > 1:
Phân tử của loại axit/acid này có thể được coi như do nhiều phân tử
cùng một axit/acid mất nước tạo thành, nghĩa là, số oxy hoá của nguyên
tử trung tâm không thay đổi, cho nên, tên của các axit/acid này vẫn
không thay đổi nhưng thêm tiền tố DI, TRI để chỉ rõ số nguyên tử trung
tâm, ví dụ, axit disunfuric/acid disulfuric (H
2
S
2
O
7
= 2H
2
SO
4
– H
2
O),
axit/acid diphosphoric (H
4
P
2
O
7
). Mặc dầu trong thực tế có phổ biến các
tên gọi với tiền tố META, ORTHO và PYRO, ví dụ, metaphosphoric
(HPO

3
), orthophosphoric (H
3
PO
4
) và pyrophosphoric (H
4
P
2
O
7
), dạng
PYRO thực ra chỉ là tổ hợp hai dạng META và ORTHO. Cho nên,
không nên gọi H
2
S
2
O
7
là pyrosulfuric và H
4
P
2
O
7
là pyrophosphoric.
c/ Các axit/acid (n bằng hoặc lớn hơn 1) có chứa nhóm (– O – O –) được
gọi bằng tên của axit/acid tương ứng nối thêm tiền tố PEROXO, ví dụ,
các axit/acid: peroxosunfuric/ peroxosulfuric (H
2

SO
5
), peroxophosphoric
(H
4
P
2
O
8
).
d/ Các axit/acid, trong đó nguyên tố oxy được thay bằng lưu huỳnh có
tên gọi như axit/acid tương ứng nhưng thêm tiền tố THIO, ví dụ, axit
thiosunfuric/acid thiosulfuric (H
2
S
2
O
3
), axit/acid thiocarbonic (H
2
CSO
2
).
e/ Theo IUPAC, tên các axit/acid có chứa oxy và muối của chúng được
gọi tên như là các phức chất, trong đó nguyên tử oxy là phối tử. Như vậy,
theo các quy tắc nêu trên, có thể gọi tên các hợp chất này như sau: HNO
3
:
tên thông thường là axit/acid nitric, tên hệ thống là hydro trioxonitrat;
HNO

2
: axit/acid nitrous và hydro dioxonitrat; H
3
PO
4
: axit/acid
phosphoric và trihydro tetraoxophosphat; H
3
PO
3
: axit/acid phosphorous
và trihydro trioxophosphat; H
4
P
2
O
7
: axit/acid diphosphoric
(pyrophosphoric) và tetrahydro
µ
-oxo-hexaoxodiphosphat; H
2
S
2
O
3
: axit
thiosunfuric/acid thiosulfuric và dihydro trioxothiosunfat
/trioxothiosulfat, v.v Tên của các muối cũng được gọi theo cách đó, chỉ
thay số nguyên tử hydro bằng số cation kim loại. Theo cách gọi này

chúng ta sẽ khỏi phải xử lý hậu tố của axit/acid chứa ít hơn một nguyên
tử oxy so với axit/acid có hậu tố IC, đồng thời không những thể hiện
19
đúng thành phần của công thức phân tử (không thể gây nhầm lẫn) mà còn
chú ý đến cả công thức cấu tạo phân tử, ví dụ, phân biệt nguyên tử oxy
cầu nối với nguyên tử oxy không cầu nối.
4. Các muối. Có bốn nhóm khác nhau:
• Muối trung hoà: Muối của các axit/acid nhị tố (hydroaxit/hydroacid)
có tên gọi như các hợp chất nhị tố đã đề cập trên đây. Tên các muối
của các axit/acid có chứa oxy được cấu tạo bằng tên của cation hoặc
tên gốc dương tiếp theo là tên anion với hậu tố AT nếu là muối của
axit/acid có hậu tố IC hoặc hậu tố IT nếu là muối của axit/acid có hậu
tố Ơ/OUS. Ví dụ: natri carbonat (Na
2
CO
3
), amoni nitrit (NH
4
NO
2
).
• Muối axit/acid: Tên các muối loại này gồm tên cation có thêm tiền tố
MONOHYDRO (hoặc HYDRO, vì chỉ có một nguyên tử hydro),
DIHYDRO (chứa hai nguyên tử hydro), TRIHYDRO (chứa ba
nguyên tử hydro), ví dụ: natri monohydrocarbonat hoặc natri
hydrocarbonat (NaHCO
3
), natri dihydrophosphat (NH
2
PO

4
). Không
dùng tên natri bicarbonat cho NaHCO
3
vì không thể hiện được cấu
tạo.
• Muối base: Tên muối loại này gồm tên của muối trung hoà tương ứng,
trong đó từ tố sau được thêm vào tiền tố chỉ số nhóm OH hoặc số
nguyên tử còn lại chưa bị trung hòa. Ví dụ: lanthan
monohydroxycloride (LaOHCl
2
), bismut dihydroxycloride
[Bi(OH)
2
Cl] hoặc nếu loại đi một phân tử nước thì gọi là bismut oxy
cloride (BiOCl).
• Muối kép: Muối này thực chất là hỗn hợp của các muối có chung
anion, vì vậy, tên của loại muối này gồm tên của các cation (viết nối
với nhau bằng gạch ngang) và tiếp theo là tên anion, ví dụ, kali-nhôm
sunfat/sulfat [KAl(SO
4
)
2
], kali-natri carbonat (KNaCO
3
).
5. Những hợp chất cộng hóa trị có công thức phân tử tương tự muối: Tên
các hợp chất này tương tự tên của các hợp chất nhị tố thông thường,
nhưng ở vị trí đầu thay vì tên cation là tên của nhóm nguyên tử liên kết
với nguyên tố đóng vai trò nguyên tố âm hơn. Ví dụ: thionyl cloride

(SOCl
2
), phosphoryl cloride (POCl
2
).
Phức chất
Trong công thức, các thành phần của phức chất được sắp xếp theo thứ
tự: nguyên tử trung tâm rồi lần lượt đến phối tử âm, trung tính và dương,
20
nhưng trong tên thì nguyên tử trung tâm lại nằm sau tất cả các phối tử của
ion phức.
1. Số phối tử: Dùng tiền tố di-, tri-, tetra-, penta-, hexa-, để chỉ số
lượng các phối tử 2, 3, 4, 5, 6, Để chỉ phối tử có tên viết dài hoặc
trong tên phối tử đã có chỉ dẫn số lượng như di, tri, tetra, thì tên
của phối tử được viết trong ngoặc đơn, trước dấu ngoặc đơn có các
tiền tố bis-, tris-, tetrakis-, pentakis-, , vd., Pt[(NH
3
)
2
Cl
2
] –
diclorodiammin platin (II), [Cu(NH
2
CH
2
CH
2
NH
2

)
2
]SO
4

bis(ethylendiamin)đồng (II) sunfat/sulfat
2. Tên phối tử: nếu là anion thì lấy tên anion + o, vd., F
-
- fluoro, OH
-
- hydroxo, CO
3
2-
- carbonato, O
2-
- oxo, O
2
2-
- peroxo, S
2
O
3
2-
-
thiosunfato/thiosulfato ; nếu là phân tử trung hoà thì lấy tên phân tử
đó, vd., C
6
H
5
N – pyridin, CH

3
NH
2
– methylamin; một số phối
tử/phân tử có tên riêng, vd., H
2
O – aqua, NH
3
– ammin, CO –
carbonyl, NO – nitrosyl.
3. Tên nguyên tử trung tâm: Nếu ion phức là cation thì đọc tên
nguyên tố trung tâm và số La Mã đặt trong dấu ngoặc đơn để chỉ số
oxy hoá của nó, vd., [Co(NH
3
)
6
]Cl
3
– hexammin coban (III) cloride,
[CoCl(H
2
O)
5
]Cl
2
– cloropentaaquacoban(III) cloride; nếu nguyên tử
trung tâm ở trong anion phức thì đọc tên nguyên tử + hậu tố at (nếu
phức là axit/acid thì lấy hậu tố ic) kèm theo số La Mã trong ngoặc
đơn để chỉ số oxy hoá, vd., K
4

[Fe(CN)
6
] – kali hexacyanoferat (II),
H[AuCl
4
] – acid/axit tetracloroauric/ vàng(III); nếu phức chất
không điện ly (không có cation và anion) thì gọi tên phối tử có tiền
tố và tên nguyên tố trung tâm, vd., Pt[(NH)
2
Cl
2
] – diclorodiammin
platin(II).
Hợp kim
Tên hợp kim gồm tên các kim loại tạo thành hợp kim viết nối với
nhau bằng gạch ngang và tỷ lệ số nguyên tử của các kim loại ấy đặt trong
ngoặc đơn, ví dụ, tên hợp kim: niken/nickel-bismut (1:2), công thức: NiBi
2
;
tên hợp kim: magnesi-đồng-nhôm (2:2:5), tên công thức: Mg
2
Cu
2
Al
5
.
B. Các hợp chất hữu cơ
1/ Về cơ bản, danh pháp các hợp chất hữu cơ sẽ tuân thủ các quy tắc của
IUPAC với các thuật ngữ được phiên chuyển theo những quy tắc đã được
trình bày trên đây đối với cả các tên hệ thống, tên nửa hệ thống và tên thông

thường. Ví dụ: ethan, hydrocarbon, aldehyd, alkan, citronelol, cystin,
antraquinon, v.v Các hydrocarbon no đầu tiên có tên nửa hệ thống là
methan, ethan, propan và butan. Các hydrocarbon chứa số C nhiều hơn tiếp
21
theo có tên hệ thống bắt đầu bằng các tiền tố penta (5), hexa (6), heptadeca
(17), cộng với hậu tố AN biểu thị liên kết đơn, hậu tố EN biểu thị liên kết
đôi và hậu tố YN biểu thị liên kết ba (trừ acxetylen/acetylen).
2/ Các tiền tố được viết như nguyên trong danh pháp IUPAC, ví dụ, mono,
di (2), tri (3), hexa (6), deca (10), undeca (11), heptadeca (17); bis (2
lần), tris (3 lần), pentakis (5 lần), decakis (10 lần) ; bi (2 vòng), ter (3
vòng), quater (4 vòng ), sexi (6 vòng), octi (8 vòng) ; cyclo, bicyclo,
spiro ; dehydro, demethyl ; cis, trans ; syn, anti ; iso, sec, tert ;
ortho, meta, para
3/ Các hậu tố cũng được viết như nguyên dạng, ví dụ, al, yl, diyl, yliden,
diyliden, ylidin, enylen, dienylen, v.v
4/ Các tiền tố và hậu tố biểu thị các nhóm đặc trưng cũng được phiên chuyển
theo các quy tắc nêu trên.
• Các nhóm đặc trưng chỉ có tên ở dạng tiền tố: bromo, cloro, fluoro,
iodo, iodyl, nitroso, nitro,
• Các nhóm đặc trưng có thể có tên ở dạng tiền tố hoặc hậu tố:
carboxy/oic hoặc carboxylic (axit/acid), cyano/carbonitril, oxo/al
(aldehyd), hydroxy/ol, amino/amin, v.v

Ban chủ nhiệm Đề tài
22

×