Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khi nào khẳng định mắc bệnh đái tháo đường? pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.4 KB, 6 trang )

Khi nào khẳng định mắc bệnh
đái tháo đường?
Để biết một người bị đái tháo đường hay không, không nhất thiết
cần tiêu chuẩn có đường trong nước tiểu. Người nghi ngờ có bệnh buộc
phải làm xét nghiệm đường máu hoặc làm nghiệm pháp tăng đường
máu
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một hội chứng có đặc tính biểu hiện bằng
tǎng đường máu, do hậu quả của việc mất hoàn toàn insulin hoặc do có sự
suy yếu trong bài tiết và hoạt động của insulin. Trên thực tế, khi người bệnh
có đường trong nước tiểu cũng là lúc bệnh đã ở giai đoạn muộn, nhiều khi
đã có biến chứng, nhất là đối với những người mắc bệnh ĐTĐ typ 2.
1. Tiêu chí chẩn đoán bệnh ĐTĐ
Tổ chức Y tế Thế giới quy định 3 tiêu chí để chẩn đoán bệnh ĐTĐ
như sau:
- Đường huyết tương lúc đói (tối thiểu là 8 giờ sau khi ǎn) >7mmol/L
(> 126mg/dl).
- Đường huyết tương giờ thứ hai sau nghiệm pháp tǎng đường máu >
11,1mmol/L (>200mg/dl).
- Đường huyết tương ở thời điểm bất kỳ >11,1 mmol/L (>200mg/dl),
nhưng kèm theo các triệu chứng uống nhiều, đái nhiều và gầy sút.
Như vậy để biết mình có bị ĐTĐ hay không, nhất thiết phải đến các
cơ sở y tế để các thầy thuốc (nhất là các bác sĩ chuyên khoa) thǎm khám, đặc
biệt phải làm xét nghiệm đường máu mới có thể kết luận chính xác được.
2. Biến chứng
Biến chứng của bệnh ĐTĐ là không thể tránh khỏi và được chia thành
2 loại:
- Biến chứng cấp tính: Hạ đường huyết, nhiễm toan xêtôn và hôn mê
nhiễm toan xêtôn, hôn mê do tǎng đường máu hay hôn mê tǎng áp lực thẩm
thấu, hôn mê nhiễm toan lactic Những biến chứng này xảy ra đột ngột,
diễn biến nhanh, triệu chứng lâm sàng đa dạng và phong phú. Những biến
chứng này đe dọa đến mạng sống của người bệnh nếu không được cấp cứu


kịp thời.
- Biến chứng mạn tính: Tổn thương các mạch máu lớn, gây bệnh tim -
mạch, hoại tử chi; tổn thương mạch máu nhỏ gây mù lòa, bệnh lý cầu thận,
hủy hoại các dây thần kinh; giảm khả nǎng chống lại các bệnh nhiễm
trùng ). Đây là những biến chứng xảy ra liên tục và kín đáo nên không dễ
nhận ra, thường khi phát hiện được thì chúng đã ở giai đoạn muộn.
Tuy không thể tránh được các biến chứng, nhưng thầy thuốc chuyên
khoa vẫn có thể làm chậm sự tiến triển và mức độ trầm trọng của bệnh bằng
cách quản lý tốt bệnh nhân. Ngoài ra cũng cần lưu ý, biến chứng xuất hiện
sớm hay muộn còn phụ thuộc vào typ ĐTĐ. Ví dụ biến chứng mạch máu
nhỏ, thường xảy ra ở bệnh nhân ĐTĐ typ 1 sau 5 nǎm mắc bệnh, nhưng lại
có ngay từ khi bệnh mới được chẩn đoán ở người ĐTĐ typ 2.
3. Lưu ý
- ĐTĐ có thể là một bệnh, nhưng cũng có thể là một triệu chứng của
một bệnh nội tiết khác. Trong trường hợp là triệu chứng của một bệnh
(chẳng hạn một trong những triệu chứng của bệnh nhiễm độc giáp hay hội
chứng Cushing là tǎng đường máu) thì khi chữa khỏi bệnh đó, triệu chứng
ĐTĐ cũng sẽ khỏi hẳn.
- Thứ hai, ĐTĐ có nguyên nhân là thiếu insulin, nhưng cũng có thể do
nguyên nhân khác như khả nǎng hoạt động của insulin bị suy giảm, hay tình
trạng bệnh lý tại thụ thể (nơi tiếp nhận glucose được insulin hoạt hóa), hoặc
bệnh lý bên trong tế bào, hoặc do sự kháng lại insulin ở mô đích Trong
những trường hợp này, lượng insulin lại không thiếu, vì thế cách điều trị
bệnh sẽ không giống nhau. Hay nói cách khác, người ta phân biệt có hai loại
ĐTĐ: ĐTĐ typ 1 và ĐTĐ typ 2.
Trong ĐTĐ typ 1 (còn gọi là ĐTĐ phụ thuộc insulin), do hậu quả của
quá trình tự miễn dịch mạn tính, các tế bào bêta (tế bào tiết ra insulin) của
đảo tụy Langerhans bị hủy hoại, dẫn đến tình trạng thiếu hoặc không còn
insulin trong máu. Do vậy khi điều trị ĐTĐ typ 1 buộc phải dùng insulin hay
có nghĩa là cần phải đưa vào cơ thể một lượng insulin ngoại lai để duy trì

chuyển hóa bình thường của cơ thể.
Ngược lại, bệnh nhân ĐTĐ typ 2 thường không phụ thuộc vào việc
tiêm insulin. Tuy nhiên, sau một thời gian nhiều người trong số họ có biểu
hiện giảm sản xuất insulin và đòi hỏi có insulin bổ sung, đặc biệt khi bị cǎng
thẳng (stress) hoặc ốm đau. Các nghiên cứu cho thấy ở bệnh nhân ĐTĐ typ
2, mỗi nǎm tuyến tụy mất đi 4 % các tế bào sản xuất insulin.
4. Ai dễ bị ĐTĐ?
Ngày nay, người ta biết ĐTĐ typ 2 có thể phòng ngừa được. Nhiều
nghiên cứu cho thấy nếu bệnh được phát hiện từ khi còn là yếu tố nguy cơ
thì có thể sử dụng chế độ ǎn, chế độ luyện tập để làm giảm một cách đáng kể
tỷ lệ người mắc bệnh.
Các yếu tố nguy cơ đó là:
- Thừa cân hoặc béo phì (chỉ số trọng lượng cơ thể BMI >23).
- Tǎng huyết áp vô cǎn.
- Trong gia đình có người mắc bệnh ĐTĐ ở thế hệ F1.
- Tiền sử có ĐTĐ thai nghén hoặc khi sinh, con có cân nặng trên 4kg.
- Các đối tượng có nguy cơ cao: Người từ 45 tuổi trở lên, người được
chẩn đoán là có rối loạn đường máu lúc đói hay rối loạn dung nạp glucose,
người được chẩn đoán có rối loạn chuyển hóa lipit, đặc biệt khi có HDL -
cholesterol thấp (<0,9 mmol/L và tryglicerid máu cao (từ2,2 mmol/L trở
lên), người gốc châu Á, Phi đến sống ở nước công nghiệp phát triển, hoặc
dân cư ở các nước đang có sự thay đổi nhanh chóng về lối sống như ít hoạt
động thể lực, ǎn thừa calori

×