Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Nhóm nhiệm vụ về kinh tế và đối ngoại.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.55 KB, 33 trang )


MỤC LỤC

PHẦN I - MỞ ĐẦU
PHẦN II – MÔ TẢ VÀ BÌNH LUẬN
I - Mô tả vấn đề
1. Mục tiêu tổng quát
2. Nhiệm vụ chủ yếu
3. Các chỉ tiêu chủ yếu
II - Bình luận
A. Phần hình thức
B. Phần nội dung
1. Mục tiêu tổng quát
2. Các nhiệm vụ chủ yếu
3. Các chỉ tiêu chủ yếu
PHẦN III - ĐỀ XUẤT
I. Phần hình thức
1. Nhiệm vụ chủ yếu
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
II. Phần nội dung
1. Nhiệm vụ chủ yếu
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
PHẦN IV – KẾT LUẬN
Trang
1
3
3
4
5
6
6


8
8
10
13
24
24
24
25
26
26
26
27
30
PHẦN I : MỞ ĐẦU
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong hệ
thống quản lý của các quốc gia trên thế giới. Nó tồn tại ở các tổ chức, cơ quan
mang tên gọi khác nhau nhưng cùng thực hiện một nhiệm vụ là định hướng mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội trong một khoảng thời gian nhất định. Nội dung của
kế hoạch hóa ngày càng đầy đủ hơn, nếu như trước đây chỉ là các nội dung về lĩnh
vực kinh tế thì ngày nay nó đã bao hàm cả các nội dung về xã hội và môi trường,
đặc biệt nhấn mạnh các vấn đề phân phối và công bằng xã hội.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, sự cần thiết của kế hoạch hóa phát triển
trong quá trình phát triển kinh tế. Ngay ở các nước phát triển với nền kinh tế thị
trường thuần túy,việc sử dụng hệ thống kế hoạch hóa cũng trở thành một công cụ
đắc lực và thường xuyên. Nó giúp cho việc quyết đinh sản xuất cái gì, bao nhiêu,
ở đâu và theo phương thức nào được cụ thể và rõ ràng hơn. Nhờ đó nền kinh tế có
một tầm nhìn và phát triển đúng hướng. Bài học từ các nước đi đầu trong định
hướng chuyển đổi kế hoạch hóa tập trung sang kế hoạch hóa phát triển để phù hợp
với những quy luật của thị trường,đã ngày càng thể hiện được tầm quan trọng của
việc sử dụng công cụ kế hoạch hóa trong hệ thống quản lý nền kinh tế.Xuất phát

từ chính thất bại của nền kinh tế thị trường.Khi mà nguồn lực phân bổ không
được hiệu quả, kéo theo đó là nhu cầu xã hội không được đáp ứng tối ưu,tình
trạng mất công bằng xã hội, nền kinh tế vĩ mô xuất hiện những dấu hiệu bất ổn….
Đó là lý do cần có sự can thiệp của chính phủ,bằng hệ thống kế hoạch hóa với
những công cụ định hướng vĩ mô từ cấp chính sách cho đến cấp thực hiện sẽ điều
tiết thị trường, là cầu nối giũa ý đồ của chính phủ với nhu cầu thị trường. Khắc
phục những hạn chế và đảm bảo nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn.
Vấn đề thứ 2 cho thấy sự cần thiết của kế hoach phát triển kinh tế xuất phát
từ chính đặc điểm và vai trò của nó.
1
+ Khai thác được nguồn lực, định hướng giải phóng lực lượng sản xuất, sử
dụng nguồn lực đúng đối tượng với mọi thành phần kinh tế.
+ Với một cơ chế can thiệp gián tiếp vào nền kinh tế sẽ đưa nền kinh tế
chuyển dịch đúng hướng và phù hợp với tính mở của nền kinh tế thị trường.
+ Kế hoạch coi trọng tính mở của thị trường, chú trọng đến mối quan hệ
liên ngành, liên vùng, kể cả quan hệ quốc tế. Chức năng này sẽ tạo sự phát triển
toàn dện cho toàn bộ nền kinh tế.
Với những đặc trưng trên công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế là kế hoạch
hóa sẽ thể hiện rõ những cố gắng của chính phủ để đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh mà vẫn bền vững.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội có thể được cụ thể hóa trong các kế
hoạch hàng năm, kế hoạch 5 năm. Ở Việt Nam hiện nay thường chọn thời gian 5
năm để lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đó chính là thời gian của một nhiệm
kì lãnh đạo về chính trị, đó là một quãng thời gian đủ dài để đánh giá hiệu quả của
các chương trình dự án, các chính sách. Kế hoạch 5 năm là một bộ phận trung
tâm, đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển với tư
cách là công cụ điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Nội dung của một bản kế hoạch 5 năm gồm 5 phần:
+ Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ trước.
+ Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 5

năm.
+ Các cân đối vĩ mô trung hạn.
+ Các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm.
+ Các giải pháp, biện pháp thực hiện trong 5 năm.
Việc xác định được phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội là một nội dung giữ vai trò chủ chốt. Đó chính là sự khái quát và cụ thể hóa
cái đích mà một bản kế hoạch mong muốn hướng tới. Đồng thời nó là cơ sở cho
các nội dung tiếp sau của bản kế hoạch như các chương trình phát triển kinh tế xã
hội.
2
Việc nghiên cứu nội dung này giúp cho quá trình thực hiện được thống nhất
giữa hệ thống các biện pháp. Đồng thời, với các mục tiêu, chỉ tiêu ở tầm vĩ mô và
tổng quát sẽ là cơ sở cho việc quản lý thống nhất.
PHẦN II : MÔ TẢ VÀ BÌNH LUẬN
I - MÔ TẢ VẤN ĐỀ
1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát là những tuyên bố khái quát nhất về những thay đổi
trong kinh tế và cuộc sống người dân, là cái đích tổng quát mà bản kế hoạch mong
muốn có được khi kết thúc 5 năm kế hoạch.
Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010
là nước ta có những thay đổi về mặt kinh tế cũng như đời sống xã hội để có thể
thoát khỏi “tình trạng kém phát triển”. Sự thay đổi đó phải đi theo định hướng của
sự phát triển bền vững tức là về kinh tế thì cần “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng”
nhưng phải đi kèm tính hiệu quả được nâng cao; về mặt xã hội cần “cải thiện rõ
rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân”.
Mục tiêu được xác định như một chiến lược theo thời gian “Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Đó
là sự khái quát các nhiệm vụ và hình thức tiến hành để hướng tới mục tiêu chiến
lược xa hơn là năm 2020. Đây là một mục tiêu mang tính định hướng và định tính

cao.
Bên cạnh mục tiêu tổng quát về kinh tế, bản kế hoạch cũng đề cập đến các
vấn đề “giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”. Đây là những vấn đề thuộc
lĩnh vực chính trị- xã hội mà bất cứ nước nào cũng cần đề cập đến trong bản kế
koạch. Mục tiêu như vậy để tạo một môi trường tốt, ổn định cho mọi sự phát triển
của đất nước trong giai đoạn tới.
3
Vấn đề cuối cùng trong mục tiêu tổng quát của bản kế hoạch đó là lĩnh vực
quan hệ quốc tế, đối ngoại, mục tiêu mà các nhà lãnh đạo muốn hướng tới là
“nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế” thông qua
các hoạt động “củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại”.
2. Nhiệm vụ chủ yếu
Với những mục tiêu được đề cập một cách tổng quát như vậy các nhà lãnh
đạo và các nhà kế hoạch đã cụ thể hóa thành các nhiệm vụ chủ yếu để hướng tới
cái đích, cái mục tiêu cần đạt tới. Tất cả mọi lĩnh vực được tóm lược trong 8
nhiệm vụ chủ yếu và có thể chia thành 3 nhóm lĩnh vực như sau:
* Nhóm nhiệm vụ về kinh tế và đối ngoại:
- Nhiệm vụ thứ nhất “Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng két cấu hạ
tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng
tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của một nước đang
phát triển có thu nhập thấp”.
- Nhiệm cụ thứ hai “Chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, thực hiện các
nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường và
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm
nước ta”.
- Nhiệm vụ thứ ba “Chủ động và tích cực hội nhậo kinh tế quốc tế, mở rộng
kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế”.
* Nhóm nhiệm vụ về xã hội và con người:

- Nhiệm vụ thứ tư “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hó,
hiện đaị hóa và phát triển kinh tế tri thức”.
- Nhiệm vụ thứ năm “Tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hóa
đạo đức và lối sống, kiềm chế tốc độ tăng dân số, nâng cao thể chất và sức khỏe
nhân dân, bảo vệ và cải thiện môi trường”
4
- Nhiệm vụ thứ sáu “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bình đẳng giới
và giải quyết việc làm, khuyến khích làm giàu hợp pháp, xóa đói, giảm nghèo,
phát triển hệ thống an sinh xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã hội”.
* Nhóm nhiệm vụ về trật tự, an ninh quốc phòng:
- Nhiệm vụ thứ bẩy “Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân
chủ, nâng cao hiệu lực Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo bước chuyển
biến rõ rệt về cải cách hành chính, ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu tham nhũng,
lãng phí”.
- Nhiệm vụ thứ tám “Tăng cường quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị -
xã hội mở rộng quan hệ đói ngoại, giữu vững môi trường hòa bình và ổn định, tạo
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
3. Các chỉ tiêu chủ yếu
* Về kinh tế
Các chỉ tiêu về kinh tế đặt ra nhiệm vụ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và những cân đối nguồn lực chủ yếu.
- Chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tốc độ tăng trưởng GDP bình quân.
Quy mô GDP và GDP bình quân đầu người.
Giá trị tăng thêm của 3 khu vực nông-lâm-thủy sản, công nghiệp-xây
dựng, dịch vụ.
Kim ngạch xuất nhập khẩu.
- Chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP.

- Chỉ tiêu về cân đối nguồn lực
Tổng đầu tư xã hội, bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và nước ngoài.
* Về xã hội
5
Các chỉ tiêu xã hội đưa ra các mục tiêu giải quyết các vấn đề về xóa đói
giảm nghèo, công bằng xã hội, phát triển y tế, giáo dục, lao động- việc làm và các
mục tiêu xã hội khác.
- Chỉ tiêu về giáo dục- đào tạo
- Chỉ tiêu về dân số, lao động- việc làm và xóa đói giảm nghèo:
Quy mô và tốc độ tăng dân số.
Việc làm và giải quyết việc làm.
Đào tạo nâng cao chất lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp.
Tỷ lệ hộ nghèo.
- Chỉ tiêu về y tế:
Tuổi thọ bình quân.
Sức khỏe trẻ em và phụ nữ.
- Chỉ tiêu khác
* Về môi trường
Các chỉ tiêu đưa ra mục tiêu nâng cao chất lượng môi trường sống và đảm
bảo phát triển bền vững.
II - BÌNH LUẬN
A. Về hình thức
Đây là một bản kế hoạch phát triển 5 năm truyền thống.Các chỉ tiêu kế
hoạch được tính cho cả kỳ cố định 2006-2010, các chỉ tiêu xây dựng bằng việc
tính bình quân cả kỳ hoặc đưa mục tiêu cụ thể cho năm cuối,theo đó các nhiệm vụ
đặt ra là cho cả thời kỳ. Do đó công tác quản lý, theo dõi, đánh giá cũng cho cả kỳ
kế hoạch
Điểm dễ nhận thấy trong hệ thống các mục tiêu của bản kế hoạch là số
lượng mục tiêu đã giảm đáng kể.Các các chỉ tiêu tuyệt đối cũng hạn chế tối

6
thiểu,hầu hết là các chỉ tiêu mang tính tương đối,định hướng được cho quá trình
phát triển những năm tiếp theo.
Điểm mới nữa trong hệ thống các mục tiêu của bản kế hoạch này là mặc dù
giảm bớt số lượng các chỉ tiêu nhưng lại mở rộng pham vi,lĩnh vực cho các chỉ
tiêu cần có đó là đưa vào các chỉ tiêu về môi trường.Mục tiêu này nhằm hướng
đến đảm bảo tính chất bền vững cho mục tiêu phát triển kinh tế trong dài hạn.
 Ưu điểm:
Với phương pháp này các chỉ tiêu sẽ dễ xây dựng, quản lý và đánh giá.Lần
lượt các chỉ tiêu kinh tế-xã hội-môi trường sẽ định hướng một cách khái quát nhất
các khía cạnh của một nền kinh tế cần có trong bước phát triển của kì kế hoạch
.Từ đó hướng đến mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế và “tầm nhìn” đến
năm 2020
 Nhược điểm :
Các nhiệm vụ chủ yếu đưa ra chưa thâu tóm được vấn đề mấu chôt nhất,vấn
đề thật sự là mắt xích tạo ra kết quả tối ưu cho cả kì kế hoạch.Nhiệm vụ vẫn dàn
trải,không phân tách được các lĩnh vực rõ ràng ,chưa làm nổi bật lên nhiệm vụ của
riêng kì kế hoạch để hoàn thiện nốt giai đoạn chiến lược phát triển kinh tế 2001-
2010.
Các chỉ tiêu kinh tế đăt trước các chỉ tiêu xã hội là một hình thức chưa tạo
ra một hệ thống các mục tiêu có hiệu quả tối ưu .Như vậy sẽ khó đảm bảo được
tính thiết thực và tính khả thi của các chỉ tiêu đề ra .Các chỉ tiêu này phần lớn chỉ
dựa trên xu hướng phát triển của kì kế hoạch trước,những dự báo đã được dự kiến
ở kì kế hoạch trước để đưa ra các chỉ tiêu trong kì kế hoạch tới .Trên thực tế có
thể sẽ chỉ sát thực trong những năm đầu của kì kế hoạch mới nhưng thị trường thì
luôn biến động sẽ tạo ra những thay đổi tương ứng mà không được dự tính .Do đó
các chỉ số đặt ra không phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn là điều khó tránh khỏi.Cụ
7
thể trong bản kế hoạch 2006-2010 :là giai đoạn được coi là có rất nhiều những cơ
hội cho kinh tế nước ta tăng trưởng do dự tính đến năm 2006 Việt Nam sẽ chính

thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là cơ sở cho việc đặt ra các
chỉ tiêu tăng trưởng cao trong giai đoạn này. Tuy nhiên những thách thức đặt ra
cung không nhỏ,những rủi ro không dự tính cũng không phải la ít. Đây là một hạn
chế cho việc hoạch định các chỉ tiêu ,các chính sách thay đổi theo với những biến
động của thị trường .
Chỉ tiêu về môi trường là một lĩnh vực mới trong trong hệ thống các chỉ
tiêu của bản kế hoạch 2006-2010 .Do vậy vẫn chưa thể hiện đầy đủ các khía cạnh
về môi trường .Hầu hết các chỉ tiêu mang tính định hướng theo quan điểm của các
nhà chính sách .Các chỉ tiêu khá tham vọng chưa gắn liền với thực tế .Mặt khác
khi đề cập đến các chỉ tiêu về môi trường không nên chỉ dừng lại ở việc phản ánh
các chỉ tiêu “phấn đấu” đạt đến các đầu ra cho một hệ thống cải thiện môi
trường .Mà cần có các chỉ tiêu phản ánh kết quả,hay cụ thể hơn chỉ tiêu phải phản
ánh được chất lượng môi trường, phải nêu được định hướng quản lý theo kết quả.
Tránh tình trạng chỉ đảm bảo được số lượng mà không đảm bảo được chất lượng
Các chỉ tiêu giữa các lĩnh vực về kinh tế -xã hội –môi trường bản chất có
những yếu tố liên hệ mật thiết với nhau nhưng việc đưa ra các chỉ tiêu chưa thực
sự thể hiện quan hệ đó VD :mục tiêu giảm mạnh tỷ trọng nông nghiệp trong khi
số lượng lao động trong ngành nông nghiệp vẫn ở mục tiêu 50% tổng lao động.
Nếu xét về cả quá trình phân tích thì các kết quả đạt được sẽ có sự chênh lệch
nhau nếu như hướng đến mục tiêu để hoàn thành .
B. Về nội dung
1. Mục tiêu tổng quát
Nằm trong chiến lược phát triển kinh tế 2001-2010, kế hoạch phát triển
kinh tế 5 năm 2001-2005 và kế hoạch 5 năm 2006-2010 là sự cụ thể hóa trong lộ
trình phát triển dài hạn của đất nước. Tất cả các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong
8
2 thời kì này đều phải hướng đến mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển
kinh tế 2001-2010.
Kế hoạch 5 năm 2006-2010 là kế hoạch hoàn thiện không những cho chiến
lược 2001-2010, mà còn tạo những bước căn bản cho “tầm nhìn” đến năm 2020

với những nét đại cương nhất: Xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đời sống vật chất và tinh thần
được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh. Đến năm 2020, Việt Nam sẽ đứng vào danh sách các quốc gia
công nghiệp mới với khu vực công nghiệp chiếm 50% tổng sản phẩm quốc nội, sẽ
không còn một người nghèo trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy vậy, trình độ phát triển
kinh tế nước ta còn thấp và chưa bền vững. Chất lượng phát triển và sức cạnh
tranh còn kém. Quy mô sản xuất mới ở bước đầu của quá trình mở rộng. Các cân
đối vĩ mô chưa thật vững chắc, mức thu nhập tiêu dùng còn chưa cao. Còn nhiều
các vấn đề kinh tế xã hội bức xúc chưa được giải quyết … Theo đó mục tiêu tổng
quát của kế hoạch 5 năm lần II 2006-2010 trong lộ trình chiến lược2001-2010 đăt
ra:
“Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững
của sự phat triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ
rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp
hóa- hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn
định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối
ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”.
Mục tiêu trên đã định hướng được nhiệm vụ tổng quát cho giai đoạn phát
triển tiếp của kỳ kế hoạch. Đã hướng đến sự hoàn thiện cho mục tiêu tổng quát
của chiến lược. Đây là sự khác biệt khá rõ đối với kế hoạch mệnh lệnh trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung - đó là một loạt các mục tiêu hiện vật , cụ thể thể
9
hiện quá trình phát triển kinh tế theo mong muốn, và Chính phủ thì cố gắng thể
hiên sự can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Mục tiêu tổng quát trong bản kế hoạch
2006-2010 Chính phủ chỉ có vai trò định hướng cho nền kinh tế, gián tiếp hoàn
thiện mục tiêu phát triển dài hạn. Tạo ra một tầm nhìn và có khả năng dự báo cho

thời kì tiếp theo “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của nhân dân”. Nhiệm vụ tổng quan trong
chiến lược 10 năm được cụ thể hóa hơn trong bản kế hoạch 5 năm 2001-2005 và
được hoàn thiện trong kế hoach 5 năm 2006-2010. Trong mục tiêu của bản kế
hoạch này nhắc lại một lần nữa "tầm nhìn" đến năm 2020, đó là sự định hướng
xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội cho cả thời kỳ chiến lược.
Sự cụ thể hóa mục tiêu chiến lược trong bản kế hoạch 2006-2010 không chỉ
dừng lại ở đó. Từ mục tiêu tổng quát còn được cụ thể thành các nhiệm vụ chủ
yếu:
2. Các nhiệm vụ chủ yếu
2.1. Nhóm nhiệm vụ về kinh tế- đối ngoại:
Nhóm nhiệm vụ này được xác định để thực hiện mục tiêu tổng quát "đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả của sự phát triển", "sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". " Đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại
hóa tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020".
Thứ nhất, nhiệm vụ đặt ra là phải quan tâm, chú trọng hơn nữa tới lực
lượng sản xuất gồm người lao động, tư liệu sản xuất và khoa học công nghệ, cần
giải phóng và phát triển mạnh mẽ không để lãng phí hay để rơi vào tình trạng hoạt
động kém hiệu quả của các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất. Đồng thời phải xem
xét, nắm bắt mọi tiềm năng của đất nước tận dụng phát huy một cách triệt để và
sử dụng các nguồn lực về vốn, lao động hay kĩ thuật có hiệu quả góp phần vào
tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Để hướng tới một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại cần thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
10
nhanh chóng vì vậy phải tạo ra những bước đột phá trong xây dựng kết cấu hạ
tầng và đặc biệt phải dần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi tỷ trọng của công
nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp trong nền kinh tế. Và để trở thành một nước công
nghiệp cơ bản cũng cần đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có
thu nhập thấp- là bước tiến dần trên các nấc thang đi tới mục tiêu.

Thứ hai, để "đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế", "sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển" thì cần bắt nhịp với nền kinh tế thế giới do đó phải
"chuyển mạnh sang kinh tế thị trường" tức là một nền kinh tế với tính tự chủ cao
của các chủ thể kinh tế, với giá cả xác định ngay trên thị trường và mọi hoạt động
trong nền kinh tế phải diễn ra trong cạnh tranh. Chuyển sang nền kinh tế này cũng
phải thực hiện yêu cầu theo nguyên tắc của thị trường tức là phải tuân theo các
quy luật giá trị, cung cầu và quy luật lưu thông tiền tệ. Để có một nền kinh tế phát
triển mạnh mẽ có tốc độ tăng trưởng cao thì cần phải biết kết hợp hình thành và
hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường theo thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Tức là tạo một thị trường phát triển mạnh mẽ "tự do trong
khuôn khổ". Sự đồng bộ của thị trường nghĩa là hệ thống thị trường với đầy đủ
các loại hình: thị trường tiền tệ, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị
trường đất đai, thị trường hàng hóa dịch vụ ... Các thị trường này vừa độc lập với
nhau vừa liên hệ với nhau trong hệ thống thị trường.
Thứ ba, luôn chuẩn bị sẵn tư tưởng, tinh thần, tư thế để tham gia vào nền
kinh tế quốc tế. Trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác về các lĩnh vực với đối
tác nước ngoài bên cạnh việc học hỏi tiếp thu phải nâng cao khả năng độc lập tự
chủ, "hòa nhập mà không hòa tan".
Các nội dung này đã thể hiện được những bước đi tiếp theo sau những bước
tăng trưởng của kế hoạch 5 năm 2001-2005. Năng lực sản xuất được cải thiện, sản
xuất đang hướng mở rộng về quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng qua
các năm. Cơ cấu đầu tư có sự chuyển biến mạnh về chất. Do đó giải phóng và
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất là nhiệm vụ tiên quyết. Kinh tế thị trường
là điều kiện đưa nước ta tiếp cận với nền công nghiệp hiện đại. Nguyên tắc thị
11
trường được áp dụng triệt để trong mọi hoạt động kinh tế. Đặc biệt khi Việt Nam
đang hướng đến hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Do đó nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế
thị trường là điều kiện cần cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế giai
đoạn 2006-2010 và hướng đến mục tiêu đến 2010 GDP tăng gấp đôi năm 2000.
2.2. Nhóm nhiệm vụ về xã hội con người:

Điểm khác biệt với hệ thống kế hoạch hóa tập trung là không những đề cập
về kinh tế mà vấn đề xã hội và môi trường cũng là nhiệm vụ chủ yếu trong định
hướng phát triển kinh tế dài hạn, đây là các yếu tố tạo ra sự phát triển bền vững.
Một trong những tác động gián tiếp của chính phủ đến việc nâng cao chất
lượng của sự phát triển là hướng tới nhu cầu của xã hội, đảm bảo việc sử dụng
hiệu quả nguồn lực. Nhiệm vụ này không chỉ đáp ứng mục tiêu cho kỳ kế kế
hoạch mà đồng thời cũng chính là mục tiêu của toàn chiến lược. Kế hoạch 2001-
2005 đã hoàn thiện mục tiêu này ở một mức nhất định và kế hoạch 2006-2010 là
bước kế tiếp của mục tiêu nhằm hoàn chỉnh mức chỉ tiêu của cả kỳ chiến lược.
Bên cạnh đó, công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, bảo vệ môi
trường, nâng cao đời sống tinh thần và kiểm soát tốc độ tăng dân số luôn là nhiệm
vụ trọng tâm trong hệ thống các nhiệm vụ của kế hoạch đặt ra. Vì mục tiêu của
chúng ta là dân giàu, nước mạnh. Dân giàu không chỉ là giàu về kinh tế mà còn
phải giàu về sức khỏe, giàu về tinh thần. Đây là yêu cầu mà các các cấp chính
quyền cũng như các hộ kinh doanh đều phải hướng tới. Việc xác đinh mục tiêu
này cũng chính là định hướng cơ bản cho các tổ chức, các cá nhân khi tiến hành
các hoạt động của mình.
Việc thực hiện công bằng xã hội và bình đẳng giới, giải quyết việc làm là
một trong những yếu tố để đảm bảo và thực hiện vấn đề về con người. Việc xóa
đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là một trong những yêu cầu đòi
hỏi sự định hướng ở tầm vĩ mô của Chính phủ, từ đó các ngành, các địa phương
triển khai thực hiện các giải pháp xóa đói giảm nghèo. Cùng với đó là vấn đề bình
đẳng giới, đó là sự công bằng giữa nam giới và nữ giới trong mọi vấn đề của xã
12

×