Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Khoa học địa lí pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.85 KB, 12 trang )

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊA LÍ
Người soạn: Trần Thị Hồng Sa
1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC ĐỊA LÍ
1.1. Khái niệm
Tên gọi Địa lí xuất phát từ tiếng Hy Lạp là Geography.
Người xưa có những nhận biết sơ khai về địa lí thông qua việc mô tả các hiện tượng
như sự thay đổi thời tiết, khí hậu, tìm phương hướng…  khi có chữ viết, các kiến thức
địa lí được ghi chép lại tạo nền móng cho sự phát triển của Khoa học địa lí ngày nay.

Theo Bách khoa toàn thư Xô Viết: “Địa lí học là một hệ thống các khoa học tự
nhiên và xã hội, nghiên cứu thể tổng hợp tự nhiên, thể tổng hợp sản xuất theo lãnh thổ và
các thành phần của chúng.”
Hệ thống khoa học: là sự kết hợp của nhiều bộ môn khoa học khác nhau với các chức
năng riêng nhưng đồng thời lại được thống nhất bởi 1 chức năng chung. Hay nói cách
khác, tất các các khoa học thuộc 1 hệ thống đều có đối tượng nghiên cứu chung, mặc dù
mỗi khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng. Các khoa học bộ phận đều sử dụng 1
phương pháp luận chung, 1 hệ thống khái niệm chung và có thể cùng sử dụng 1 số
phương pháp chung.
Giữa các khoa học bộ phận tồn tại những nhiệm vụ chung phải giải quyết: Trên cơ sở
nhận thức được các quy luật phát sinh, phát triển của môi trường địa lí  xác định cho
đúng đắn đặc tính của mối quan hệ giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống KT – XH.
Sơ đồ thể hiện cấu trúc hệ thống của ngành Khoa học địa lí
1
Hệ thống các ngành KH Địa lí
KH Địa lí Tự nhiên KH Địa lí KT - XH
Địa lí TN bộ phận Địa lí TN tổng hợp Địa lí KT – XH bộ phận Địa lí KT – XH tổng hợp
- KH Trái đất
- Khí hậu học
- ĐL thủy văn
- ĐL sinh vật
- ĐL th.nhưỡng


- Địa mạo học
- Cổ địa lí
- Cơ sở địa lí tự nhiên
- Địa lí tự nhiên thế
giới và Việt Nam
- Cảnh quan học
- Cơ sở địa lí
KT - XH
- Địa lí KT-XH
thế giới
- Địa lí KT-XH
Việt Nam
- ĐL Dân cư
-ĐL Nông nghiệp
- ĐL Công nghiệp
- ĐL Dịch vụ
Bản đồ học

Mối quan hệ giữa địa lí tự nhiên và địa lí KT – XH

Địa lí thống nhất:
- Địa lí KT - XH không thể tồn tại nếu tách rời địa lí tự nhiên vì XH muốn tồn tại và
phát triển thì con người phải tác động vào tự nhiên và sống trong tự nhiên. Do đó, cần
phải hiểu tự nhiên, đặc điểm và qui luật tự nhiên.
- Địa lí tự nhiên không thể tách địa lí KT – XH vì nếu tách nó sẽ mất đi mục đích
nghiên cứu của mình là phục vụ sản xuất.
1.2. Vai trò
Địa lí học có vai trò ngày càng quan trọng trong hoạt động giảng dạy, giáo dục ở nhà
trường và thực tiễn đời sống của con người.
1 - Địa lí học đụng chạm đến nhiều vấn đề rộng, phức tạp cả về tự nhiên lẫn KT – XH

nên cung cấp cho người học nhiều khái niệm cần thiết trong cuộc sống.
2 - Người học hiểu biết được đời sống của các dân tộc trên thế giới, mối quan hệ giữa
người với người, giữa sức sản xuất với quan hệ sản xuất và sự tiến bộ xã hội. Từ đó, họ
nắm được đặc điểm của các phương thức sản xuất và phương thức sản xuất nào là tối ưu.
3 - Địa lí trong nhà trường có khả năng giáo dục cho người học lòng yêu nước, tinh
thần quốc tế vô sản, bảo vệ và cải tạo tự nhiên, xã hội. Đồng thời, địa lí rèn luyện cho
người học những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày, cho sản xuất, chiến đấu
như kĩ năng quan sát, kĩ năng đọc và vẽ bản đồ, xác định phương hướng…
4 - Địa lí là khoa học tiếp cận hệ thống không gian, có thể giúp các nhà lãnh đạo hay
quản lí điều hành tốt sự phát triển bền vững 1 lãnh thổ hay lãnh hải nào đó.
Trong hệ thống tự nhiên thì cơ chế giữ cân bằng là cơ chế tự điều chỉnh. Còn trong hệ
thống thống nhất tự nhiên – kinh tế – xã hội – nhân văn (TN – KT – XH – NV) thì phải
có yếu tố chỉ huy để điều khiển. Khi đó tiếp cận hệ thống là quá trình tìm ra các cơ sở,
các giải pháp, các phương án (kịch bản) giúp cho nhà lãnh đạo hay quản lí ra quyết định
sáng suốt. Lúc này khoa học địa lí trở thành 1 khoa học hành động và năng động trong xã
hội công nghiệp hóa, đô thị hóa, tin học hóa sôi động.
5 - Tạo hiệu quả cao trong quản lí và sử dụng tài nguyên để đảm bảo duy trì sự phát
triển KT – XH. Không gian địa lí thống nhất là sản phẩm của con người, của xã hội, là
công cụ và môi trường để xã hội tự tái sản xuất. Như vậy, địa lí có vai trò tích cực trong
việc tổ chức không gian nhân sinh; trong việc bảo vệ, cải tạo và chống ô nhiễm môi
trường.
Với những dự án tổ chức và quản lí lãnh thổ phức tạp mà làm theo phương pháp
thông thường là không thể được hoặc khó và lâu thì xây dựng hệ thông tin địa lí
(HTTĐL) là giải pháp tối ưu. Cụ thể: theo dõi diện tích rừng, nạn cháy rừng, biến đổi khí
hậu, sa mạc hóa, quản lí và sử dụng đất đai, quản lí hệ thống đường giao thông, quản lí
2
tài nguyên tự nhiên, chương trình KT – XH (phòng chống bệnh tật, quản lí các hoạt động
đô thị, quản lí dân số, xóa đói giảm nghèo)…
6 - Sự phân vùng tự nhiên, phân vùng KT – XH là cơ sở khoa học tổng hợp để đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, quản lí hiệu quả KT – XH.

2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC ĐỊA LÍ
Những hiểu biết về địa lí có từ hàng ngàn năm TCN. Khoảng 2400 năm TCN, người
Phênixi sống ở ven Địa Trung Hải (Xiri – Libăng nay) đã đi thám hiểm và buôn bán khắp
Địa Trung Hải, biển Đỏ, sang Đại Tây Dương.
Bản đồ cổ nhất thế giới bằng đất nung có tuổi 2500 năm TCN thể hiện vùng đất
Lưỡng Hà với châu thổ của 2 sông Tigrơ và Ơphrat đổ ra biển và ở 2 bên có 2 dãy núi
bao quanh.
Ở Ai cập, các Vua đã tiến hành đo đạc đất đai châu thổ sông Nin để có cơ sở đánh
thuế.
2.1. Thời kì cổ đại (Thế kỉ V TCN  IV SCN)
Bắt đầu xuất hiện những ý niệm địa lí thông qua những cuộc đi biển, những hành
trình dài trên đất liền  con người đã ghi chép, mô tả các sự kiện. Những ý niệm ấy được
chia thành 2 hướng chính: Địa lí đại cương và Địa lí khu vực.
- Thế kỉ V TCN: Hêrôđốt lần đầu tiên đưa ra những thông tin có tổ chức về nhiều mặt
khi ông mô tả các vùng đất và biển mà ông đã đi qua ở Biển Đen, Địa Trung Hải, Ai cập,
Tiểu Á, vùng Lưỡng Hà. Trường phái Pitago với những khái niệm về 1 Trái đất hình tròn.
Trường phái Pacmênit với tính địa đới.
- Thế kỉ III TCN: Êratôxten đã chú ý đo đạc Trái đất; xác định phương hướng và vị trí
địa lí; đặt tên và định nghĩa cho khoa học địa lí; mô tả các quyển của Trái đất (thạch
quyển, khí quyển)  Địa lí học mang tính định lượng, sử dụng toán học và thiên văn học.
Ông đã xác định chiều dài kinh tuyến khoảng 39.500 km (chính xác là 40.075,7 km); xây
dựng bản đồ thế giới có người ở với chiều dài từ Đại Tây Dương đến sông Hằng kèm
theo hệ thống kinh – vĩ độ, chiều rộng không đi xa quá về phía bắc và nam Địa Trung
Hải, trên đó thể hiện châu Á, Âu, Phi.
- Thế kỉ II TCN đến đầu CN:
Crates xây dựng quả địa cầu và đã tưởng tượng ra 3 lục địa là Bắc Mĩ, Nam cực, Úc.
Strabon chuyển sang nghiên cứu địa lí nhân văn, chú ý đến dân tộc và chiều lịch sử.
- Thế kỉ II SCN: Khoa học địa lí có bước thụt lùi với “Thuyết địa tâm hệ” của
Ptôlêmê. Song ông có những đóng góp lớn về bản đồ và trắc địa.
3

Công trình quan trọng nhất của ông là cuốn “Địa lí học” gồm 8 tập (Tập 1 – các
nguyên tắc, trong đó có cách xây dựng quả địa cầu và cách chiếu khi vẽ bản đồ; Tâp 2,
3,4,5,6,7 – danh mục gồm hơn 8000 địa danh kèm theo tọa độ kinh – vĩ để xác định vị trí;
Tập 8 – về địa lí, toán học, thiên văn học, phép chiếu hình nón; 1 bản đồ toàn thế giới, 26
bản đồ chi tiết các khu vực).
Theo bản đồ của ông, thế giới dài đến 180
0
(đảo Canari đến Trung Quốc) và rộng
70
0
B – 15
0
N, gồm châu Âu, Á, Phi, Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, biển Caxpi, biển Đỏ,
Ấn Độ Dương.
2.2. Thời kì trung cổ (thế kỉ V SCN – đầu thế kỉ XV)
Đây là thời kì suy đồi của địa lí học vì nhiều thành tựu của khoa học địa lí đã đạt được
từ trước bị phủ định. Người ta bắt buộc phải chấp nhận lời phán có sẵn của nhà thờ như
quả đất là mặt phẳng hay dạng đĩa; Các bản đồ không thể hiện thực tại mà vẽ theo trí
tưởng tượng và theo giáo lí Thiên chúa giáo (bản đồ được đặt theo hướng Đông – Tây, có
thêm 1 vùng thiên đường của chúa ở chính giữa trên cùng).
Song vẫn có những thành tựu: Người Ả rập khẳng định lại chiều dài kinh tuyến, bắt
đầu nói Mặt trời là trung tâm vũ trụ; Người Noocmăng có những hành trình trên biển ở
Đại Tây Dương, chiếm Băng đảo và đảo Grơnlen, sang bán đảo Labrađo và đi dọc biển
châu Mĩ; gia đình Maccô Pôlô ở Trung Âu đến Trung Hoa, Mông Cổ bằng đường bộ và
đi vòng quanh Nam Á vào tiểu Á bằng đường biển.
2.3. Thời kì phục hưng (cuối thế kỉ XV – thế kỉ XVI)
Các quan hệ buôn bán mang tính chất hàng hóa được mở rộng  nhu cầu tìm
kiếm thị trường. Đồng thời, các câu chuyện và sản vật được các nhà du hành và thương
nhân mang về từ phương Đông đã kích thích các nước phương Tây. Trong khi đó, ở Tiểu
Á xuất hiện đế quốc Thổ mà các cuộc đánh chiếm rộng lớn đã ngăn chặn con đường thủy

bộ sang phương Đông  Các nước châu Âu tìm con đường mới sang phương Đông bằng
cách đi về phía Tây. Đây là thời kì của các cuộc phát kiến địa lí vĩ đại.
- Christophe Colomb (Cơrixtôp Côlông, 1451 – 1506, người Ý): đã tiến hành 4
hành trình từ Châu Âu (Tây Ban Nha) sang Châu Mĩ đến quần đảo Bahama, Hati,
Giamaica… (1492 – 1502)  biết được những sinh vật của “Tân thế giới”, dân cư, dòng
biển, tín phong…
- Vasco de Gama (Vatxcô đờ Gama, 1469 – 1524, người Bồ Đào Nha): đã tìm
đường sang Ấn Độ bằng cách đi vòng qua Châu Phi, tìm được thị trường rộng lớn ở Nam
Á, Đông Nam Á.
- Magellan (Magienlăng, 1470 – 1521, người Bồ Đào Nha): là người đầu tiên đi
vòng quanh thế giới bằng đường biển. Từ Tây Ban Nha  vòng qua Nam Mĩ ở eo
4
Magellan  Thái Bình Dương  quần đảo Marian (Philippin) và ông mất ở đây  Đoàn
người còn lại tiếp tục vòng quanh châu Phi về lại Tây Ban Nha (1519 – 1522). Lúc này,
con người đã khẳng định sự tồn tại của đại dương nối liền với nhau và phân cách bởi lục
địa, phát hiện ra các vành đai gió trên địa cầu.
Chứng minh được những thành tựu của địa lí cổ đại: Trái đất hình cầu, tính địa đới
của khí hậu do góc tới khác nhau của Mặt trời, quan hệ giữa khí hậu – sinh vật – con
người, sơ bộ hình thành các quy luật địa lí, phát hiện thêm đặc điểm của các đới gió, hiểu
thêm nhiều dân tộc địa phương…
Bản đồ toàn cầu chính xác hơn. Lần đầu đưa America vào bản đồ với vai trò của
Meccato. Năm 1570, tập Atlat đầu tiên được xuất bản, gồm 53 bản đồ in từ các bản khác
bằng đồng, tô màu bằng tay.
2.4. Thời kì tiền TBCN (thế kỉ XVII – thế kỉ XVIII)
Khoa học địa lí tiếp tục phát triển theo hướng phát hiện và khảo sát những vùng đất
chưa được biết đến. Những cuộc thám hiểm tập trung vào việc nghiên cứu các đại dương
(nổi bật vai trò của J. Cook), nghiên cứu nội địa của các châu lục (Humbolt – thám hiểm
Nam Mĩ, Trung Mĩ), nghiên cứu các xứ ở cực (Mĩ, Nga, Anh, Pháp…). Nhưng ấn tượng
nhất là các phát minh công nghệ, sự giải thích và lập luận khoa học, các công trình tổng
kết. Cụ thể:

- Phát minh ra các dụng cụ nghiên cứu, đo lường: phong vũ biểu, hàn thử biểu, kính
viễn vọng, bàn đạc, máy kinh vĩ, phương pháp tam giác đạc  quan sát không gian và vẽ
bản đồ chính xác hơn.
- Các nhân vật nổi tiếng:
James Cook đã mở ra thời kì du hành khoa học, có mục đích và phương pháp rõ ràng.
Ông đã thám hiểm châu Đại Dương.
Varenius với công trình “Địa lí đại cương” công bố năm 1650; xác định rõ đối tượng
của địa lí là lớp vỏ địa lí, gồm lục địa, đại dương, khí quyển, nghiên cứu trong khung
cảnh toàn bộ Trái đất và theo từng khu vực; đề xuất phân chia ra địa lí tự nhiên và địa lí
KT – XH.
Kepler đưa ra lí thuyết về các quy luật chi phối sự vận động của các hành tinh xung
quanh Mặt trời.
I.Newton khám phá ra quy luật hấp dẫn trong vũ trụ.
Kant cho rằng “địa lí là sự mô tả theo không gian” và đưa ra hệ thống cấu tạo vũ trụ.
Lômônôxốp đã nghiên cứu dự án khai thác Bắc cực, dự án nghiên cứu toàn diện các
lực lượng sản xuất tự nhiên của nước Nga và vẽ bản đồ Nga.
5
Humbolt xác định độ cao trung bình các lục địa, quy luật giảm nhiệt độ theo độ cao,
thu thập 6.000 loài cây.
Ở Việt Nam: Lê Quý Đôn (Vân đài loại ngữ, Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục),
Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại ngữ, trong đó có cuốn Dư địa chí).
- Trong ngành bản đồ: Ngành bản đồ Pháp lên ngôi với việc xây dựng bản đồ nước
Pháp của Cassini (1744). Nước Anh thành lập “Cục bản đồ quốc gia” năm 1791.
2.5. Thời kì TBCN (thế kỉ XIX)
- Đặc điểm: Khoa học địa lí có tính chuyên nghiệp, có đào tạo, có tổ chức nghiên cứu
rõ ràng và mang tính quốc tế. Sự phân ngành ngày càng mạnh với 2 bộ môn là khoa học
địa lí tự nhiên và khoa học địa lí kinh tế.
- Nhiều khoa học chuyên ngành mới tách ra từ địa lí: Địa chất, Khí hậu học, Thổ
nhưỡng học, Thực vật học, Động vật học, Thiên văn học, Trắc địa học – bản đồ, Hải
dương học  Thế mạnh thuộc địa lí tự nhiên nên nó được xếp vào Khoa học tự nhiên.

Tuy nhiên, sự phân ngành bộc lộ nhược điểm  xuất hiện xu thế nghiên cứu địa lí tự
nhiên tổng hợp.
Địa lí kinh tế ra đời cuối thế kỉ XIX – được kích thích bởi sự phân công lao động theo
lãnh thổ trong sản xuất hàng hóa TBCN, sự phát triển của Thống kê học và học thuyết về
sự định vị các ngành sản xuất.
- Bản đồ học có những bước tiến: Bản đồ thế giới không còn chỗ trắng; nền kinh tế cơ
giới hóa, mạng lưới đường sắt, đáy đại dương cũng được thể hiện; phương pháp bình độ
thay thế cho nét gạch khi thể hiện độ cao; dùng kí hiệu màu và nền màu để thể hiện các
đối tượng địa lí thay cho bản đồ đen trắng; xuất hiện các atlat chuyên đề. Bản đồ không
chỉ mô tả mà có nội dung khoa học, thể hiện các hiện tượng, các kết quả phân loại và
phân vùng.
- Đại diện: Humbolt đưa ra quy luật địa đới và quy luật đai cao. Rite đã thu thập các
hiện tượng tự nhiên và KT – XH, hệ thống hóa chúng trong các chuyên khảo về địa lí địa
phương ở châu Á, Phi; đặt nền móng cho “Địa lí quyết định luận”.
- Có 3 khuynh hướng nghiên cứu chính:
Nghiên cứu vùng: Các vùng được phân ra dựa vào địa chất, địa hình, khí hậu, thủy
văn, sinh vật, thổ nhưỡng  quy luật phân hóa không gian của lớp vỏ địa lí, có xét đến
đặc điểm riêng của mỗi vùng tạo ra bởi sự kết hợp giữa các hợp phần tự nhiên.
Nghiên cứu quan hệ con người – môi trường địa lí: Môi trường là điều kiện cơ bản,
tiền đề để phát triển KT – XH. Con người là chủ thể, quyết định cách sử dụng môi trường
sao cho có lợi nhất cho mình. Cần giải quyết hài hòa, hợp lí mối quan hệ này theo đúng
quy luật quan hệ giữa con người và môi trường.
6
Nghiên cứu cảnh quan: Địa lí phải xuất phát từ việc nghiên cứu 1 cái gì cụ thể, trông
thấy và cảm nhận được – cảnh quan. Nó được nhào nặn, xây dựng từ sự phối hợp giữa
các lực lượng tự nhiên và các tác động của con người. Cảnh quan trở thành đối tượng
nghiên cứu của địa lí.
 cả 3 khuynh hướng đều bổ sung cho nhau, mỗi khuynh hướng đi sâu vào 1 khía
cạnh của thực tại phân hóa không gian của tự nhiên và xã hội.
2.6. Thời kì hiện đại

* Giai đoạn 1900 – 1950
Khoa học địa lí gần như chững lại, lúng túng trước sự thiếu thống nhất trong cơ sở lí
luận. Các nhà địa lí vẫn chỉ áp dụng các quan điểm, các thành tựu của 30 năm cuối thế kỉ
trước thể hiện trong 3 khuynh hướng chính. Giải pháp tình thế được đưa ra là xây dựng
các trường phái quốc gia, căn cứ vào đặc điểm tự nhiên và nhu cầu riêng trong sự phát
triển KT – XH tại mỗi nước mà tìm hướng đi cho thích hợp.
- Trường phái địa lí Pháp: thống nhất về quan điểm vùng trong mối quan hệ con
người – môi trường và về phương pháp nghiên cứu từ trên xuống – dưới lên, theo cấu
trúc ngang giữa các vùng lớn nhỏ.
- Trường phái địa lí Đức: khuynh hướng cảnh quan, đặc biệt nghiên cứu cảnh quan
văn hóa, coi việc nghiên cứu cảnh quan như là nơi tiếp giáp giữa thạch quyển, sinh quyển
(chú ý lớp phủ thực vật), khí quyển. Nghĩa là quan tâm đến mối quan hệ giữa con người
và môi trường (chú ý đến tác động của chủng tộc) nhưng vẫn thiên về địa lí tự nhiên.
Ngoài ra có các khuynh hướng mới như: Địa lí – chính trị (nghiên cứu, cắt nghĩa các
điều kiện chính trị trên quan điểm và phương pháp địa lí), Địa chính trị (xác định các
chiến lược chính trị căn cứ vào điều kiện địa lí), Địa lí văn hóa (sử dụng ngôn ngữ bản đồ
để phân vùng văn hóa, rồi mô tả và giải thích đặc trưng của các vùng văn hóa trong mối
quan hệ với môi trường tự nhiên và cư dân sinh sống ở đó), Địa lí kinh tế (nghiên cứu sự
phân bố trong không gian của các hiện tượng kinh tế và các vùng địa lí kinh tế lớn nhỏ,
xây dựng lí thuyết định vị cho từng ngành kinh tế, xác định các mô hình không gian của
kinh tế và chiến lược phát triển vùng kinh tế)…
- Trường phái địa lí Nga: Theo khuynh hướng cảnh quan với các đại diện Docussaep,
Vưxôxki, Becgơ, Pôlưnốp… Họ đã phát hiện ra thổ nhưỡng là 1 thành phần địa lí mới
với quan điểm tổng hợp, gọi đới tự nhiên là đới cảnh quan; phát hiện ra cấu trúc ngang
của cảnh quan địa lí với 2 đơn vị cấu tạo cơ bản cấp dưới là dạng và diện địa lí; nghiên
cứu cả Trái đất (hướng đại cương), phát hiện và định nghĩa lớp vỏ địa lí với ranh giới và
những quy luật chung; nêu lên tính thống nhất cũng như phân hóa của bề mặt Trái đất;
đối tượng và nhiệm vụ của địa lí là nghiên cứu lớp vỏ ngoài của Trái đất.
7
Về mặt kinh tế, nổi bật là N.N.Baranxki với việc phân vùng và kế hoạch hóa nền kinh

tế Liên Xô; chú ý địa lí khu vực (địa lí kinh tế quốc gia) và đưa ra 1 kết cấu để đặc trưng
về địa lí kinh tế 1 nước; phân công lao động theo lãnh thổ và tổ chức xã hội theo lãnh thổ.
* Giai đoạn 1950 – 2000
+ Hoàn cảnh kinh tế – xã hội và khoa học - công nghệ
- Chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang giữa phe XHCN và TBCN  chấm dứt khi
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
- Đấu trang vũ trang, bán vũ trang của các nước thuộc địa đã khiến CN đế quốc bị sụp
đổ và sự ra đời hàng trăm quốc gia độc lập mới. Ngoài ra đã hình thành tình trạng chia
cắt 1 số nước làm đôi. Lúc này địa lí chính trị và địa chính trị được quan tâm.
- Từ 1950, KT – XH phát triển. Các nước giàu phát triển bằng mọi giá đã hủy hoại
môi trường nhưng đã thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân cư, dịch vụ phát triển  từ
những năm 1980 là khủng hoảng mà mầm móng là 2 cú sốc dầu mỏ năm 1973 và 1979.
Biểu hiện: Sản xuất chỗ thừa chỗ thiếu, ô nhiễm môi trường trầm trọng, chênh lệch giàu
nghèo ngày càng tăng…
 giải quyết: xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, “hệ thống thế giới” được hình
thành và chi phối nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia là 1 bộ phận của hệ thống thế giới, chịu
sự tác động của hệ thống. Khoa học địa lí tham gia vào sự tăng trưởng kinh tế, bảo vệ
môi trường, đấu tranh cho công bằng xã hội, tổ chức hợp lí các lãnh thổ sản xuất, các đô
thị nhằm phát triển kinh tế bền vững và đồng đều giữa các vùng.
- Các ngành KHXH phát triển  KH địa lí vận dụng các thành tựu đó vào phân tích
các thành phần cấu trúc tự nhiên trong tổng hợp thể không gian hoàn chỉnh TN – KT –
XH – NV.
+ Sự hiện đại hóa Khoa học địa lí
- Xu thế xếp KH địa lí vào KH XH thắng thế.
- Đối tượng nghiên cứu là tổng hợp thể không gian mà các sự vật, hiện tượng tồn tại
trong đó. Nhiệm vụ là định vị (xác định vị trí và vị thế của sự vật, hiện tượng), đánh giá
các tổng hợp thể không gian như các điểm, đường, vùng, trường, mạng lưới và đưa ra các
mô hình để tổ chức không gian lãnh thổ sao cho hoạt động KT – XH diễn ra đạt hiệu quả
tốt nhất. Phương pháp nghiên cứu là hệ thống phân vị (quan hệ của đối tượng với các
vùng, đơn vị cấp lớn hay nhỏ hơn) hay nghiên cứu theo nhiều tỉ lệ.

- Khi nghiên cứu chiều không gian theo quan điểm địa lí thống nhất tự nhiên – kinh tế
– xã hội – nhân văn, thì xuất phát điểm là xem không gian trên Trái đất là không gian của
con người, do con người tạo ra, sản xuất ra, vì lợi ích của con người. Đặt con người vào
trung tâm của tổng hợp thể không gian địa lí thống nhất, hoàn chỉnh là đặt con người vào
8
vị trí làm chủ môi trường tự nhiên, sử dụng môi trường tự nhiên và khai thác nó tùy vào
mục đích và khả năng của mình nhưng đồng thời con người phải chăm sóc, bảo vệ môi
trường tự nhiên, cho mình và các thế hệ sau.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống. Khi tiếp cận hệ thống 1 tổng hợp thế lãnh thổ thống
nhất, hoàn chỉnh  phải coi nó là 1 hệ thống TN – KT – XH – NV với đầy đủ các tính
chất của 1 hệ thống động lực hở như tính thống nhất, tính có cấu trúc, có tổ chức, tính
tương tác giữa các thành phần và giữa các bộ phận, thông qua dòng trao đổi vật chất,
năng lượng, thông tin trong phạm vi ranh giới của hệ thống, tính tương tác giữa hệ thống
với môi trường bên ngoài. Các hợp phần và tương tác giữa chúng thường được gọi là cấu
trúc thẳng đứng còn các bộ phận và tương tác giữa chúng thường được gọi là cấu trúc
ngang. Với địa lí, việc nghiên cứu cấu trúc ngang là quan trọng nhất vì đó là cấu trúc
không gian đặc thù; cấu trúc thẳng đứng phải nằm trong và thuộc về 1 đơn vị cấu trúc
ngang lớn nhỏ nào đó, không có cấu trúc không gian, cấu trúc thẳng đứng không có chỗ
bám.
Quan hệ giữa hệ thống với môi trường được thực hiện qua dòng từ môi trường vào hệ
thống và dòng đi từ hệ thống ra môi trường. Quá trình này diễn ra liên tục, tác động đến
cấu trúc và chức năng của hệ thống. Muốn tồn tại lâu dài, hệ thống phải có biện pháp
kiểm soát được quá trình vào ra để thích nghi với những biến đổi của quá trình.
- Hệ thông tin địa lí (GIS-Geographic Information System) – công cụ đắc lực cho việc
phân tích hệ thống không gian, nhất là cho phép phân tích cấu trúc ngang với các đặc tính
không gian và quan hệ không gian.
Xây dựng GIS phải trả qua các giai đoạn: Xác định mục đích; xây dựng cơ sở dữ liệu;
thực hiện các phân tích địa lí; trình bày kết quả.
- Nhiệm vụ quy hoạch tổ chức không gian lãnh thổ 1 cách toàn diện, đồng bộ và tổng
thể là chức năng khoa học và xã hội của địa lí. Còn chiều thời gian là của khoa học lịch

sử và các công việc chi tiết là của các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội khác, nhưng
tất cả có thể và cần phải hợp tác liên ngành.
Tóm lại: Sự tiến bộ nhanh chóng của máy móc  Địa lí học có sự phát triển mạnh,
giải quyết được 1 trong những vấn đề lớn nhất của thời đại là vấn đề quan hệ giữa con
người và môi trường sống. Địa lí trở thành 1 ngành KH động với xu hướng dự báo, thực
nghiệm và cải tạo.
3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC ĐỊA LÍ
Đối tượng nghiên cứu của địa lí là chiều không gian (dimension spatiale) của các hiện
tượng và sự vật, là tổng hợp thể không gian mà các hiện tượng và sự vật tồn tại trong đó.
9
Nghiên cứu chiều không gian theo quan điểm địa lí thống nhất TN – KT – XH – NV thì
xuất phát là đặt con người vào trung tâm của tổng hợp thể không gian địa lí thống nhất.
Các phân hệ của hệ thống không gian địa lí hoàn chỉnh:
- Phân hệ tự nhiên:
Điểm xuất phát là phân hệ tự nhiên vì đó là giá đỡ, là cơ sở vật chất và năng lượng
của mọi hoạt động KT – XH.
- Phân hệ kinh tế
- Phân hệ xã hội
- Phân hệ nhân văn
Theo định nghĩa về khoa học địa lí thì thể tổng hợp tự nhiên và thể tổng hợp sản xuất
theo lãnh thổ được coi là đối tượng nghiên cứu của địa lí tự nhiên và địa lí KT – XH. Nếu
mục đích của địa lí học là một thì địa lí tự nhiên và địa lí KT – XH khác nhau rõ về đối
tượng và phương pháp nghiên cứu.
* Địa lí tự nhiên
+ Đối tượng nghiên cứu: là tự nhiên bề mặt trái đất, xem như hệ thống hoàn chỉnh
không thể chia cắt được, hình thành từ các bộ phận cấp thấp nhất (tướng địa lí)  thể
tổng hợp ĐLTN (5 quyển)  cấp cao nhất là lớp vỏ địa lí.
Lớp vỏ địa lí là bề mặt không gian 3 chiều của Trái đất, tồn tại các thể tổng hợp trên.
Bề dày của lớp vỏ địa lí – nơi mà con người có thể vừa tiến hành nghiên cứu vừa chung
sống chưa đến 40 km (phần trên 25 – 30 km, phần dưới khoảng 11 km), nghĩa là chỉ

nghiên cứu các bộ phận phức tạp nhất của Trái đất.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiếp tục mô tả, thu thập, đi sâu nghiên cứu chi tiết tự nhiên bề mặt trái đất nói chung
và từng vùng lãnh thổ nói riêng.
Phân tích sự phân dị của các thành tố tự nhiên; các mối quan hệ và tác động qua lại
giữa các hiện tượng, các thành tố cấu tạo nên lớp vỏ địa lí; tác động qua lại giữa tự nhiên
với xã hội loài người và ngược lại.
Hệ thống, phân tích, xử lý các tư liệu địa lí thu thập được trên toàn cầu  xác định
bản chất hiện tượng, mối liên hệ giữa các hiện tượng, các thành tố  xây dựng các mô
hình địa lí trên cơ sở toán học v.v…  rút ra các quy luật địa lí.
Đẩy mạnh nghiên cứu địa lí địa phương, xây dựng các bản đồ chuyên ngành, bản đồ
cảnh quan, phân vùng cảnh quan, tiến tới cải tạo toàn diện hay từng mặt các điều kiện tự
nhiên góp phần xây dựng phát triển KT - XH địa phương và vùng.
10
Trên cơ sở nghiên cứu địa lí tự nhiên tổng hợp hay từng bộ phận, cần mở rộng nghiên
cứu cổ địa lí và phát triển dự báo ngắn hoặc dài hạn.
Đẩy mạnh địa lí ứng dụng, địa lí cải tạo, sử dụng hợp lí, tái sản xuất tài nguyên tự
nhiên để giúp cho ngành khoa học địa lí mang ý nghĩa thực tiễn và trở thành lực lượng
sản xuất trong xã hội.
Tăng cường nghiên cứu, bảo vệ môi trường địa lí – môi trường sống của xã hội loài
người, đảm bảo việc phát triển bền vững của toàn cầu và từng quốc gia.
Tận dụng, khai thác HTTĐL; thực hành nối mạng thông tin toàn cầu (Internet) để làm
giàu nhanh chóng, cập nhật kịp thời các tri thức địa lí, để có đủ khả năng xử lý, phân tích
khối tư liệu thực tế khổng lồ; cập nhật bản đồ trên tất cả các lĩnh vực tự nhiên, KT – XH;
năng động hóa trong giảng dạy ở các trường PTTH, nhất là Đại học  nhằm quy hoạch,
quản lý không gian lãnh thổ trong mọi ngành kinh tế, sản xuất tối ưu, quản lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường.
* Địa lí KT – XH
+ Đối tượng nghiên cứu
Theo định nghĩa các hội địa lí toàn Liên Xô (1995) thì Địa lí KT – XH là khoa học xã

hội thuộc hệ thống các khoa học địa lí, nghiên cứu sự phân bố địa lí của sản xuất, các hệ
thống sản xuất, các quan hệ sản xuất, các điều kiện và đặc điểm của sự phát triển sản xuất
ở những nước và khu vực khác nhau.
Theo Z.E.Dzenis (bản dịch Lê Thông, NXBGD,1984), đối tượng nghiên cứu chủ yếu
của địa lí KT – XH là các địa hệ KT – XH, mà một trong các bộ phận cơ bản của nó là hệ
thống kinh tế. Địa hệ này là tập hợp của 5 nhóm yếu tố chính (các nguồn tài nguyên tự
nhiên, các nguồn thiết bị vật chất, thiết bị sản xuất, phân vùng kinh tế, kinh tế chính trị)
và các ngành địa lí KT – XH bộ phận (địa lí công nghiệp, địa lí nông nghiệp, địa lí dịch
vụ, địa lí dân cư, địa lí đô thị, địa lí tài nguyên, địa lí chính trị, địa lí y tế…).
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu phân bố sản xuất, các điều kiện và đặc điểm phát triển KT – XH trên toàn
thế giới hay từng khu vực, từng quốc gia, hoặc từng thể tổng hợp sản xuất.
Nghiên cứu các cấu trúc, chức năng, sự phát triển của các địa hệ KT – XH với nhiều
hình thái và quy mô khác nhau.
Nghiên cứu các quá trình hình thành, phát triển, hoạt động của các hệ KT – XH và
việc quản lý chúng.
11
Kiến thiết và dự báo sự phát triển KT - XH trên toàn cầu hoặc các lãnh thổ, các khu
vực khác nhau, thể hiện trong việc xây dựng mô hình, cấu trúc các thể tổng hợp KT –XH
hiện tại và tương lai.
Chọn lọc và xây dựng các địa hệ KT – XH tối ưu để áp dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Coi trọng việc nghiên cứu địa lí dân cư – động lực phát triển KT – XH của từng quốc
gia, khu vực. Đẩy mạnh phát triển nghiên cứu địa lí du lịch để biến chúng thành ngành
công nghiệp không khói.
Nghiên cứu các mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại giữa các ngành với nhau, đặc
biệt là mối quan hệ giữa dân số - môi trường và sự phát triển KT – XH bền vững.
Tận dụng khai thác tối đa mạng thông tin toàn cầu, hệ thống thông tin địa lí làm
phong phú tri thức KT – XH, phục vụ tốt cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập ở Đại
học cũng như ở phổ thông.
* Bản đồ học: là khoa học nghiên cứu và phản ánh sự phân bố không gian của các

hiện tượng tự nhiên, KT - XH; mối quan hệ của các hiện tượng đó. Nó được biểu thị bằng
các mô hình, kí hiệu tượng trưng đặc biệt – đó là sự biểu thị bản đồ.
Bản đồ là phương pháp và phương tiện học tập, nghiên cứu có hiệu quả nhất. Vì vậy,
bản đồ được xem là ngôn ngữ thứ 2 của khoa học địa lí, là α và ﻻ của khoa học địa lí.
12

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×